(Mêhicô)
trò chuyện với Fernando Ainsa
Chúng tôi phải bảo vệ và vun trồng cuộc sống và những giá trị làm nên cái giá của cuộc sống: nghệ thuật và tình yêu, tình đoàn kết và văn hóa.
Nhà văn Mêhicô Carlos Fuentes là một trong những chủ soái của văn học Mỹ Latinh đương đại. Trong những tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, những huyền thoại thời tiền Colombus, hòa trộn với lịch sử gần đây làm nên “bản sắc Mêhicô” từ sau cách mạng 1910. Một chủ đề trong các tác phẩm của ông, đặc biệt mang tính thời sự trong năm nay, năm kỷ niệm lần thứ 500 cuộc gặp gỡ giữa Thế giới Cũ và Thế giới Mới, là mối quan hệ phức hợp giữa nước ông với Tây Ban Nha.
Trong một bài báo năm 1972 có tính dự báo, ông đã tự hỏi tại sao châu Âu và châu Mỹ lại không thể hợp lực với nhau để thoát khỏi cái quyền bá chủ song hành khi ấy đang chia rẽ thế giới làm đôi. Vấn đề là tạo ra một thế giới “đa cực” trong đó không có ai là chư hầu của ai và mỗi người đều có thể góp phần vào việc hình thành một đặc tính khai hóa đa văn hóa và đa dạng. Các sự kiện xem chừng đi theo chiều hướng mà ông mong mỏi....
- Trong những năm 1950, lúc chúng tôi còn là sinh viên, những người thuộc thế hệ tôi cảm thấy rằng chúng tôi bị mắc kẹt một cách vô ích giữa hai khối, hai siêu cường, hai hệ tư tưởng loại trừ nhau. Mỗi bên đều đòi hỏi sự trung thành tuyệt đối, hy sinh sự đa dạng và đa bội của tất cả những nước nào, những nền văn hóa nào không chịu có một sự lựa chọn quyết liệt giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, giữa Liên Xô và Mỹ.
Chiến tranh lạnh ở Mỹ Latinh không phải là một trò đùa. Nhân danh những hệ tư tưởng đối địch nhau và trước những thái độ của hai cường quốc, nhiều cơ hội chính trị và văn hóa đã bị bỏ lỡ. Biểu hiện dễ thấy đầu tiên của Chiến tranh lạnh tại Mỹ Latinh là cuộc can thiệp của nước ngoài tại Goatêmala năm 1954, nên nhớ rằng khi ấy nước này vừa mới liên tiếp trải qua hai chính phủ được bầu ra một cách dân chủ - chính phủ của Arévalo và của Arbenz. Cuộc thử nghiệm ấy đã bị chấm dứt một cách đột ngột, tiếp theo sau là 30 năm diệt chủng, đàn áp và chà đạp dân chủ tại Goatêmala. Nhiều nước khác cũng trải qua những bi kịch tương tự, không kể những nước đã phải chịu những loại sức ép khác nhau và những nước mà người ta đã ủng hộ các chế độ độc tài.
Chiến tranh lạnh đã kết thúc bằng một sự hỗn độn lớn về chính trị, và nhất là văn hóa, tại Mỹ Latinh cũng như châu Phi và châu Âu. Thế giới thứ ba đã không tạo được khả năng để tiếng nói của mình được lắng nghe, hoặc đóng góp cho một thế giới giàu có nhiều hơn mức mà sự lựa chọn hoặc Moskva, hoặc Washington cho phép.
Vì lẽ đó, sự xuất hiện của “tính đa cực” kêu gọi từ gần 40 năm nay là một nguyên nhân để vui mừng, nhưng là một sự vui mừng có chừng mực. Chúng tôi vừa mới chứng kiến sự sụp đổ của các học thuyết chính trị và những chế độ kinh tế không liên quan gì mấy với các vấn đề thực của chúng tôi, nhưng chúng tôi biết rõ rằng bước chuyển tiếp từ chủ nghĩa nhị nguyên hai cực sang đa nguyên sẽ không diễn ra dễ dàng. Sau sự sụp đổ của nhiều nước Đông Âu, chúng ta mới đánh giá được tầm vóc của những nguy hiểm đe dọa chúng ta và những trở ngại trên con đường chuyển tiếp đi từ hai cực sang đa cực.
Có phải chúng ta đang chứng kiến sự nổi lên trở lại của chủ nghĩa dân tộc, chủng tộc và những tính đặc thù của các dân tộc thiểu số hơn là sự ra đời của một thế giới đa cực?
- Tôi cho rằng sự ra đời của cái thế giới đa cực ấy không phải dễ dàng. Áp đặt tính đa dạng văn hóa như một giá trị có khả năng sinh ra những thực tế chính trị mới bao giờ cũng là điều khó. Về cơ bản, tất cả chúng ta đều chúi mũi vào những trang bỏ trắng của thế kỷ 21, khiếp sợ tự hỏi là liệu đã thực sự có một thế kỷ 20 không, hay nó chỉ là một sự kéo dài trái tự nhiên của thế kỷ 19, với những xung đột tư tưởng, những thứ chủ nghĩa dân tộc quá khích và những ảo tưởng về tiến bộ của nó.
Thế kỷ 20 đã tin ở những hứa hẹn của một nhân loại có thể trở thành hoàn hảo nhờ ở tiến bộ và tự do hoàn toàn kể cả thứ tự do làm điều xấu. Đó là thế kỷ của ánh sáng khoa học và bóng tối chính trị, sự trị vì của công nghệ trên toàn cầu, song còn của cả bạo lực, khủng hoảng của các hệ tư tưởng.
Đây là một cuộc khủng hoảng của các hệ tư tưởng hay khủng hoảng của một quan điểm nhất định về nhà nước?
- Theo tôi, khái niệm Nhà nước - dân tộc, ngự trị trên thế giới chính trị từ 1917, hiện đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Ở Mỹ Latinh, chúng tôi có một lợi thế lớn là dân tộc và văn hóa trùng khớp với nhau, đó không phải là tình hình ở Liên Xô, Canađa, Ailen, hoặc thậm chí cả Pháp và Tây Ban Nha, nơi có một sự so le nhất định giữa khái niệm dân tộc với biểu hiện văn hóa của nó.
Ở Mỹ Latinh, chúng tôi đã biết cách tạo ra tại mỗi nước một nền “đa văn hóa”, một xã hội nhiều chủng tộc, nó có thể có những vấn đề đấy, nhưng không xét lại sự cùng tồn tại của nhiều nền văn hóa trong cùng một dân tộc. Các dân tộc Mỹ xây dựng trên sự hôn phối giữa các chủng tộc, và điều đó dựa trên sự hòa nhập chứ không phải sự loại trừ. Bất cứ khi nào chúng tôi định thực hành việc loại trừ chúng tôi đều thất bại. Và mỗi lần chúng tôi thực hiện sự hòa nhập thì chúng tôi phong phú hơn lên. Đó là lôgích cơ bản của những điều mà chúng tôi đã kinh qua về mặt văn hóa, và suốt thế kỷ 16 đến nay, đó là một kinh nghiệm cởi mở đối với các ảnh hưởng bên ngoài.
Khả năng hòa nhập ấy đến với chúng tôi từ gốc rễ Ibêria của chúng tôi, từ cái bán đảo nơi tôi đã chung sống các nền văn hóa Kitô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo, và đã trải qua biết bao nhiêu cuộc xâm lăng và chinh phục. Một sự trùng khớp đáng chú ý là năm 1492, năm mà hình ảnh lịch sử của Tây Ban Nha như một dân tộc đón nhận và mến khách đã bị hoen mờ đi vì việc trục xuất người Do Thái và chinh phục vương quốc Granađa, cũng là năm tìm ra châu Mỹ. Ngày 12-10-1942, những tiếp xúc đầu tiên với nền văn minh tiền Colombus đã mở ra triển vọng cho những sự hôn phối mới phong phú không ngờ.
Không hề giảm nhẹ những tội ác đối với các dân tộc bản địa, tôi cho rằng điều cuối cùng nổi lên là xu hướng tiến tới hòa trộn chủng tộc và hòa nhập văn hóa, khiến cho dân tộc và văn hóa khớp với nhau và tăng cường lẫn cho nhau.
Tại Mỹ Latinh, bằng cách này hay cách khác, chúng tôi đã tìm ra cách sống và tạo ra một thế giới trong đó các giá trị không bị bóp nghẹt trong sự xung đột giữa các mặt đối lập được có một cuộc sống mới thông qua một sự truyền thông sống động trong một thực tế đa văn hóa. Bởi vì những giá trị này không thể tách rời bối cảnh văn hóa đã nuôi dưỡng chúng. Và việc tôn trọng, hiểu biết và chấp nhận những giá trị ấy có nghĩa là tôn trọng, hiều biết và chấp nhận cái “khác” với mình, cho dù chúng có vẻ muốn phủ nhận mình. “Kẻ khác”, kẻ phủ nhận ta, lại cấu tạo nên ta và làm cho ta phong phú thêm bằng cách giúp cho ta có khả năng tiếp nhận tất cả những gì không phải là ta. Sự hòa nhập của kẻ này bởi kẻ khác, sự biến đổi bản thân khi ta tiếp xúc với tất cả những gì xa lạ và khác với ta, là một phần trong sự thách thức đáng say mê mà cái thế giới hỗn chủng và đa cực đề xuất với chúng ta, cái thế giới mà chúng ta tất yếu đi tới.
Nhưng tình trạng hai cực chẳng phải là một hình thức bảo vệ đối với nhiều nước thế giới thứ ba, một tình hình cho phép những nước ấy duy trì sự hiện diện của họ trên vũ đài thế giới và bảo vệ mình chống lại cường quốc này bằng cách dựa vào cường quốc kia? Ngày nay, đặc biệt tại Mỹ Latinh người ta hình như cảm thấy hoang mang khi bị phó mặc bản thân mình tự lo liệu về mình. Quả rằng có một số người nhìn thấy mặt tích cực của tình hình ấy và vui mừng là cuối cùng thế giới thứ ba có thể tự gánh vác lấy những vấn đề của mình và tự tìm cách giải quyết chúng.
- Đúng vậy, nhưng điều đó không chỉ áp dụng cho thế giới thứ ba. Điều đó, cũng có thể áp dụng cho Liên Xô chẳng hạn, và thậm chí cho cả Mỹ, cả hai đều buộc phải quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề nội bộ của mình vì đề ra những chiến lược toàn cầu cho các nước khác.
Về phần chúng tôi, các nước Mỹ Latinh chúng tôi phải sắp đặt lại trật tự trong nội bộ chúng tôi hoặc, như cách nói của chúng tôi, phải “gãi bằng móng tay của mình”, bởi vì chỉ có chúng tôi mới giải quyết được các vấn đề của chúng tôi. Chúng tôi phải chấm dứt việc tự hành mình như những nạn nhân vĩnh viễn của lịch sử. Thành thực mà nói, bản thân tôi hoàn toàn không cảm thấy mình là một nạn nhân. Tôi tin rằng chúng tôi có thể khẳng định tính cách của mình một cách hoàn toàn độc lập, trong các lĩnh vực chính trị và kinh tế, như chúng tôi đã làm đối với văn hóa.
Tôi không mảy may đánh giá thấp những vấn đề liên quan đến tiền tệ, ngoại thương và nợ nần, nhưng tôi thấy hình như có cả một loạt vấn đề cơ bản liên quan đến nông nghiệp, lương thực và giáo dục mà chúng tôi có thể tự mình giải quyết. Một nước không tự nuôi sống mình và tự giáo dục được mình thì không thể có bước nhảy vọt mà chúng tôi chờ đợi ở thế kỷ 21. Điều chủ yếu là giáo dục nhân dân nước chúng tôi và nhất là nuôi sống họ.
Chúng tôi là nạn nhân của một sự hiểu lầm lớn: chúng tôi đã tưởng rằng những nền công nghiệp của thế kỷ 19 với những cột ống khói nhà máy là một đảm bảo cho phồn vinh, và con đường tiến bộ đi theo hướng đó. Giờ đây, chúng tôi nhận thấy không phải như vậy. Tất cả những điều đó đã trở thành lỗi thời vì sự nổi lên của khu vực dịch vụ được tự động hóa với kỹ thuật cao, trong khi chúng tôi, ít nhất tại một số nước, vẫn còn ra sức xây dựng những khu liên hiệp công nghiệp lớn nhả ra khói và mồ hóng.
Chúng tôi phải bắt đầu bằng cách bắt tay vào những vấn đề sở tại, tức là xây dựng trường học đầu tiên. Phải tiến hành một cách khiêm tốn, kiên nhẫn, từng bước một.
Chúng tôi không được tiếp tục tự lừa dối mình, tự nhủ mình rằng các giải pháp sẽ từ bên ngoài đưa đến. Nếu không, chúng tôi sẽ thất bại, như đã từng diễn ra ở cuối thế kỷ 19 khi chúng tôi đi theo một giải pháp tự do hoàn toàn dựa trên ngoại thương. Vì làm như vậy, chúng tôi đã làm giàu cho một thiểu số còn đa số không được hưởng lợi gì cả. Tại nơi này nơi khác, những nỗ lực dân chủ của những nhà chính trị sáng suốt như José Batley Ordonez ở Urugoay hay Lazaro Cardenas ở Mêhicô đã cho phép lành mạnh hóa nền kinh tế và phân phối lại một phần của cải. Nhưng hầu như ở khắp các nơi khác, cái hố ngăn cách người giàu và người nghèo ngày càng rộng thêm. Chúng tôi không được rơi lại vào những sai lầm trong quá khứ, không được rơi lại vào cái vòng luẩn quẩn ấy. Mà đó chính là điều dễ xẩy ra nếu chúng tôi không bắt tay vào cội rễ, vào nền tảng của những vấn đề nội bộ của chúng tôi.
Ông có cho rằng quá trình giảm bớt những mâu thuẫn và đối nghịch tại Mỹ Latinh cuối cùng đã diễn ra?
- Chúng tôi đang chứng kiến một sự thay đổi triệt để các cơ cấu trong các xã hội chúng tôi. Chúng tôi đã thừa hưởng những cơ cấu tập trung đôi khi đã có từ thời các đế chế tiền Colombus, đã sống sót qua cuộc Chinh phục và tồn tại kéo dài tại các nước cộng hòa. Nhưng bây giờ, tôi thấy phát triển một phong trào xuất phát từ cơ sở và từ bên lề xã hội, nó đang vượt qua những thể chế theo chiều dọc của quá khứ - Giáo hội, Nhà nước và Quân đội. Nói cách khác, xã hội dân sự chuẩn bị gánh vác lấy lịch sử của chúng tôi - toàn bộ xã hội dân sự. Và chính cái xã hội ấy tạo ra và lưu truyền văn hóa. Văn hóa là sở hữu nghiêm túc nhất, giá trị nhất, lâu bền nhất và hùng mạnh nhất của chúng tôi, nó là cái có nhiều khả năng nhất chống lại khủng hoảng và giữ cho mình được nguyên vẹn trong suốt cuộc khủng hoảng hiện nay.
Theo nghĩa đó, ta có thể nói rằng văn hóa trên phương diện câu trả lời cho những vấn đề của cuộc sống, là rất sống động tại Mỹ Latinh, từ Mêhicô cho đến Tierra del Fuego. Tôi muốn nói đến văn hóa như một lối sống, suy nghĩ, mơ ước, đấu tranh, yêu mến, ca hát, ăn mặc, sắm sửa và trang trí cho ngôi nhà của mình và hồi tưởng. Tất cả những thứ ấy đều rất sống động, và theo tôi, chúng đóng một vai trò rất tích cực trong bối cảnh của thế giới đa cực mà chúng ta lại sẽ sống từ nay.
Chào đóng sự ra đời của một thế giới đa cực, ông còn e ngại hiện tượng “Balkan hóa” Mỹ Latinh nữa không?
- Các dân tộc trên lục địa chúng tôi có lôgích nội tại và sự tiếp nối văn hóa của mình. Ở mỗi dân tộc, ngay cả khi có sự đa dạng về chủng tộc như Mêhicô chẳng hạn, vẫn có sự trùng khớp giữa những văn hóa và dân tộc như tôi vừa nói, bởi vì văn hóa đã biết hòa nhập vào mình những yếu tố đóng góp của bản địa, hay của thế giới da đen như trong trường hợp Cuba. Tính đa nguyên văn hóa này, tồn tại cả ở Mêhicô cũng như ở Ecuado hay Vênêzuêla, có nghĩa là ít có nguy cơ nổ ra những sự kiện mang tính phân biệt chủng tộc như tại Liên Xô, Tiệp Khắc hay Nam Tư. Tôi không nghĩ rằng trường hợp của chúng tôi có thể nói đến hiện tường “Balkan hóa”. Đó không phải là một vấn đề của Mỹ Latinh.
Hình thức “Balkan hóa” của chúng tôi thuộc loại khác. Nó diễn ra khi có vấn đề vượt quá khái niệm dân tộc để tạo ra một tập hợp khu vực siêu quốc gia. Đây là một lĩnh vực mà chúng rồi đã thất bại.
Chúng tôi đã không có cả trí tưởng tượng lẫn ý chí chính trị để biến đổi sự thống nhất và nối tiếp về văn hóa thành thống nhất chính trị đích thực. Sự tương phản giữa thống nhất văn hóa và bất hòa về chính trị và kinh tế ở Mỹ Latinh là đáng lo ngại, bởi vì nó thể hiện một sự thất bại, một sự trống rỗng. Chúng tôi đã không thực hiện được sự thống nhất vì chúng tôi đã quá nhiều khi tìm cách hoặc áp đặt những mô hình phát triển không liên quan gì mấy đến thực tế văn hóa của chúng tôi.
Cái mà chúng tôi thiếu, đó là ý chí lấp bằng cái hố ngăn cách giữa sự nhất quán về văn hóa của lục địa chúng tôi với một hình thức thống nhất chính trị và hợp tác văn hóa nào đó, và qua đó biến những mối tương đồng văn hóa phong phú của chúng tôi thành một sự thống nhất chính trị và kinh tế không kém khả năng sinh sôi nẩy nở.
Hãy nhớ lại lời José Marti: “Nước nào chỉ buôn bán với mỗi một nước khác thì sẽ đi đến cảnh nô lệ”. Chúng tôi phải mở rộng cửa cho tất cả mọi người: cho Mỹ, cho Cộng đồng châu Âu, cho các nước Thái Bình Dương và sau cùng là cho bản thân chúng tôi. Phải phát triển những khu vực hòa nhập và tự do buôn bán, như Achentina, Urugoay và Braxin đã làm với Mescosur. Ngoài ra còn có việc phục hồi lại Hiệp định Andes, bước thứ nhất tiến tới một thị trường chung tập hợp các nước Canađa, Mêhicô và Mỹ, cũng như những nỗ lực thống nhất các nước Trung Mỹ. Có những cơ hội to lớn cho hành động bên trong và bên ngoài khu vực và cho việc mở của các nước trong khu vực chúng tôi với nhau và mở cửa cho thế giới.
Chuyển sang công việc nhà văn của ông, các truyện của ông in đậm dấu ấn của các huyền thoại trong lịch sử Mêhicô, những huyền thoại đã đem lại bản sắc cho đất nước, nhưng có lẽ lại phủ nhận một sự diễn tiến đáng mong muốn vì sức nặng của nó xem chúng làm hại đến những thay đổi tất yếu mà xã hội đòi hỏi.
- Các huyền thoại không phải là một trở ngại cho việc phát triển vì huyền thoại trở thành chất liệu văn hóa là một công cụ lý tưởng cho nhiệm vụ thiết yếu là tưởng tượng quá khứ. Đó là chức năng của nhà tiểu thuyết, trong khi chức năng của nhà viết sử là cố tái tạo cái quá khứ một cách trung thành. Nhà tiểu thuyết nhận trách nhiệm về mình trong việc sáng chế lại về bề sâu cái thế giới phải trở lại sống động bởi tương lại chỉ tồn tại khi quá khứ cũng tồn tại.
Những huyền thoại đích thực là những thứ sống động, chúng tiến hóa, mâu thuẫn nhau, chen lấn nhau. Chúng không nằm yên bất động mà năng động và ảnh hưởng lẫn nhau. Mâu thuẫn của huyền thoại phản ánh mâu thuẫn thực tế.
Tôi đã sử dụng những huyền thoại tiền Colombus để đối chiếu với thực tế của nước Mêhicô đương đại. Quá khứ vẫn sống, nó bao bọc lấy chúng ta. Không phải ngẫu nhiên mà di tích Ngôi đền lớn của người Aztec lại được phát hiện giữa hai công trình tiêu biểu của thành phố Mexico là Nhà hát lớn và Dinh tổng thống. Cả một nền văn hóa, cả một lối sống có mặt tại đây và trong cả những vệt máu hiến tế nữa.
Người ta không thể hiểu được Mêhicô nếu không biết quá khứ của nó. Điều đó chắc chắn cũng đúng đối với các nước khác. Một nước như Achentina, nơi những nền văn hóa bản địa không có mấy ảnh hưởng, đã tìm được cách sáng chế ra những huyền thoại từ chỗ không có huyền thoại. Trong lĩnh vực này cần có một cách tiếp cận biện chứng, cởi mở.
Điều rõ ràng là cần phải lấp đầy cái chỗ trống của quá khứ. Chúng tôi lấp những cái lỗ hổng toang hoác của một lịch sử đã không được kể lại, tiếp nhận và lưu truyền. Tại Mỹ Latinh, người ta nhiều khi tìm cách lấp những chỗ trống ấy bằng những giấc mơ không tưởng.
Làm như vậy, người ta đã nhờ đến trí tưởng tượng để tạo ra quá khứ, nhằm xử lý tốt hơn hiện tại và tương lai. Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor đã có lần nói “cần biết tưởng tượng quá khứ để nhìn rõ tương lai”.
Tương lai trước mắt là 1992 với kỷ niệm lần thứ 500 cuộc gặp gỡ giữa hai thế giới.
- Đây không phải chỉ là tổ chức kỷ niệm mà là suy ngẫm, và phải tránh rơi vào những sự phê phán quá khích hay những sự khuếch đại mà việc xem xét hơi sơ lược lễ kỷ niệm này có thể dẫn chúng ta đến. Ta không nên coi quá khứ như một chuỗi tội ác hoặc một thiên đường đánh mất. Cần phải thừa nhận rằng chúng tôi và tất cả chúng tôi đã làm được trong 500 năm qua đều sinh ra từ cuộc gặp gỡ khốc liệt đó. Đã có một sự va chạm giữa các nền văn hóa, nhưng tai họa của cuộc Chinh phục đã sinh ra chúng tôi, những người Mỹ - da đỏ. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi đã cùng nhau tạo nên cái nền văn hóa nó hiện này hợp nhất chúng tôi lại.
Chúng tôi là sản phẩm của hỗn phối và của ngôn ngữ Tây Ban Nha mà hầu hết chúng tôi nói hiện nay. Chúng tôi sinh ra từ một nền văn hóa Kitô giáo, nhưng thấm nhuần thuyết pha trộn tôn giáo, được phong phú thêm bằng nhiều ảnh hưởng của người da đỏ và người Phi, và điều đó không thể hiểu được nếu bị tước bỏ những mặt nạ của người thổ dân và sau đó là những mặt nạ của người da đen của nó. Như nhà thơ Mêhicô Ramon Lopez Velarde nói: “Chúng tôi mang gương mặt của người phương Tây với những màu sắc của người Maure và người Aztec” và tôi xin thêm, của cả người Do Thái, người Phi, người La Mã và người Hy Lạp.
Văn hóa bản xứ của hai châu Mỹ đã không mất đi, cũng như đã không chiến thắng. Ta nên nói rằng nó đã sống sót để trở thành một bộ phận để cấu thành cái mà José Lezama Lima gọi là cuộc “Phản chinh phục”, tức là câu trả lời của người da đỏ và người Phi đối với sự thống trị của châu Âu tại châu Mỹ. Sự thuần chủng của quân chinh phục đã không kéo dài quá cái đêm ân ái đầu tiên của một người Tây Ban Nha với một phụ nữ da đỏ. Chính sự tiếp xúc trực tiếp và mật thiết này giữa người nam và người nữ là điều khiến cho cuộc chinh phục của Iberia khác với những chế độ thuộc địa khác đã không trải qua sự hỗn phối chủng tộc.
Vì thế, không mảy may lý do gì để giam mình trong thất bại ban đầu của cuộc khám phá và chinh phục, như một số sử gia muốn thế. Thay vào đó, chúng tôi nên tự vấn về bản sắc của mình: chúng tôi là ai? Và cố tìm ra những câu trả lời.
Chúng tôi không thể quay lưng lại nền văn hóa mà chúng tôi đã rèn dũa trong 500 năm mà lại không từ bỏ mọi hoạt động văn hóa trong 500 năm tới. Vì vậy, tôi cho rằng 1992 không chỉ là một năm kỷ niệm mà hơn thế, phải là một năm suy ngẫm về những gì chúng tôi có khả năng thực hiện, nhằm tiến lên thay vì lắng nghe những tiếng còi của chủ nghĩa cực đoan.
Xin hỏi câu cuối cùng: những gì sẽ diễn ra sau 1992?
- Những năm tới sẽ đặt ra những vấn đề lớn, một số trong đó là những vấn đề toàn cầu (tôi muốn nói đến môi trường) và những vấn đề khác xuất phát từ sự va chạm giữa các nền văn hóa xa lạ nhau, và từ làn sóng di dân (về nhân lực, về con người) từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây. Tôi không lo những sự chạm trán giữa các dân tộc bằng những vấn đề văn hóa sinh ra từ nỗi lo sợ “kẻ khác”, lo sợ cái xa lạ với mình.
Tôi tin rằng thiên nhiên kỷ mới sẽ biện minh hoàn toàn cho sự tồn tại của UNESCO và những tổ chức văn hóa khác trên thế giới. Chính trong lòng những tổ chức ấy mà những điều bí ẩn lớn của tri thức sẽ được giải quyết. Liệu một ngày kia, chúng tôi có biết cách hài hòa khoa học, chính trị và các giá trị đạo đức khác nhau không, và làm được việc đó mà không có thái độ duy tâm thái quá hoặc phải đùng đến bạo lực tội lỗi? Liệu chúng tôi có phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn của ảo tưởng và ảo tưởng tan vỡ, của tiến bộ và bạo lực, và thay thế nó bằng một cách nhìn hoàn chỉnh hơn về con người, một cách nhìn mà tôi muốn gọi là “tư duy bi kịch”?
Hạnh phúc và lịch sử hiếm khi trùng hợp nhau. Chúng tôi không được tự lừa mình, nhưng chúng tôi không được buông vũ khí. Chúng tôi bảo vệ và vun trồng cuộc sống và những giá trị làm nên cái giá của cuộc sống: nghệ thuật và tình yêu, tình đoàn kết và văn hóa. Và không phải vì không biết sẽ thành công hay không mà chúng tôi được thoái chí và không thử làm.
Người đưa tin UNESCO tháng 1-1992