(Môrixơ)
trò chuyện với Jasmina Sopova1
Điều quan trọng là lộ trình của mình đi qua những nơi có người ở…
Nằm trong lòng nền văn học bằng tiếng Pháp, Edouard J.Maunick, nhà thơ của đảo Môrixơ, là một trong những người đang thể hiện và bênh vực một cách xuất sắc nhất những giá trị của sự phối chủng. Là tác giả của khoảng hơn một chục đầu sách, trong đó có cuốn Ensoleillé vif được tặng giải thưởng Apollinaire năm 1977, ông lấy sự gặp gỡ với bản ngã và với tha ngã làm cốt lõi cho thi phẩm của mình. Thơ ông cũng ca ngợi sự huyền diệu của một thời thơ ấu và niên thiếu đã qua trên hòn đảo quê hương, nơi một sự đa nguyên văn hóa nảy nở như một hiện thực sống. Sau gần mười năm làm Giám đốc Tủ sách các tác phẩm tiêu biểu của UNESCO, ông hiện là Phó Tổng biên tập tạp chí Jeune Afrique.
1 Nhà nữ tiểu luận Maxêđôni
Ông ưa nói mình là một người “đảo hóa” chứ không phải đơn thuần là một người dân đảo. Như vậy nghĩa là như thế nào?
- Tôi nói “đảo hóa” là tôi cho rằng tính đảo được quyết định bởi cả nơi chôn rau cắt rốn lẫn con người sinh thành ở đó. Tôi xin giải thích: khi anh sinh ra trên một hòn đảo và anh sống ở đó nhiều năm, dần dà anh nhiễm những thái độ đặc thù của đảo lúc nào không biết. Khi tôi nói đến con người “đảo hóa” là nhằm cái bản chất đó. Tôi đặt ra chữ đó do thấy cần phải chính xác hơn. Nó diễn đạt tốt hơn sự biến hóa từ con người thành đảo. Người ta sinh ra là dân đảo, rồi trở thành đảo hóa.
Đồng thời, ông cũng lại mô tả đảo như một khoảng “đất hẹp”, bị cầm tù giữa đại dương.
- Đảo Maurice rất nhỏ, đó là những tảng đá giữa biển cả mênh mông. Cho nên, khi đến tuổi biết nhận thức, đến tuổi bắt đầu tìm bản ngã, người ta không thể tránh khỏi các cảm giác bị bó hẹp về cả không gian vật chất lẫn tinh thần. Hòn đảo bao quanh anh, xiết chặt anh. Đôi khi, thậm chí anh thấy chật chội trong thân xác mình, trong da thịt mình, đó chí ít cũng là điều tôi cảm thấy một cách cụ thể và da diết, nhất là những lúc ở ven biển. Bờ biển là nơi đem lại cho tôi sự phát hiện.
Ông nói đến “những song sắt giam cầm của biển”. Nằm giữa trùng dương phải chăng là bị trời nguyền?
- Đảo là một không gian khép kín, biển là một con đường tới chốn khác, tới thế giới rộng lớn. Nhưng đồng thời biển còn có một chiều khác. Biển phì nhiêu về nhiều mặt. Tôi muốn nói là, khi nhìn theo chiều thẳng đứng của các ngọn đồi và cây cối, từ chân đến đỉnh, từ gốc đến ngọn, con mắt ta sẽ vọc giữa bầu trời mở ra bát ngát. Giữa mênh mông. Nhưng theo cách ấy, nhìn theo chiều nằm ngang, các cành cũng mở rộng không gian. Mắt ta đi xa hơn chiếc lá ở đầu mút. Cái trò chơi nhìn tới nhìn lui liên tục ấy, cuối cùng, quy định cái mà nhiều người gọi là tâm hồn, còn tôi thì không biết nên đặt tên là gì. Cũng chẳng sao, mọi thứ tràn bờ và vượt xa hơn nữa.
Như vậy, được giáo dục ở nhà trường của nắng, mưa và gió, của đá đỏ, mây và trăng sao, của tất cả những gì thường bị coi là vô tri giác, cái sự bó hẹp mà thoạt kỳ thủy, ta cảm thấy như là một rủa nguyền, một án quyết từ lúc lọt lòng, rất sớm gây một phản ứng vừa ghê gớm vừa dịu dàng, gọi là ngược ngạo. Sự ngược ngạo này khởi phát một chuyển động: đùng một cái ta quay phắt lại, mắt không dán vào trung tâm đất đảo nữa, ta hướng ra biển và chân trời trở thành một đất nước khác, những đất nước khác. Và từ đấy, bắt đầu mộng mơ niềm khao khát ra đi...
Từ đấy, cũng bắt đầu biệt xứ. Vừa mới ba mươi tuổi, ông đã rời đảo đến Paris. Về sau ông viết rằng, biệt xứ, dù là tự nguyện, vẫn là gian khó.
- Biệt xứ trở nên cực nhọc khi cô đơn đến. Một thứ cô đơn có liên quan với ký ức về những gì thiết yếu cắm rễ trong anh, hơn là với những kỷ niệm thông thường. Nếu không, tôi đâu có coi biệt xứ là một nỗi đau, bởi vì đó không chỉ là rời đất nước để đến một nơi khác. Đó cũng là bước tới mình, đó là quyết định nhận thức của bản thân mình. Sau khi đã sống qua những đau khổ cũng như kỳ diệu của chính mình, người ta cần biết đến cái Tha Ngã. Song điều thiết yếu vẫn là tự biết mình trước tiên. Sau đó, biệt xứ biến thành kiếm tìm. Và đó là sự lao mình vào địa lý bên trong của Tha Ngã, đồng thời trước hết phải giữ sao đừng bao giờ nhượng bộ cái cám dỗ muốn cho Tha Ngã giống như một chân dung của mình, lấy cớ phải đồng nhất hóa một số chi tiết.
Đó sẽ chỉ là sự Tha Ngã phục tùng nỗi háo hức quyền lực đang gặm nhấm tất cả chúng ta. Chia sẻ lại là chuyện khác. Làm như vậy biệt xứ trở thành một cơ may để hiểu biết. Một cuộc chu du huyền diệu...
Đọc thơ ông, người ta cảm thấy ở mỗi nơi trên trái đất mà cuộc viễn du đưa ông tới, ông đều phát hiện ra một mảnh của hòn đảo quê hương ông.
- Biệt xứ là đầy thiếu vắng, và để bù lấp thiếu vắng ấy, một phần của những điều gặp gỡ biến thành cái mà ta hằng nhớ. Phải, đâu đâu tôi cũng nhận ra những mẩu của tuổi thơ tôi, cái thời mà mọi cái đều làm tôi ngạc nhiên thích thú. Cộng vào cái ý chí thôi thúc coi hòn đảo của mình như một nơi khép kín bị loại ra khỏi thế giới, thơ tôi tải thêm một ước muốn đưa đất nước tôi xích lại gần các nước khác.
Thường là bằng cách sử dụng một số chủ đề quán xuyến, như kiểu “séga”, loại nhạc gốc Phi đặc trưng cho quần đảo Mascarenhas ở Ấn Độ Dương?
Đối với tôi, séga không những là loại nhạc đặc trưng cho quần đảo Mascarenhas, mà còn là một rung động, một phập phồng trong tận gan ruột. Sở dĩ tôi gợi đến séga, đó cũng là để cho rung động ấy hòa vào nhịp đập của thế giới. Tương tự như vậy, tuy tôi là kẻ kiếm tìm bản thân mình, song nếu không có những đám đông trên toàn cầu, tôi cũng chẳng là gì cả. Chính vì thế mà tôi cho rằng thế giới cần phải đoàn kết, rằng tên đích thực của thế giới mang ý nghĩa đoàn kết: ở bên nhau cùng nhau. Chia sẻ. Nếu ta không chia sẻ, nếu ta không lắng nghe nhau, nếu ta không nói với nhau, sự trống vắng và tĩnh lặng sẽ ngự trị.
Sống có nghĩa là tồn tại trong xôn xao tiếng người. Séga là một bộ phận của tiếng xôn xao đó. Con người, dù ở đâu, cũng cần rung động, cần diễn dịch tiếng xôn xao sự sống, biểu đạt nó bằng âm thanh, hòa thanh, bè đệm. Con người cần có phần âm nhạc nhỏ của mình trong tổng phổ âm nhạc lớn của thế giới. Và khi tôi nói như vậy, không phải là tôi mơ mộng. Chính là vì, cứ khước từ không chịu nói như thế mà chúng ta đã tạo ra chiến tranh.
Do đó mà nhà thơ cần phải dùng chữ của mình gắn cái “rung động” ấy vào với thân phận toàn thế giới?
- Chữ có tính chất phổ quát hơn người ta tưởng. Đó không phải là sở hữu đặc biệt của ai. Tôi viết tiếng Pháp, nhưng thường cho con chữ của ngôn ngữ đó một nghĩa khác, một âm hưởng khác, một ngân vang khác. Chắc hẳn là vì tôi uốn queo tiếng Pháp hoặc hôn phối nó với cách nói Créole của tôi một cách hợp pháp hay bất hợp pháp. Thú nhận điều đó không phải là giảm thiểu tiếng Pháp, mà trái lại, là làm giàu nó, là yêu nó theo cách của một người “đảo hóa”. Là thêm gia vị cho các từ, không phải để cho nó có mầu sắc dân gian, mà bởi vì không thể làm khác, bởi vì đó là lẽ tự nhiên.
Ngoài ra, chí ít đối với tôi, không phải chỉ từ ngữ đem lại ý nghĩa cho bài thơ, mà cả cách chọn chữ, dùng chữ nữa. Cho nên khi tôi dùng một chữ, tôi cho nó cái nhịp điệu riêng của tôi: dùng chữ là phải tác động đến nghĩa, tính thuận tai, nhạc điệu và động thái của nó.
Ông coi nhà thơ như một nhà giả kim?
- Trong một chừng mực nào đó, nhà thơ sáng tạo ra nghệ thuật. Anh ta lấy lời từ cái không - nói - ra và từ im lặng, và ở Nam bán cầu, mọi thứ thơ đều là ngôn từ. Nhưng nếu thơ là phương tiện để đến với bản thân và thế giới, thì mặt khác nó cũng là một hành vi vừa thiết yếu nhất vừa vô ích nhất tôi từng làm. Thật là nghịch lý - càng tốt hay càng tệ hại.
Bởi vì sống là nghịch lý. Thơ vốn thiết yếu ở chỗ nó cho phép tôi nói cái tôi trông thấy chứ không phải là cái tôi nhìn, cái tôi nghe thấy chứ không phải là cái tôi lắng nghe. Tôi là kẻ quản lý một tài năng, tôi không thể tự hào về nó, thực tế ngay từ đầu tôi đã hiểu là phải sử dụng nó một cách nghiêm túc, có trách nhiệm, chứ không thể dễ dãi. Thơ là vũ khí chiến đấu của tôi, là tiếng nói cùng tôi trò chuyện, là âm nhạc cho tôi nhảy múa, là ngọn lửa sưởi ấm tôi và đốt cháy tôi, là ánh sáng giúp tôi nhìn sự vật tỏ tường hơn. Tôi đã và đang dùng nó. Nhưng xin hiểu là hành vi đó cũng có thể sóng đôi với sự vô bổ. Tôi không nói rằng tôi không sung sướng với việc viết - tôi dám tin rằng thơ tôi không phải chỉ có ích cho riêng tôi - nhưng đối mặt với đe dọa phũ phàng của cái chết, câu hỏi muôn thuở cứ trở lại: tại sao? Nói cho cùng, có lẽ sống là một câu hỏi.
Đó có phải là nghi vấn luôn cả nhà thơ?
- Có và không. Về nhà thơ, tôi không nghĩ đó là một thứ phụ gia của dân tộc - một dải hoa trang trí. Trái lại. Đó không phải là tự biện hộ: nếu các dân tộc tồn tại, nếu các nền văn minh không mất đi, một phần nào cũng nhờ công các nhà thơ. Ký ức trước hết được chuyển tải bằng lời nói. Sau đó đến chữ viết. Giờ đây là hình ảnh. Những nhà điện ảnh, nhiếp ảnh, họa sĩ, điêu khắc lớn nhất, trước hết là những nhà thơ. Nắm được ý nghĩa sâu kín, phần xúc cảm của sự vật - không phải cách giải thích, mà là phần xúc cảm - là đạt tới anh hùng ca, tới ký ức tồn tại bền lâu. Và cái đám độc tài - sát nhân luôn kết án những nhà thơ trước các nhà quân sự và chính trị, chúng đâu có điên. Nhà thơ là kẻ vận tải ký ức, anh ta gây rối mà!
Một trong những bài thơ của ông, bài Đến tận xứ sở Yoruba, minh họa rõ sự bất đồng mà ông thường phát biểu đối với ý của Paul Valéry nói rằng các nền văn minh có thể chết.
- Bà nói đúng. Chừng nào còn tồn tại một kẻ thừa kế, gần gũi hoặc xa xôi, của một nền văn minh thì nền văn minh đó không thể chết. Và ngay cả khi cá nhân đó mất đi, nền văn minh của anh ta (hoặc chị ta) vẫn sẽ còn đó, vì nó đã nuôi dưỡng thêm những người khác. Đó là sự phân chia di sản Toàn Cầu: còn lại những dấu tích, chỉ những dấu tích thôi là đủ cho tất cả lại bắt đầu.
Đó là điều đã xảy đến với tôi ở Oshogho. Một hôm, cùng với bạn tôi, Wole Soyinka, tôi đến thành phố này trong nội địa xứ sở Yoruba. Chúng tôi thăm một thánh đường có rất nhiều tượng đá và hình học cổ truyền trên những bức tường bao quanh. Soyinka giải thích cho tôi biết đây là nơi thờ Oshun, nữ thần phồn thực của Yoruba và kể cho tôi nghe một chuyện rất xa xưa mà sau đó tôi đưa vào bài thơ bà vừa nhắc tới. Trong những năm 60, tôi đã nối lại liên hệ với mảng văn minh cổ đại đó. Cư dân đã rời đi, nơi này vắng tanh. Nhưng tôi, một kẻ sinh trưởng cách đó hàng nghìn cây số, tôi đã trở lại và trong khoảnh khắc, thì đã sống rất mãnh liệt ký ức này.
Tôi nghĩ rằng ngay cả trong những hoàn cảnh kém đặc biệt hơn, thường nhật hơn, chúng ta cũng có thể sống những nền văn minh khác, bất luận của thời đại nào, giai đoạn nào.
Cũng trong bài thơ đó, người ta thấy Chúa Ba Ngôi thiêng liêng của ông: Oshogho, Benarès, Gathsémané.
- Tôi có hạnh phúc được sinh ra ở một xứ sở có tất cả những tôn giáo lớn. Tôi được rửa tội theo đạo Thiên Chúa. Tôi đã đọc kinh Phúc Âm, rồi toàn bộ Kinh Thánh, nhưng tôi cũng đọc cả Kinh Veda, Raymayana, cũng như Sách Vong Nhân của Ai Cập. Kinh Thánh khiến tôi muốn đối thoại với Aziz, bạn cùng trường với tôi. Tôi nhận thấy cậu ta đi lễ ở nơi khác với tôi và tuân theo những nghi thức khác. Tôi muốn tìm hiểu. Tôi đã đọc kinh Coran. Cha tôi, Daniel Maximilien đã dạy tôi là luôn luôn tìm đến ngọn nguồn mọi thứ. Và như thế, cuộc kiếm tìm bản sắc ấy đã đưa tôi đến chỗ phát hiện ra gốc gác Hinđu của mình. Tôi may mắn có một ông thầy lớn. Ram Prakash; ông đã vỡ lòng cho tôi về văn hóa Ấn Độ và bắt tôi đọc Mahabharata, Bhaghevad Gita và bộ Pitakas nữa. Sau này khi tôi gặp Miguel Angel Asturias, ông đã khai tâm cho tôi vào Popol Vuh, Kinh Thánh của bộ lạc Aztec.
Tất cả những điều đó bồi bổ cho tôi, song lại càng khiến tôi thắc mắc. Tôi phát hiện ra rằng sự khác nhau là giữa những nơi chốn, chứ không phải là giữa những con người. Hẳn là vì tôi đã nghiệm sinh sâu sắc sự đa nguyên của đảo Maurice. Bẩm sinh, Chúa Ba Ngôi Oshun/ Shiva/ Jésus là Chúa Ba Ngôi trong máu của tôi. Dù thế nào đi nữa, bất luận mọi thăng trầm thế sự, tôi vẫn gắn bó với Chúa Jésus. Tôi thường nói chuyện với Ngài, vì tôi tin rằng chính Ngài đặt cho mình nhiều câu hỏi trước thân phận con người. Tôi vẫn quan tâm đến những giải đáp mà Ngài đã có thể tìm được.
Ông thường hay nói ông không chấp nhận những giải đáp có sẵn?
- Ôi! Hàng loạt câu hỏi! Chẳng phải là tôi khoái đặt câu hỏi, nhưng tôi biết làm sao khác được! Tôi đã bắt đầu đặt ra những câu hỏi và tự vấn mình từ rất sớm, có lẽ quá sớm là đằng khác, hẳn vì vậy mà tôi đã tìm ra nhiều giải đáp mà vẫn chưa ra giải đáp thực sự. Và khi tôi phát hiện ra là mình đã thắc mắc từ sớm, tôi trở thành một kẻ nổi loạn. Tôi tồn tại và nổi loạn, trong khi nghĩ rằng mình đang sống... Liệu một ngày kia, tôi có tìm được giải đáp lý tưởng, toàn diện và dứt khoát không, tôi cũng không biết. Trong khi chờ đợi, tôi phải trả lời. Tôi hẳn thấy những câu trả lời ở đâu đó. Là vì sự nổi loạn của tôi không phải viển vông. Đã có những thắng lợi. Nhưng dù những thắng lợi đó có rực rỡ đến đâu chăng nữa, sự cô đơn đang xâm chiếm tôi vẫn phủ định tất cả.
Sự cô đơn ấy, nguồn gốc từ đâu?
- Từ một số hoàn cảnh, lớn và nhỏ. Chẳng hạn, khi tôi chứng kiến một kẻ cho mình thuộc dòng dõi cao hơn tỏ vẻ khinh bỉ cha tôi chỉ vì cha tôi xuất thân từ gia đình phu phen và nô lệ, vì cha tôi da đen, và mang một cái tên Ấn Độ, thì máu tôi đã sôi lên. Từ đó tôi sinh ra nổi loạn. Bấy giờ, tôi mới là một đứa bé chưa đầy mười tuổi. Cuộc chiến của tôi bắt đầu từ hôm ấy và tôi nắm chặt tay, nghiến răng tự nhủ: không bao giờ để xảy ra điều đó nữa, cả với tôi lẫn với người khác, nhất là với cha tôi.
Như vậy, từ rất nhỏ, tôi đã có nhu cầu công lý đó. Kinh Thánh viết rằng sau khi chết, chúng ta sẽ ở một nước có công lý ngự trị. Hồi đó tôi không hiểu. Bây giờ, tôi cũng không hiểu. Tôi là kẻ nôn nóng. Tôi không biết chờ đợi. Tôi tự bảo cái chết bao giờ cũng đến quá sớm. Lịch sử luôn luôn nổ vào giữa mặt ta: Nam Phi, chủ nghĩa apácthai, những trại tập trung của Thế chiến II, Hiroshima, Việt Nam, Biafra, Libăng, gần đây nữa Sarajevo, Xômali, Angiêri và còn nữa...
Tất cả những cái đó gia tăng sự nổi loạn của tôi: lịch sử vẫn là một nơi nguy hiểm và đi qua lịch sử là một hành trình gian khổ. Đôi khi, người ta muốn đừng biết, đừng hiểu, chỉ cho qua đi thôi, nhưng như thế là một dạng hèn nhát. Tôi không hạ vũ khí. Sự nổi loạn này có thể phát triển và biểu đạt bằng thơ. Césaire nói: thơ là cái đặt tôi vào trung tâm bản thân tôi và thế giới. Sau khi dẫn lời nhà thơ khổng lồ của mọi thời đại ấy, tôi nghĩ chẳng cần phải nói thêm nữa. Nhà thơ, về bản chất, nổi loạn hơn là mơ mộng. Hoặc giả, mơ mộng của anh ta là thực tế dưới một dạng sống sượng hơn.
Tôi xin dẫn ông một lần cuối: nhà thơ tiến hành chiến tranh một mình và theo ý mình.
- Đúng vậy, hiểu theo cách nào đó. Bởi vì suốt đời anh ta là cô đơn. Tôi trở lại chuyện để khép trọn vòng tròn. Bởi vì trái đất bé nhỏ là cô đơn. Bởi vì khi yêu một người đàn bà, ta yêu trong trạng thái cô đơn. Bởi vì ta đơn độc sống cái sống và cái chết của ta. Bởi vì sự trống vắng đến, chỉ mình ta đơn độc chịu đựng, nhưng có lẽ, rút cục, cô đơn là trạng thái tự nhiên của con người. Người ta nói đến bản năng bầy đoàn: tôi sung sướng là đã đi nhiều, nhất là đã gặp những con người.
Bởi vì điều quan trọng là lộ trình của mình đi qua những nơi có người ở. Mặc dù những người khác làm nặng thêm thắc mắc trong ta, họ cũng đồng thời cho ta những mẩu giải đáp. Hẳn là tôi đòi hỏi quá nhiều! Liệu rồi tôi có tìm được những mẩu lý tưởng ĐẢO-ĐÀN BÀ-ĐẤT hay không, tôi làm sao biết được, nhưng tôi không thể phủ nhận là tôi đã có được những khoảng sung sướng và những giây phút tuyệt vời trong cả quá trình tìm kiếm của tôi. Do đó tôi tự hỏi: cuộc phiêu lưu con người phải chăng là tập hợp tất cả những khoảng đó. Tất cả những giây phút đó, như kiếm gom từng cành nhánh lại thành một bó củi? Và đó chính là thiên tài của con người: hữu thức hay vô thức, con người tránh né cô đơn, lưu đầy và cái chết bằng cách cải dạng những khoảnh khắc thoáng qua thành phép màu như trong những ngày thơ ấu.
Phải chăng đó là những điều mà, cuối cùng, người ta cần phải công nhận ở toàn bộ thi phẩm của ông?
- Phải, nhưng phải khá thận trọng. Đừng để bị mắc lừa. Tất cả đều bắt đầu và kết thúc bằng cái chết. Và để “cố sống”, để bất phục tùng điều chắc chắn duy nhất ấy - cái chết nhất định sẽ đến bên tôi, đem lời tôi đối lập lại cái chết. Đó vừa là ít vừa là nhiều, bởi vì ở nam phần địa cầu, người ta biết rằng lời nói không bao giờ rữa nát. Cái chết là một rủa nguyền, tôi không biết giáng xuống như thế nào: và vì tôi sẽ không bao giờ có được giải đáp, tôi quyết định né tránh nó.
Trong bài thơ gần đây nhất chưa in của tôi, tôi có nói hồi bé tôi xây dựng cho mình một ký ức để nuôi dưỡng giấc ngủ của mình. Mà ai có thể phủ nhận giấc ngủ của mình là một dạng chết?
Từ dạo ấy, tôi đã không chấp nhận trạng thái không hiệu hữu và không hiện diện.
Từ đó đến nay, tôi đã nói nhiều, đã đưa vào đời sống của bản thân mình, của người khác nhiều tiếng xôn xao, lúc mạch lạc, lúc rời rạc. Không sao. Tôi đã và đang còn làm thế để đẩy lùi cái chết, làm nhiễu nó. Tôi cải trang cho nó và để nó không còn là trống vắng. Thơ tôi dệt nên ở đấy.
Người đưa tin UNESCO, tháng 3-1994