(Marốc)
trả lời phỏng vấn của Người đưa tin UNESCO
... một cách đối phó với cuộc đời và đối mặt với lịch sử.
Là nhà thơ và nhà tiểu thuyết Marốc nắm vững hai nền văn hóa Arập và Pháp, Tahar ben Jelloun trở thành nhà văn Arập đầu tiên được Giải Goncourt - uy tín nhất trong các giải thưởng văn học của Pháp - về cuốn La Nult Sacrée (Đêm Thiêng - 1987).
Trong những tác phẩm đã xuất bản của ông, đáng kể nhất là Cicatrices du soleil (Sẹo mặt trời - 1976), Moha le fou Moha le Sage (Maha điên dại Moha hiền triết - 1978), L’enfant de sable (Bé cát - 1985) và gần đây, cuốn tiểu thuyết Les yeux baissés (Mắt nhìn xuống - 1991) được tặng giải Hémisphères (Bán cầu), giải văn học Pháp ngữ, và tập tiểu luận Galcomettl (1991). Cuốn La remontée des cendres (Tro tàn bốc lên), một trường ca về cuộc chiến vùng Vịnh sẽ ra mắt vào tháng 9/91 (nxb Seuil, Paris).
Lắng nghe những đau thương và hy vọng của con người Arập, nhưng đồng thời cũng chăm chú theo dõi những run rẩy của tự do trên toàn thế giới, say mê chân lý và công bằng, ông nói rõ dưới đây ý nghĩa sự “nhập cuộc” của mình.
Ta hãy bắt đầu từ... đầu: một nhà văn Arập viết bằng tiếng Pháp, điều đó có nghĩa gì?
- Tôi thuộc vào loại đặc biệt các nhà văn nói và viết một thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình. Tôi là người Marốc, người Arập. Tôi có nền văn hóa Arập, Hồi giáo, nhưng khi bắt đầu viết, tự nhiên tôi dùng tiếng của người thực dân cũ đã bảo hộ chúng tôi, tiếng Pháp, để tự biểu đạt. Đó là một nghịch lý nảy sinh từ một tình huống lịch sử. Marốc, một nước dưới sự bảo hộ của Pháp từ 1912 đến 1956, đã tiếp thu được văn hóa Pháp mà không mất đi chút nào bản sắc của mình. Biểu đạt bằng tiếng Pháp, tôi không hề thấy lương tâm cắn rứt, cũng chẳng có cảm giác rằng mình đang tiếp nối công việc của thực dân. Thực ra, những gì tôi biểu đạt bằng tiếng Pháp rất có thể diễn tả bằng bất kỳ ngôn ngữ nào khác.
Dù sao đi nữa, việc không dùng tiếng của dân tộc tôi hẳn đã cho phép tôi phóng túng với một số chủ đề mà tôi không thể tùy tiện đề cập bằng tiếng Arập, ngôn ngữ của kinh Coran - ngôn ngữ này đương nhiên làm tôi sợ. Một mặt có những húy kỵ, những điều cấm; mặt khác là ý thức liêm sỉ của bản thân tôi. Chúng tôi khó mà xử tệ với tiếng Arập được.
Ông muốn nói ngôn ngữ của sự trung thành, bất biến, đó là tiếng mẹ đẻ của ông, còn những táo bạo, phiêu lưu mạo hiểm trong thế giới thì cần được biểu hiện bằng một thứ tiếng nước ngoài?
- Phải, điều đó trợ giúp và giải phóng trí tưởng tượng. Đối với nhiều người, thơ là sự làm việc trên các từ, trên ngôn ngữ. Khó mà quan niệm một nhà thơ biểu đạt bằng một thứ tiếng khác tiếng của dân tộc mình. Nhưng còn có một quan niệm thứ hai về thơ, mà tôi cho là rộng rãi hơn và dung hòa hơn. Thơ đối với tôi là một tình huống - một trạng thái hiện hữu trong đời sống, một cách đối diện với cuộc đời và đối mặt với lịch sử. Thơ không phải chỉ là những từ được chọn lựa trong tương quan với nhau, nó đi xa hơn thế để đem lại một cái gì thuộc về cách nhìn thế giới của chúng ta, bằng hình ảnh, qua một cõi âm nhạc. Và cõi đó có thể biểu đạt bằng những từ và âm tiết không phải của tiếng mẹ đẻ.
Dù sao tôi vẫn là khách của tiếng Pháp. Những bài thơ tiếng Pháp của tôi là sự làm việc trên tiếng Pháp, công việc mà tôi làm theo cách của tôi, chứ không phải như một người Pháp...
Chính thế. Từ tiếng Pháp đến thế giới của ông và từ thế giới ấy đến tiếng Pháp, đã có một thứ thích ứng nào?
- Không có thích ứng, đúng hơn, chỉ có một sự hôn phối, một kiểu “lấy lẽ” mà tôi đã thiết lập với tiếng Pháp, khiến tôi đem lại cho thứ ngôn ngữ khá đậm màu Descartes này một sự thân mật, một ký ức khác. Tôi đưa nó vào một cõi mà lẽ ra nó không bao giờ có thể vào được... Này nhé, ông có thể cử một nhà xã hội học, một nhà nghiên cứu hoặc một nhà báo Pháp sang làm một cuộc điều tra ở Marốc. Anh ta sẽ thấy ra nhiều sự việc, nhưng không phải là những điều mà tôi thấy từ trong ruột sự gắn bó mật thiết của tôi với thế giới Arập và Marốc. Người điều tra sẽ không thấy những cái đó, anh ta sẽ không thể biểu đạt được chúng.
Theo một cách nào đó, vậy chính chúng tôi, những nhà văn Arập viết tiếng Pháp, là những người mở lòng hiếu khách đón tiếng Pháp! Không những chúng tôi chọn nó, mà còn mời nó về nhà, biến cải nó, đưa nó vào những mạch, những nơi nó không quen tới... Đôi khi nó bị lạc, nhưng càng tốt, vì đó là một nghệ thuật hơi cứng, trừ khi nó ở trong tay các nhà thơ lớn như Mallarmé, hay Baudelaire, hay Rimbaud. Jean Genet thì biến tiếng Pháp thành một nàng công chúa đẹp nổi loạn. Nhưng những gì Kateb Yacine hoặc Aimé Césaire, hai nhà thơ Pháp ngữ lớn, đã làm với tiếng Pháp, thì không mấy nhà thơ Pháp đã làm. Đó là những nhà sáng tạo đã đi rất xa trong cách thể hiện, trong tim tôi trong sự đòi hỏi của phép viết.
Họ mang đến những hình ảnh khác? Những âm sắc khác?
Trên hết, là một cách khác. Thơ là một thứ toán học, một quan hệ rất nghiêm ngặt với các từ. Thiên tài của một Césaire là biết chọn các từ một cách chính xác ghê gớm và hôn phối chúng sao cho chúng đẻ ra những hình ảnh bất ngờ. Như vậy, ông tạo những cửa thông mới vào nghĩa, thật la lùng và trác tuyệt. Đó là cái đẹp và điều đó không thể giải thích về mặt kỹ thuật được. Cái đẹp, trước hết, là một sự xúc cảm. Khi đọc Cahiers d’un retour au pays natal (Nhật ký về một chuyến về thăm quê hương) (của Aimé Césaire - N.D) lần đầu tiên, tôi bàng hoàng. Và khi đọc Nedjma của Kateb Yacine cũng vậy. Có lẽ sự nhạy cảm của tôi lái tôi về những nhà văn tách biệt trong cõi riêng của mình.
Đối với họ cũng như đối với ông, việc viết bằng tiếng Pháp đã mở rộng hay thu hẹp công chúng của các ông ở nước nhà?
- Kể cũng lạ, nhưng quả thực việc viết và in sách bằng tiếng Pháp đã cho phép tôi giao lưu với một công chúng khá rộng rãi, kể cả ở Bắc Phi. Và công chúng đó đọc tôi bằng tiếng Pháp cũng như bằng tiếng Arập. Nhưng những người đọc tôi bằng tiếng Pháp vẫn nhiều hơn. Hẳn ở đây có một ý muốn đi tới tận gốc. Song cũng phải nói rằng trong giới xuất bản Arập, có sự lộn xộn đến nỗi hiện giờ tôi không tìm thấy công chúng của mình ở đó nữa. Nạn vi phạm quyền tác giả gây tác hại ghê gớm, bọn vi phạm không những ăn cắp bản dịch, mà còn biến nó thành một bản khác, bóp méo và làm mất chất tác phẩm của anh, gây tổn hại đến quan hệ của anh với công chúng. Chưa kể những nước mà ở đó, sách bị cấm chỉ vì đoạn này đụng đến tình dục, đoạn kia phạm chính trị, chẳng hạn.
Tôi nghĩ rằng, nhìn chung, tình hình xuất bản hiện nay ở thế giới Arập là nghiêm trọng. Những gì được xuất bản ở đó không phải bao giờ cũng theo những tiêu chuẩn nghiêm túc. Người ta xuất bản rất nhiều, đôi khi có của tốt, nhưng đa số là xấu. Có một sự hỗn độn, phản ánh tình hình chung.
Như thế nào?
- Về toàn cục, thế giới Arập đã đặt mình vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng từ bốn chục năm nay. Tôi nói “đặt mình” vì nó đã biến sự khủng hoảng ấy thành một trạng thái hiện hữu ngự trị trong từng người, làm họ cằn cỗi, tê liệt đà sáng tạo. Như thể thế giới Arập không trải qua những nỗi đau khổ đủ lớn để đẻ ra những nhà văn lớn như Dostoievski, những nhà văn sinh ra từ đau đớn, nhục nhằn. Có thể chúng tôi còn chưa tới đáy vực.
Chúng tôi không có nhiều trí thức đủ tư cách phát ngôn nhân danh chúng tôi trên quy mô toàn thế giới. Chúng tôi không có những nhà văn được công nhận, kính trọng và yêu mến ở bên ngoài thế giới Arập. Có thể nói, đối với phần còn lại của thế giới, Naguib Mahfouz mới chỉ tồn tại từ hai năm nay, từ khi ông được Giải Nobel! Nói cho cùng, người ta chỉ quan tâm đến thế giới Arập trong trường hợp tai họa. Ở châu Âu, có ai biết đến Youssef Idriss, và Edouard Kharrat, và Chaker Essayab? Ở châu Âu, chỉ những người ủng hộ sự nghiệp của nhân dân Palestine là biết Mahmoud Darwich, mà không phải là tất cả!
Nhưng kìa, ông đi lạc đề rồi...
- Nếu chúng tôi không có những trí thức Arập tầm cỡ quốc tế, đó là vì chúng tôi sống trong một tình trạng xoàng xĩnh phổ biến, vì chúng tôi lơ lửng trong vực thẳm mà không tới đáy, như tôi vừa nói lúc nãy; và mặt khác vì thế giới nhìn chúng tôi không phải với ý muốn lành mạnh là tìm hiểu. Hai khía cạnh đó bổ sung nhau, tôi nghĩ thế.
Ta thử đi sâu vào khía cạnh thứ nhất xem. Cái gì ngăn trở sáng tạo? Cương vị người trí thức?
- Đối với tôi, nhà trí thức, người của tư duy, hoài nghi và phân tích, theo định nghĩa, phải cống hiến phần tốt đẹp nhất của bản thân. Vì thế, anh ta có thể lâm vào hai tình huống tách biệt: hoặc anh ta ở một đất nước có tự do - tự do thực sự chứ không phải thứ tự do bề ngoài - hoặc ở một đất nước mà sự đàn áp đẩy sự phẫn uất trong anh ta đến độ bùng nổ. Anh ta không thể sống trong nhục nhằn, đàn áp, sợ hãi, im lặng được nữa. Trong cả hai trường hợp, anh ta đều có thể sáng tạo.
Nhưng người trí thức cũng có thể ở trong một tình thế mập mờ, nhập nhằng nhỏ nhớt. Đó thường là trường hợp chúng tôi. Chúng tôi đã thiết lập được gì từ khi Thế Chiến II kết thúc? Chúng tôi đã thiết lập, hay nói cho đúng hơn, chúng tôi đã để cho người ta tạo dựng những chế độ tiểu tư sản trong đó tất cả đều trung bình, quắt lại, xoàng xĩnh. Trong tình thế “làng nhàng bậc trung” ấy mà tôi gọi là xoàng xĩnh, có những trí thức cố gắng tồn tại. Nhưng tình cảnh của họ thật khó khăn. Những người có can đảm chống đối thường phải trả giá rất đắt cho thái độ của họ. Chúng ta cần phải tỏ lòng kính trọng họ.
Phải chăng cũng có cái thói quen “suy nghĩ chung”, cái nỗi sợ trở thành khác biệt, tách ra khỏi cộng đồng? Nói cho cùng, trong cái tình thế trung bình ấy, người ta cảm thấy an toàn hơn...
- Có một hằng số, một cái gì hiện diện ở khắp nơi: cá nhân, với tư cách là thực thể duy nhất, với tư cách là con người đơn lẻ, không được công nhận. Không được công nhận thực sự, đầy đủ. Cả đến bây giờ, muốn nói sao thì nói, người ta vẫn mới chỉ công nhận những gì đằng sau cá nhân: thị tộc, gia đình, bộ lạc, phường quận hay làng xã, chứ không phải sự biểu hiện tính đơn nhất của cá nhân. Vậy mà một nền văn minh hiện đại chỉ có thể có khi người ta chấp nhận rằng những con người đơn nhất tồn tại và tự do biểu hiện mình.
Trong những xã hội của chúng ta, khi một người tuyên bố không đồng tình với sự nhất trí chung, khi người đó không hòa mình, “đồng thành, đồng tâm” với phần còn lại của bộ tộc, anh (hoặc chị) ta sẽ bị gạt bỏ? Đó là một giọng lạc điệu trong một hợp xướng đồng thanh. Điều đó không thể tha thứ được.
Tất nhiên, có những mức độ, sắc thái và cả những bước đi trước nữa. Chẳng hạn, theo tôi, Ai Cập đang trong quá trình phá vỡ sơ đồ ấy, hẳn là vì nước này có một chiều sâu lịch sử rất lớn và đã thực hành nền dân chủ hiện đại từ năm 1923... Về mặt lịch sử, Ai Cập đã đi một bước trước, đã có thì giờ đào luyện đầu óc mọi người sẵn sàng sử dụng quyền công dân. Đó là một nước đã trải qua nhiều thử thách nhất để đạt tới chỗ đó...
Công bằng ra, đáng lẽ còn phải kể thêm một số đột phá ở các nước Arập khác. Song, có điều chắc chắn là con đường còn dài. Nói chung, tính chủ thể vẫn còn bị phỉ báng. Người ta không hiểu rằng nhà văn hoặc nhà làm phim khảo cứu cái bản ngã của mình và thể hiện nó trước công chúng.
Lấy thí dụ nữ ca sĩ lớn Ai Cập Om Kalsoum. Khi cất tiếng hát, chị làm rung động trái tim hàng chục triệu người Arập. Đó có phải là chủ quan hay không?
- Đó là một cái gì giữa chủ quan và những giá trị được chia sẻ rộng rãi. Om Kalsoum tác động trên một dãy cảm xúc, nhưng những cảm xúc ấy hòa hợp quanh những nguyên mẫu, những tình cảm cách điệu, có phần ước lệ. Hiếm khi chị đụng đến những mối ngổn ngang sâu kín của bản ngã; những bài hát của chị rất gần với cái mà ta có thể gọi là “chủ quan tập thể”...
Ông cứ đương nhiên so sánh các xã hội phương Tây với các xã hội Arập. Còn phải phân tích, giải thích chứ. Nếu các trí thức trong thế giới Arập không mấy khi được đóng vai trò ưu đẳng, thì làm sao họ được như bây giờ và làm thế nào họ có thể thoát ra khỏi cái ngõ cụt hiện nay? Ở phương Tây, những thay đổi được du nhập, trước hết, là do các trí thức và các nhà văn.
- Hiện tại thì tôi không thấy là giới trí thức có thể đem lại thay đổi. Vì một lý do đơn giản và ghê gớm, là giữa các dân tộc Arập và các trí thức Arập có một cái hố, một cái vực ngăn cách...
Ở thế kỷ 18, giữa Voltaire và nông dân Pháp, có mối liên hệ chặt chẽ thế không?
- Bao giờ và ở đâu, cũng vẫn có một quan hệ tranh cãi, thậm chí đôi khi dữ dội, giữa các trí thức và nhân dân. Nhưng điều quan trọng là có quan hệ. Vậy mà, trong thế giới Arập, từ khi thực dân gây ra những đổ vỡ, mối liên hệ giữa những tập quán văn hóa của nhân dân với cách suy nghĩ và sáng tạo của giới trí thức hiện đại không còn nữa. Họ thành hai thế giới tách biệt. Thí dụ duy nhất tôi có thể nghĩ ra về sự phù hợp khăng khít giữa nhân dân và trí thức trong những năm gần đây là cặp bài trùng Cheikh Imam (nhạc sĩ) - Pouad Nagm (nhà thơ - biểu diễn) ở Ai Cập. Mà thông điệp của họ lại phải truyền đạt qua một phương tiện rất đại chúng là dân ca thu vào băng cát-xét. Nếu chỉ là những nhà văn ru rú trong xó của mình thì ắt chẳng có sự cộng sinh đó.
Tôi xin nói thêm rằng tuy họ rất nổi tiếng, song chỉ trong phạm vi một luồng dư luận trí thức và đấu tranh mà thôi. Họ không với tới được quần chúng nông dân, mà chỉ tới giới trí thức, theo nghĩa rộng của từ này: không riêng các trí thức, các nhà tư tưởng, mà cả hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn người biết đọc báo, xem truyền hình, sống ở thành phố, có khi còn đi du lịch... tóm lại, những người chịu ảnh hưởng của điện ảnh, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình.
Trong trường hợp tốt nhất, các nhà văn, họa sĩ, điêu khắc, nhà thơ, có thể tác động đến cái khối đó. Nhưng họ không thể với tới đại đa số nhân dân, nhất là nông dân. Họ có thể đạt được điều đó dần dần nếu các phương tiện thông tin đại chúng ra sức giới thiệu họ, giúp họ truyền đạt thông điệp đến đa số nhân dân. Nhưng, nói chung, những phương tiện đó chỉ rộng mở với những người làm các thể loại dễ dãi, vô hại - ca sĩ mùi mẫn và diễn viên sân khấu hoặc điện ảnh.
Những thứ người ta phát đi suốt ngày là những kịch hoặc phim nhiều tập lố lăng truyền bá một hệ tư tưởng rất thấp kém. Dân chúng không xem cái gì khác. Trong những điều kiện ấy, đa số trí thức xứng đáng với cái tên ấy chỉ có thể làm được một điều - quyết định giữ thái độ im lặng khiêm tốn, ẩn dật làm công việc của mình, xa mọi thứ. Và tôi nghĩ đó không phải là một nỗi nhục, trái hẳn lại, rút lui và tiến hành công trình của mình, với hy vọng rằng sau này những thế hệ mới sẽ phát hiện ra sự nghiệp của họ và yêu mến nó.
Nếu ông nghĩ rằng hiện tại chẳng có mấy hy vọng về phía các trí thức, thì thay đổi sẽ từ đâu đến?
- Ta hãy suy nghĩ về thí dụ châu Âu. Cho đến, thời kỳ rất gần đây, ở châu Âu vẫn còn có ba chính thể độc tài hùng mạnh: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp. Đối với các nước đó, tương lai dường như tắc tị hoàn toàn, người ta không thấy bằng cách nào họ có thể thoát ra được. Vậy mà những nước đó đã hồi sinh được, trước hết nhờ thấy lại một tính hợp pháp chính trị. Cuối cùng, họ đã phải thừa nhận cái ý tưởng rất đơn giản này: muốn lãnh đạo một nước, chính quyền phải thường tổ chức hội nghị “tư vấn” toàn quốc, qua đó mỗi người có thể đề xuất chương trình trị quốc của mình.
Mọi sự bắt đầu từ lúc người ta phi thánh hóa chính quyền và lúc nhà chính khách lên nắm quyền không phải vì anh ta mua được khẩu tiểu liên tốt nhất, hoặc vì anh ta tìm ra thời điểm thuận lợi nhất để lật đổ, đồng chí của mình, mà vì anh ta có cái nhìn về tương lai, một cương lĩnh khiến anh ta giành được đa số tín nhiệm mình.
Ơ kìa, chẳng phải ông đang đặt cái cày trước con bò đó sao? Để đến nước ấy…
Phải, cố nhiên rồi, đó là công việc của giới trí thức. Đó là một công việc rất gian khổ, rất dài, và không phải bằng cách làm văn học dấn thân, tôi muốn nói là văn học tư tưởng, mà ta có thể khiến cho mọi người nhận thức ra vấn đề. Có hai phương diện: phương diện lao động thuần túy chính trị, rồi phương diện lao động sáng tạo. Nói chung, hai thứ lao động ấy không trùng lặp nhau, nếu không thì sẽ đem lại một thứ văn học, hay một thứ nghệ thuật, thoát phàm, vô bổ.
Người trí thức có thể chuẩn bị mảnh đất cho những tiến bộ tương lai này như thế nào?
- Họ phải làm cho bộ óc con người quen với sự tồn tại của hoài nghi, của phê phán, của phản bác, đề cao lòng dũng cảm dám chống đối, hợp pháp hóa quyền cự tuyệt, quyền được đơn độc, được thoát ra khỏi số phận. Về việc đó, người sáng tạo được quyền nói ra, mỗi người theo cách riêng của mình, trong lĩnh vực riêng của mình, ai nấy đều lao động theo những yêu cầu gắt gao, nghiêm khắc.
Có thể có hai cách: hoặc là, người sáng tạo lao động theo nhịp độ riêng của mình và đòi hỏi riêng của mình, không bận tâm đến việc quần chúng của họ có hiểu họ hay không. Hoặc là, họ tìm cách đầu tư vào những lĩnh vực và những địa điểm nơi ngày nay văn hóa được xúc tiến vì đông đảo quần chúng. Rủi thay, người ta không thể bỏ qua một phương tiện quan trọng là truyền hình. Đó là một đối tượng dặc biệt, phải biết cách sử dụng nó, học cách làm việc ở đấy, biểu đạt những giá trị mới ở đấy. Và cố nhiên, chiến đấu vì nó. Như ở khắp mọi nơi, những ý tưởng mới phải đương đầu với những ý tưởng cũ. Ta phải trở lại với ví dụ Châu Âu. Châu Âu không phải bao giờ cũng như hiện nay. Người ta đã phải chiến đấu để có được như ngày nay. Tự do không phải là thứ mà người ta nhận được khi thức dậy vào một sáng đẹp trời, như cái bánh sừng bò trong bữa sáng. Phải xứng đáng với nó. Phải luôn cảnh giác, vì không có thứ gì tồn tại mãi mãi.
Nhưng đối với trí thức thì bắt đầu bằng gì?
- Bắt đầu bằng việc thể hiện mình. Song tình hình hiện nay như thế nào? Tôi thấy tồn tại một cái vung khổng lồ bằng chì. Ta không nghe thấy tiếng nói của trí thức. Có thể họ có thể hiện mình đấy nhưng tiếng nói của họ không đến được với ta chăng? Có lẽ thế. Hay có lẽ họ đang gào thét mà ta vẫn không nghe thấy gì.
Phải chăng còn có một vấn đề lớn, căn bản, đó là khả năng tự do liên lạc với phần còn lại của thế giới, hiểu biết những gì diễn ra ở các nơi khác, tư duy của những người khác?
- Đúng thế, thông tin thì kém mà lại không thúc đẩy mọi người tìm hiểu. Đã thế lại còn có những tiếng đồn từ phía dân chúng. Nó thật ghê gớm. Đó là vũ khí của những người tay không mà. Những xì xầm, châm biếm, mỉa mai. Những thứ đó có thể rất đáng kể, nhưng rõ ràng là chưa đủ.
Theo ông, trong các lĩnh vực tiểu thuyết, nghệ thuật, văn học, những người đã hoặc đang xắn những luống cày cho tương lai, họ là ai? Ông đã kể ra Naguib Mahfouz…
- Đúng, Mahfouz, đó là tượng đài dân tộc của chúng tôi. Nhưng chớ có quên trước ông ấy đã có Taha Hussein! Lại còn có Al Sayyab, người Irắc, qua đời tại Côoét năm 1962 - tôi coi ông này là một thi hào rất lớn. Đi trước thời đại mình, hiện đại, ông ấy đã mở ra những nẻo đường quan trọng trong thi ca Arập. Ông ấy có một thế giới quan hết sức toàn cầu chủ nghĩa mà đồng thời lại có cội rễ vững chãi trong quê hương Irắc của mình. Với một sự khắt khe ghê gớm trong cách sử dụng ngôn ngữ Arập.
Còn Adonis thì lại đem đến cho ngôn ngữ này một sự thúc đẩy mới, song theo tôi cái thúc đẩy ấy hãy còn dang dở. Thơ ông rất kỹ thuật, rất trí tuệ. Mahmoud Darwich thì ngược lại. Đó là một nhà thơ hào phóng trong ngôn từ, có ý thức về hình ảnh, nhận thức rất khoáng đạt, nói với quần chúng đông đảo. Điều lý tưởng là một sự hòa trộn giữa Adonis và Darwich, như thế ta sẽ có được thi nhân vĩ đại nhất thế giới Arập... Nhưng không có… Vả chăng, có rất ít thi sĩ vĩ đại trên thế giới.
Thế còn các tác giả truyện ngắn?
- Có một số tác giả truyện ngắn đã làm được những việc rất tốt. Trước hết là Youssef Idris, rất tài ba. Tôi coi ông ngang với William Faulkner. Chỉ trong rất ít trang viết, ông đã thể hiện những mối quan tâm của cả một xã hội. Trong một mẩu tin vặt, thông qua một nhân vật mà về sau người ta quên ngay, ông đã để lại trong chúng ta những dấu ấn không phai mờ. Idriss là một nhà văn lớn.
Còn giới họa sĩ?
- Giới họa sĩ mà tôi yêu thích thường là trừu tượng. Đối vói tôi, họa sĩ lớn nhất trong số này là một họa sĩ Marốc, Ahmed Charkawi. Ông qua đời khi còn rất trẻ, ở tuổi 36, năm 1967. Đó là một họa sĩ gây những ấn tượng mạnh. Tranh ông dùng những mầu và những ký hiệu cơ bản trong thế giới hữu thức hay vô thức của chúng tôi, thế giới của người Arập và người Phi.
Tất cả công cuộc lao động bề sâu về ngôn ngữ, ký hiệu và hình ảnh này, công cuộc cày xới một lớp đất dẫn tới tính hiện đại, chuẩn bị đầu óc con người cho bước thụt lùi, cho tự do, liệu nó có bao gồm một diễn từ “phá” hay một diễn từ “xây” không; liệu nó có phải là một công cuộc tìm cách thỏa hiệp giữa cái ở bên trong với cái ở bên ngoài, giữa cái cũ với cái mới, hay nó lại là một căng thẳng ghê gớm nhằm làm đứt đoạn những chuỗi liên tục?
- Trong giai đoạn đầu, theo cảm nghĩ của tôi, cần có một ngôn ngữ “phá”, nhằm tạo ra cú sốc và thức tỉnh đầu óc. Trong giai đoạn thứ hai, cần tìm kiếm những bước nhích lại gần nhau. Nhất là cần thôi tự coi mình là nạn nhân của phương Tây hoặc là kẻ phủ định phương Tây. Phải cùng với nó tham gia công cuộc xây dựng lại thế giới trên cơ sở bình đẳng. Nói lên tiếng nói của chúng tôi, không phải bằng bạo lực hoặc gây hấn hay sợ hãi. Nói lên tiếng nói của chúng tôi một cách êm đềm mà mạnh mẽ. Chúng tôi chỉ có thể bước vào kỷ nguyên mới của thế giới bằng cách chấp nhận trò chơi đối thoại với kẻ khác. Và chỉ bằng cách để người khác vào trong nhà mình, vào trong đất nước của chính mình, thì người ta mới đi đến chỗ tôn trọng người hàng xóm và được tôn trọng lại. Đến lúc bấy giờ ta có thể cùng nhau hình dung ra tương lai chung của chúng ta. Muốn cho Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người thì chúng ta phải tôn trọng giữa chúng ta với nhau. Để làm sao đứa trẻ khi ra đời mở mắt ra là thấy sự tôn trọng của người đàn ông đối với người đàn bà, và ngược lại.
Thế còn trước tác của ông, đó là trước tác phá hay xây?
- Tôi đến với thơ bởi có đòi hỏi cấp bách phải tố cáo bất công, bóc lột và lăng mạ. Tôi biết rằng việc ấy không đủ để làm thay đổi thế giới. Nhưng im lặng lại có thể là một kiểu đồng lõa không thể chịu đựng nổi.
Phá là ở chỗ ấy: phá vỡ sự tẻ nhạt kéo dài của im lặng. Nói lên bằng thơ ý chí và khát vọng về một thế giới nhân văn hơn. Trong khi vẫn thừa nhận những giới hạn của văn chương. Dẫu vậy, vẫn phải viết, dẫu rằng, hoặc nhất là, con người ta không phài là đặc biệt thiện tâm hoặc chỉ đơn thuần thiện cảm .
Những nhân vật và những chủ đề nào trong trước tác của ông mà ngày nay ông coi là tiêu biểu nhất cho bước đi của ông?
- Các nhân vật của tôi thường mang trong mình quyết tâm dữ dội phải lập lại công bằng. Trong công cuộc này, họ là những kẻ nổi loạn và không thể mua chuộc. Tôi xin kể ra hai người: một người nữ là Harrouda, và một người nam là Moha. Hai người này, trong những cuốn sách khác nhau, nói lên những thương tích của những dân tộc Bắc Phi. Họ có thể là lớp người bên lề xã hội đáy, nhưng họ bày tỏ mãnh liệt niềm say mê chân lý và phẩm giá. Khi tôi nghĩ về công việc của tôi sau một khoảng cách về thời gian, tôi nhận ra tôi đã viết về những kẻ có phận đời khốn cùng, dù đó là cảnh ngộ của những người nhập cư, thân phận những người đàn bà không có những quyền pháp lý như đàn ông, người Palextin bị tước đoạt mất mảnh đất của mình và bị đẩy vào cảnh lưu vong và vô vọng…Ngay cả khi tôi dành cho nhà điêu khắc Giacometti một cuốn sách nhỏ, thì ở đó vẫn là những chủ đề mà tôi đã triển khai, chủ đề cô đơn, cùng quẫn, hãi hùng.,..
Vốn là người yêu quý cuộc sống mặc dầu nó có những khiếm khuyết, yêu quý tình bằng hữu, yêu thích hài hước và tiếng cười, tôi thực ra đã viết về những vết thương, về những phản phúc muôn đời trong cuộc sống. Không vui nhộn lắm đâu, nhưng là thành tâm. Thành tâm, đó là cam kết của tôi.
Người đưa tin UNESCO, tháng 8- 9 / 1991