(Tây Ban Nha)
trò chuyện với Serafin Garcia Ibanez
Nghệ thuật, phải đến với nó bằng một tinh thần trinh trắng, không tìm kiếm những chuẩn quy chiếu, mà chỉ lắng nghe những tình cảm của mình.
Là một trong những nghệ sĩ Tây Ban Nha lớn nhất của thời đại chúng ta, người họa sĩ tự học này sinh năm 1923 tại Barcelona ngay từ bước khởi đầu đã chịu ảnh hưởng của khuynh hướng Dada và siêu thực. Dần dần, trong những năm 1950, ông tách khỏi dòng đó để dấn thân vào những thể nghiệm phi hình thể, nhờ đó ông trở nên nổi tiếng. Nhiều bảo tàng lớn tổ chức triển lãm hồi cố tác phẩm của ông. Năm 1958 triển lãm Lưỡng niên Venise dành riêng một phòng cho ông với một giải thưởng UNESCO cùng với giải Carnegie (Pittsburgh) định vị ông trên trường quốc tế. Cách xử lý chất liệu của ông rất riêng với những mảng mầu trát dày cộm, ông trộn lẫn những chất liệu thô - giấy gói hàng, cát, bột cẩm thạch, latex, tôn, vải - trên đó ông cào rạch, khía những ký hiệu biểu cảm gần gũi với grafitô trên tường. Bắt đầu từ những năm 1970, ông đưa vào kết phối của mình những vật phế thải, thậm chí nhớp bẩn, mà đặt ra ngoài khung cảnh quen thuộc của chúng, bỗng mang một chất thơ kỳ lạ. Ông đã viết nhiều sách minh thị tác phẩm của mình như Pratique de l’art (1974) và La Réalité comme art (1989) cũng như một cuốn tự truyện nhan đề Mémoire (1981).
Bắt đầu, ông học luật rồi bỏ để chuyên tâm vào hội họa. Đó có phải là một quyết định bồng bột không?
- Thực ra, tôi đã có thiên hướng nghệ thuật. Từ bé, tôi đã thích vẽ; tuy chưa có cơ bản gì, nhưng dần dần, tôi háo hức muốn vượt tất cả các bạn cùng lớp. Về phía cha tôi, vốn là một luật sư, ông vẫn ấp ủ hy vọng thấy tôi theo dấu chân ông và sau này cùng ông hành nghề. Ông nài ép đến nỗi tôi đành học đến năm thứ năm trường luật. Thế rồi tôi bỏ tuốt. Về sau, tôi may mắn được một học bổng của Viện tiếng Pháp ở Barcelona, nhờ đó tôi có thể đến Paris. Loại học bổng này thật tuyệt, không kèm theo nghĩa vụ gì và tuy không lớn, nhưng cũng đủ để sống, đối với tôi, đó là một dịp may phi thường.
Đúng ra, ông là người như thế nào?
- Tôi có thể nói không cần nghĩ rằng tôi là một kẻ lo âu; tôi lo lắng về mọi thứ. Tôi có nhu cầu muốn biết tất cả. Tôi hầu như sống trong lo âu với cảm giác rằng cuộc đời là một thứ đại họa. Tôi cảm thấy nỗi khát khao, hay đúng hơn, cái nhu cầu mãnh liệt phải làm một cái gì có ích cho xã hội và đó là điều kích thích tôi. Trong mọi trường hợp, tôi đều tìm những gì tích cực, có lợi cho đồng bào tôi. Tôi quan tâm đến chuyện học tập, suy nghĩ, triết học, nhưng bao giờ cũng chỉ với tính cách tài tử. Cả trong hội họa, tôi cũng tự coi mình là tài tử.
Thật khó mà quy nghệ thuật về một công thức và có thể nói mỗi người đều định nghĩa nó theo cách riêng của mình. Định nghĩa của ông là thế nào?
- Đối với tôi, nghệ thuật là một cơ chế, một hệ thống cho phép thay đổi cái nhìn của người xem và đưa họ lại gần cái trạng thái gọi là chiêm ngưỡng hiện thực ở tầng sâu nhất của nó. Nghệ sĩ giống như nhà thần bí: mỗi người có những cách thực hành riêng nhưng mục đích chung của họ là đạt tới sự phát sáng bên trong nó cho phép họ thấy được tầng sâu của hiện thực. Vậy đó, về đại thể, cái cốt yếu của nghệ thuật đối với tôi là thế.
Cái “hiện thực” mà ông luôn nhắc tới, theo ông, có nghĩa là gì?
- Khi tôi nói hiện thực bao giờ tôi cũng nghĩ đến nội dung căn bản của sự vật. Cái sâu xa không phải ở một chốn khác không với tới được. Nó gắn liền chặt chẽ với những chuyện đời thường. Đó là điều tôi học được ở các nhà tư tưởng lớn, đặc biệt là các nhà triết học ở Viễn Đông; đối với họ, sự thông tuệ đích thực - mà tôi còn xa mới đạt tới - nằm ở sự tiếp hợp giữa sausara (cội thế gian) và mirvana (hiện thực sâu xa). Tiếp xúc với hiện thực không phải là đưa mình đến chốn khác, đó không phải là một sự tiên nghiệm, mà trái lại là ngụp sâu vào những gì bao quanh ta. Một thứ hiện thực không phải thuần túy vật thể, cũng chẳng siêu hình, mà lại có cả hai yếu tố đó.
Tác phẩm của ông được biết đến trên toàn thế giới, nhưng nó làm cho nhiều người “bối rối”. Có lẽ bởi tại công chúng quen với nghệ thuật biểu hình hơn?
- Quả là sự giáo dục mà chúng ta tiếp thụ đã cấy vào chúng ta một số thời gian tinh thần. Chẳng hạn, về nghệ thuật, người ta thường cho rằng vẽ là sao chép tự nhiên, có nghĩa là hiện thực ở phần hời hợt nhất của nó. Vai trò ấy ngày nay dành cho nhiếp ảnh, điện ảnh và truyền hình. Cái người ta gọi là chủ nghĩa hiện thực-ảnh trong hội họa không còn lý do tồn tại. Không phải vì tự thân nó đã đáng đặt vấn đề. Mà vì có những cách khác để thể hiện và giải thích rõ ràng những gì nó phô ra với chúng ta.
Tuy nhiên, ông đã khởi đầu bằng hội họa biểu hình?
- Phải, tất nhiên, như tất cả mọi người. Hay chí ít cũng như những nghệ sĩ thuộc thế hệ của tôi. Bọn tôi bị hấp dẫn bởi cái mà chúng ta vừa nói tới: bắt chước tự nhiên. Tôi không học theo hàn lâm, tôi tự tạo cho riêng mình một trường bằng cách vẽ chân dung bạn bè và cố gắng kiểm soát những gì tôi muốn biểu đạt.
Tác phẩm nghệ thuật có chứa một thông điệp hay không?
- Phương tiện phải chăng là một thông điệp? Đó là một nguồn tranh luận bao la. Cách trình bày sự vật cũng là một phần của thông điệp rồi. Tôi hoàn toàn có thể vẽ như các họa sĩ biểu hình ước lệ nhất, chẳng hạn một bức tĩnh vật với những quả táo, nhưng tôi sẽ làm thế dựa theo một cái gì khác mà tôi muốn biểu đạt. Tôi sẽ vẽ những quả táo theo cách riêng của tôi. Có thể cây bút lông của tôi sẽ phác một xoáy lốc hoặc một thế giới đang chuyển động, một ấn tượng về vật chất sống hữu cơ. Vẽ là biểu hiện cách tư duy của họa sĩ, sự cảm thụ hiện thực của hắn. Cái chủ nghĩa hiện thực mà chúng ta đang nói đến chẳng khác xa công việc của một số họa sĩ đương đại là bao. Ngày nay, chúng ta có những khả năng kỹ thuật mới, nhưng một số hãy còn rất giản đơn. Nhiều người tưởng rằng các máy tính, các loại máy móc mới, sự tài khéo của công nghệ cho phép mô phỏng hiện thực với độ chính xác tột bậc. Đồ dùng của tôi thì lại hết sức khiêm tốn, chỉ có một cây bút lông đã xơ xác. Thế là đủ. Những dụng cụ thô sơ nhất có thể biểu đạt những tình cảm sâu nhất.
Quả vậy, ông thường dùng những chất liệu rất bình thường như các tông, hay vải gai... cho những bức tranh của ông.
- Cái đó cũng là một thông điệp. Các chất liệu đều biểu cảm. Một chiếc lá vàng gây hiệu quả khác với một mẩu các tông rách. Và mẩu các tông lại mang những hàm nghĩa khác, gây những ấn tượng khác với một miếng cẩm thạch mài nhẵn. Những chất liệu bình thường đó, xưa nay bị bỏ qua, tương ứng hoàn toàn với những tìm tòi của tôi. Chúng dễ dàng gây hiệu quả hai mặt: vừa khiêu khích người xem vừa buộc họ phải suy nghĩ. Có thể tức thời họ chỉ coi đó là thứ vô bổ. Nhưng ngẫm nghĩ một chút, họ sẽ thấy những vật mọn mằn nhất chứa đựng một sự thông tuệ sâu sắc. Người Nhật nói rằng một hạt bụi chứa cả vũ trụ. Những vật tưởng là rác rưởi ấy có thể truyền một thông điệp nhân văn đích thực.
“Đáng nguyền rủa thay, thứ thi ca được tiếp thụ như một trang sức văn hóa bởi những kẻ dửng dưng sẵn sàng phủi tay và lẩn tránh”, nhà thơ Gabriel Celaya nói vậy. Nghệ sĩ và tác phẩm của mình có cần phải nhập cuộc về chính trị, xã hội hay đạo đức không? Hay chỉ riêng cái đẹp là đủ biện minh cho tác phẩm nghệ thuật?
- Tôi luôn luôn nghĩ rằng thành tố tư tưởng, thậm chí chính trị là cần thiết. Nhưng nó phải xuất phát từ tổng quan của người nghệ sĩ, chứ không phải từ một diễn từ chính trị trắng trợn... Sự nhập cuộc chính trị của tôi toát ra từ cách làm việc của tôi. Trên cái nền ấy, các chi tiết tự khắc tìm thấy vị trí của chúng. Cái chủ yếu là thông điệp, bất kỳ thông điệp gì. Bất hạnh thay những ai vẽ chỉ để làm vui người xem hoặc để pha trò. Nhưng, tôi nhắc lại, thông điệp toát ra từ bản thân tác phẩm; chính tác phẩm tự bộc lộ ra dung lượng xã hội, chính trị hay triết học của nó.
Một thông điệp chỉ có nghĩa khi nó được “hiểu”, mà ngôn ngữ của nghệ thuật đương đại có vẻ như không vừa tầm của mọi người. Có cần thiết phải vỡ lòng cho công chúng không?
- Tôi nghĩ là có! Một sự khai tâm theo nghĩa sư phạm. Khốn thay, đó là một sự đào luyện phải làm từ lúc còn trẻ, vì sự nhạy cảm vốn hình thành ở tuổi ấu thơ. Tôi nghĩ hệ thống giáo dục ở phương Tây, đặc biệt ở Tây Ban Nha, không đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ đó. Phải dạy nghệ thuật ở nhà trường về giáo dục khiếu thẩm mỹ cho thanh niên, tránh cho các em rơi vào sự tầm thường. Phần đông mọi người tiếp cận nghệ thuật với những tiên kiến: họ muốn thấy ở nghệ thuật những cái mà do thói công thức hoặc do thiếu thông tin, họ chờ đợi tìm thấy ở đó. Nghệ thuật, phải đến với nó bằng một tinh thần trinh trắng, không tìm kiếm những chuẩn quy chiếu, mà chỉ lắng nghe những tình cảm của mình.
Ông ngưỡng mộ họa sĩ hoặc những họa sĩ nào nhất?
- Số này thì nhiều đến nỗi nếu kể hết ra sẽ đâm nhàm. Tôi cũng có sưu tập chút ít và tôi thích có quanh tôi những tác giả họa sĩ và điêu khắc ưa chuộng của mình. Và tôi rất chiết trung: nghệ thuật lớn Ai Cập, hội họa Trung Quốc thời Tống và Nguyên (mà một số nghệ sĩ đương đại chúng ta tìm nguồn cảm hứng ở đó), tác phẩm của các nhà đại thư pháp Trung Hoa và Nhật Bản, tất cả những cái đó làm tôi rất xúc động. Cả nghệ thuật Phi, nghệ thuật tiền Cortè và tiền Colomb (trước ngày Herman Cortè và trước ngày Christophe Colomb đặt chân đến châu Mỹ) cũng vậy.
Và trong số các họa sĩ Tây Ban Nha?
- Lịch sử hội họa và nghệ thuật Tây Ban Nha rất bao la. Tôi rất thích phong cách Roma - nhất là Roma Catalan, nhưng cũng thích một số nét của nghệ thuật gôtich, những tác phẩm bí ẩn của một Ribera, một Zurbarán và tất nhiên là Velasquez. Gần thời chúng ta hơn, tôi phải kể Goya và đương nhiên, từ Goya tôi sẽ chuyển sang Picasso, và từ Picasso chuyển sang Miró.
Ông đã bỏ qua một họa sĩ khác của xứ Cataluña là Dali:
- Dali đã làm nhiều cái rất hay vào những năm 1930. Thế rồi ông bắt đầu làm cái mà tôi vừa phê phán lúc nãy, tức là hội họa-ảnh. Mà lại là ở bình diện tư tưởng. Dali hết làm tôi thích thú từ thời nội chiến. Ứng xử của ông đã làm tôi thất vọng, cả về phương diện công dân lẫn con người.
Ngoài hội họa, ông có thú tiêu khiển nào khác?
- Tôi sưu tầm sách, mọi loại sách cũ và mới. Những cuốn sách nói về những bí mật của đời sống ở mọi thời kỳ. Tôi còn là một người mê nhạc: tôi rất thích nghe nhạc. Tôi thiên về âm nhạc lãng mạn. Wagner làm tôi ngây ngất. Nhưng tôi cũng nhạy cảm với những nhà soạn nhạc gần thời chúng ta hơn như Bruckner và Mahler hoặc hiện đại hơn như Scelsi. Tác phẩm đặc sắc của nhạc sĩ Italia quá cố này còn ít được biết đến. Hiện nay, đó là âm nhạc ưa thích nhất của tôi. Tôi cũng đánh giá cao những nhạc sĩ hiện đại Pháp và một số nhạc sĩ Đức như Stockhausen.
Ông có thích nhạc flamenco không?
- Tôi không biết rõ lắm về flamenco. Lẽ ra tôi không nên nói thế vì người ta không thể biết về flamenco, mà phải cảm thụ nó. Điều này ít xảy ra với tôi nhưng mỗi lần có dịp được xem và nghe nhữngcanter (ca khúc) lớn, tôi đều cảm thấy một nỗi xúc động sâu xa.
Văn học sử dụng từ ngữ - âm nhạc sử dụng âm thanh. Kiến trúc, điêu khắc và hội họa xử lý chất liệu. Điều đó có dựng lên ranh giới không thể vượt qua giữa những hình thức biểu hiện khác nhau đó không?
- Bằng vào kinh nghiệm, tôi sẽ trả lời là không. Đó là những phân loại hàn lâm áp đặt bởi sức mạnh của thói quen. Đôi khi tôi cảm thấy mình rất gần với các nhà thơ: thậm chí người ta còn nói rằng một số tranh của tôi chứa đựng ẩn dụ thơ. Có những lúc khác tôi cảm thấy đồng điệu với âm nhạc: tôi dùng những chất liệu giòn mà khi nứt, phát ra một âm thanh như tiếng nhạc. Người ta cũng nói với tôi rằng những chỗ đắp nổi trong tranh của tôi gần giống điêu khắc và quả thực, tôi dụng ý sáng tác trên ba chiều. Những ranh giới rất cụ thể phân cách hội họa, điêu khắc và các hình thức nghệ thuật khác, ngày nay có khuynh hướng nhòa dần đi.
Ông là tác giả tấm huy chương do UNESCO đúc để kỷ niệm một trăm năm ngày sinh Pablo Picasso. Và ông đang vẽ một tấm khác cho dịp kỷ niệm trăm năm ngày sinh Joan Miró.
- Khi UNESCO ủy thác cho tôi công việc này, tôi cảm thấy cực kỳ thỏa mãn vì điều đó đánh dấu một sự liên tục, một mối liên hệ với thế hệ trước, thông qua Picasso và nhất là Miró, người mà tôi biết rất rõ và học tập rất nhiều qua các tác phẩm. Thậm chí tôi đã cùng làm việc với ông vì tôi ở trong Ủy ban quản trị Cơ sở Miró ở Barcelona. Đó là một người mà tôi cảm thấy rất gần gũi và bao giờ cũng rất ngưỡng mộ, cả với tư cách con người và tư cách nghệ sĩ. Rất nhân bản, ông có một cách nhìn thế giới đầy viễn tưởng. Cả hai chúng tôi đều có khuynh hướng siêu thoát vào những giấc mơ của mình, nhưng những giấc mơ đó chạm đến những sợi dây thầm kín nhất trong tâm hồn chúng tôi và đánh thức trong vô thức những cơ chế gần gũi đời thường hiện thực cụ thể hơn người ta tưởng nhiều. Tôi thấy ở hội họa Miró cả những co giật của cử chỉ cắt đứt với kiểu hàn lâm lẫn sự trở về với những thứ hồn nhiên ngây thơ mà chất chứa đầy ý nghĩa. Còn về Picasso, với những quan điểm quảng đại của ông, sự trung thành với chủ nghĩa nhân văn và sự tham gia phê phán xã hội và chính trị, ông là một bậc thầy lớn đối với tôi.
Người đưa tin UNESCO, tháng 6-1994