(Burkina Phaxô)
trò chuyện với Bahgat Elnadi và Adel Rifaat
Một nền dân chủ dựa trên đoàn kết về thể chất của hệ thống Phi có thể làm cho châu Phi thành một cộng sự đáng tin cậy trong một hệ thống toàn cầu mới.
Nguyên ủy viên Hội đồng chấp hành UNESCO, ủy viên Hội dồng Trường đại học Liên Hợp Quốc, Joseph Ki-Zerbo là một nhà sử học Burkina Phaxô nổi tiếng thế giới, đặc biệt về lịch sử châu Phi. Ông đã viết nhiều bài báo và cuốn sách trong đó có cuốn Lịch sử châu Phi đen (1972) được dịch sang 8 thứ tiếng, và tham gia biên soạn bộ Lịch sử đại cương châu Phi (tập 1, 1980). Năm 1990, ông xuất bản cuốn Eduquer ou périr (Giáo dục hay là chết). Trong bài trả lời phỏng vấn này, ông chỉnh sửa lại một số quan niệm sai lầm khá phổ biến về lịch sử châu Phi và cho thấy phần cống hiến độc đáo của mình vào tư duy đương đại.
Ông là một trong những kiến trúc sư của dự án đồ sộ Lịch sử đại cương châu Phi do UNESCO xuất bản. Viết sử châu Phi khác với viết sử một địa lục khác ở chỗ nào?
- Các sử gia trên khắp thế giới thực hiện hầu như cùng một chức năng xã hội như nhau. Bước đi của trí óc, các phương pháp nói chung đều giống nhau. Nhưng do chủ đề nghiên cứu tại châu Phi có phần nào khác cho nên lôgích và những nguyên tắc phương pháp luận mà họ sử dụng cần phải thích ứng với lĩnh vực này. Một số nguyên tắc và tiêu chuẩn cần được xác định lại để thích ứng với thực tế châu Phi.
Cũng phải chú ý đến các phương pháp do những người đảm nhiệm vai trò sử gia trong các xã hội của chúng tôi thời tiền thuộc địa. Ta không được quên họ và nói rằng, như có người đã nói, “không có triết học Phi vì trước những triết gia đào tạo lại Sorbonne không có triết gia nào cả”. Đó là một cách đặt vấn đề sai.
Các sử gia châu Phi trước thời kỳ thuộc địa đã ít nhất tìm cách đặt con người vào trong thời gian, cho dù không phải bao giờ họ cũng thành công. Mặt khác, phải tránh một thái cực khác cho rằng chúng tôi khác biệt đến nỗi chúng tôi phải dùng những nguyên lý toán học và khoa học khác với phần còn lại của thế giới! Thực tế là không thể nào hiểu được thực tại của chúng tôi bằng cách nhập khẩu tri thức như kiểu tri thức đã được phát triển tại phương Tây.
Tôi xin dẫn ra hai ví dụ: Thứ nhất là truyền thống truyền miệng được coi như là một nguồn sử liệu. Trong những buổi làm việc tại UNESCO về Lịch sử châu Phi, chúng tôi được phép đánh giá cao nguồn này mà người châu Âu có khuynh hướng cho là phi lý. Chúng tôi đã chứng minh rằng nó có thể được sử dụng như một công cụ duy lý để nghiên cứu lịch sử. Ngược lại, điều đó cũng ảnh hưởng trở lại công cuộc nghiên cứu lịch sử tại chính các nước châu Âu. Đó là một bằng chứng cho thấy rằng dòng chảy của trí tuệ không chỉ diễn ra một chiều…
Ví dụ thứ hai là về dược điển cổ truyền châu Phi, cũng là một đối tượng nghiên cứu lịch sử. Y học châu Phi nhấn mạnh đến một số nguyên lý, như tác dụng y học tâm thần - có thể của một số chất mà các nước phương Tây có xu hướng xem nhẹ. Nói như vậy có nghĩa là có những dự trữ về tính duy lý, những nguyên lý lôgích tại các nước châu Phi chúng tôi, phải được khai thác để đem lại những chân trời mới trong các lĩnh vực tri thức này. Theo tôi, đó là cách đi đúng. Chúng tôi có nhận của châu Âu và cũng cho lại châu Âu một cái gì đó. Nếu bảo rằng chúng tôi phải bắt đầu từ số 0, như thế có nghĩa là chấp nhận một thứ apacthai về trí óc.
Trở lại truyền thống truyền miệng. Hampâté Bâ nói rằng ở châu Phi, khi một cụ già chết đi là mất đi một thư viện. Vậy thì giá trị chính xác của nguồn sử liệu ấy là cái gì?
- Có rất nhiều văn bản truyền miệng, nhưng chúng đã bị xem nhẹ vì từ bao thế kỷ nay lịch sử châu Phi hoàn toàn chỉ được xem xét từ bên ngoài khiến cho người ta coi nhẹ những khoáng sản ấy. Mà đó lại là những mỏ quý, vì chúng sinh ra từ trong châu Phi. Cố nhiên, chúng cần được xử lý, được phân tích phê phán kỹ lưỡng rồi mới được coi là những bằng chứng đáng tin cậy.
Truyền thống truyền miệng có nhiều hình thức khác nhau. Hình thức tinh vi nhất và gần với văn bản nhất là cái được gọi là văn bản truyền miệng được thể chế hóa hoặc hình thức hóa. Một số cơ cấu của các nền quân chủ và các triều đại đã tồn tại ở châu Phi từ 500 đến 1000 năm nay. Trong những trường hợp ấy dần dần hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có nhiệm vụ quản lý ký ức tập thể. Đôi khi người ta gọi họ là những người griot (trong tiếng Mali, họ được gọi là người dyeli), ở những nơi khác, họ lại mang những tên khác. Nhưng những người griot ấy hoàn toàn không giống những người “griot” kích thích sự háo hức cái ngoại lại ở khách du lịch ngày nay. Những người này là các quan chức nhà nước.
Vậy là người Moose, tại Burkina-Phaxô, tại Mali, tại vương quốc Abomey (nay là Bênanh), có những bộ phận được lập ra để quản lý ký ức tập thể. Những bộ phận này được đào tạo tại những địa điểm đặc biệt, mỗi địa điểm có một truyền thống riêng của mình. Tại những nơi ấy, thầy dạy trò theo một giáo trình nhiều năm. Phải qua quá trình đó rồi mới trở thành thành viên chính thức của tập đoàn người griot.
Tất cả những điều đó được miêu tả tỷ mỉ trong cuốn sách của Djibril Tamsir Niane viết về miền Tây Xuđăng.
Trong những trường hợp như vậy, có thể tin rằng đã diễn ra một quá trình truyền bá đúng đắn. Tuy nhiên, vấn đề không phải là nhắm mắt chấp nhận nội dung. Cần phải tiến hành một loạt phân tích phê phán từ bên trong và bên ngoài để kiểm tra nội dung có chính xác hay không. Chẳng hạn, nếu hai dân tộc đối địch nhau cùng diễn đạt như nhau một trận giao chiến thì có nhiều khả năng sự diễn đạt ấy là chính xác. Nếu một dân tộc bại trận thừa nhận thất bại của mình trong truyền thống truyền miệng thì cũng có khả năng là chính xác. Ngoài ra, trong cùng một xã hội, nếu có xung đột giữa hai ông hoàng tranh giành nhau quyền lực thì có thể sinh ra những cách diễn đạt khác nhau, những truyền thống truyền miệng đặc thù. Và điều đó cho phép đối chiếu các bằng chứng, như đối với các tài liệu bằng văn bản vậy. Chính sự đối chiếu này sẽ cho phép đi đến một giả thuyết hoặc một luận thuyết có thể gọi là “chắc chắn”, hoặc “có khả năng đúng”. Truyền thống truyền miệng phải trải qua sự phê phán hết sức duy lý ấy.
Để ta có một khái niệm về mức độ chắc chắn mà những văn bản ấy có thể có, tại xứ sở người Moose, ở Burkina-Phaxô, người đứng đầu các griot phải hằng ngày đọc danh sách phả hệ của “Mogho-Naaba”. Hàng ngày! Ông ta không được phép quên! Và sự hiểu biết ấy được truyền lại cho người sau, vì người đứng đầu các griot làm nhiệm vụ của mình cho đến khi chết hoặc cho đến khi bị thay thế. Mỗi ngày người ấy phải thực hiện cái sự nối tiếp quá khứ ấy. Và ông ta run khi làm việc ấy vì một sai lầm nhỏ nhặt nhất cũng có thể làm cho ông ấy thiệt mạng. Nếu ông ta quên một cái tên hay gán nhầm một hành động nào đó cho một nhân vật khác không có hành động ấy, đám đông người nghe sẽ lập tức phát hiện ra, đám cử tọa ấy như một ban giám khảo chu đáo bảo đảm sự chính xác của những điều ông ta nói ra. Tình hình cũng diễn ra đúng như vậy tại triều đình của vua Abomey.
Nhưng cũng có những truyền thống khác không thành công thức như vậy, không rập khuôn như vậy. Ví dụ “Sundiata fasa”(tức là lịch sử hay lời ca ngợi Sundiata), người anh hùng thế kỷ 13 ở buổi đầu lịch sử Mali mà chúng ta được biết qua những nguồn sử liệu khác của người Arập, đặc biệt là của người Ibn Battouta, đã đến thăm Mali ở thế kỷ 14. Ở đó có một chùm sự kiện gợi lên một cơ cấu kinh tế, xã hội, chính trị và tôn giáo. Những truyện kể được diễn đạt bằng lời ca theo tiếng đệm của nhạc cụ đặc biệt dành riêng cho việc này. Những truyện kể ấy có thể mang lại tính sử thi hay thần thoại, nhưng đôi khi được xác nhận bằng những văn bản. Những tài liệu này đôi khi lại được bổ sung, thậm chí sửa chữa bằng truyền thống truyền miệng.
Những điều trên đây dẫn ta đến khái niệm thay đổi. Sự thay đổi được nhìn nhận như thế nào? Nó được kiểm soát? Hay bị khinh rẻ? Bị lo ngại?
- Người ta thường hay bảo rằng người Phi chỉ lặp lại những gì tổ tiên họ đã làm. Song đó chỉ là một trong những nguyên tắc, chứ không phải là nguyên tắc duy nhất. Người ta đã có thái độ “quy giản” khi giới hạn người Phi ở khía cạnh đó. Ở châu Phi có cả thay đổi lẫn nối tiếp.
Trước hết, cần nhớ rằng không phải tất cả mọi người Phi đều có vị trí xã hội như nhau. Một số người cho rằng ở châu Phi không có giai cấp xã hội, một số người khác lại cho rằng cho dù có giai cấp thì chúng cũng không đặt lại vấn đề một cách triệt để các cơ cấu xã hội. Điều đó có một phần đúng, bởi vì chúng tôi chưa tới giai đoạn chủ nghĩa tư bản công nghiệp cho dù chúng tôi đã góp phần thiết lập chủ nghĩa tư bản tại châu Âu! Dẫu sao cũng tồn tại những khác biệt về quy chế và do đó có những xung đột, chúng có thể gây ra một số thay đổi.
Tôi xin kể hai thí dụ trong lịch sử châu Phi. Thứ nhất là thí dụ về Biton Coulibaly, vua Sesfesgou. Tầm quan trọng của ông vua này là do ông đã áp dụng một thứ thuế thân. Ông ta cũng đã lập ra một quân đội nhà nghề, trước đó không có, và một hệ thống lãnh đạo tập thể. Đó là một trường hợp đặc thù về một sự chuyển tiếp nhờ ở phát minh và sự sáng tạo của một người lãnh đạo đã thực sự là một người khởi xướng trong lịch sử.
Ví dụ thứ hai được nhiều người biết hơn, đó là về Chaka. Sự vươn lên của Chaka là một hiện tượng đáng kinh ngạc đến nỗi nó làm thay đổi vận mệnh của cả từng dân tộc tại miền nam châu Phi và hợp nhất các dân tộc ấy lại thành dân tộc Zulu. Như vậy là tồn tại khái niệm dân tộc. Có người gọi nó là “tiền dân tộc”, nhưng đó là một dân tộc thực sự cho dù nó không có mọi thuộc tính hoặc những dấu hiệu bên ngoài của dân tộc như tồn tại tại các nước phương Tây. Tuy rằng, ngay cả ở phương Tây, khái niệm dân tộc đã phát triển ở những thời kỳ khác nhau tại những nước và những vùng khác nhau.
Chaka trước hết đã đem lại một cái tên chung cho tất cả những ai đã được tập hợp lại với nhau bởi chiến tranh, bởi việc đi chinh phục. Ông đã biến đổi quân đội bằng cách thay đổi vũ khí của nó, chỉ trang bị cho nó những vũ khí đánh bằng tay dùng trong giáp chiến. Sau đó, ông đã dùng một hệ thống chiến lược dựa trên lứa tuổi. Binh lính trẻ nhất được đặt ở phía trước và hai bên cánh để tiến công và vu hồi bọc lấy quân địch. Sau họ là những người lớn tuổi dùng cho ngọn đòn chính. Những người nhiều tuổi nhất chờ ở phía sau, sẵn sàng tiến hành nhiệm vụ khác nếu cần. Đó là thế trận “đầu trâu”. Vậy là con người ấy đã đảo lộn nghệ thuật chiến tranh. Tiếc thay, ông đã kết thúc như một nhà độc tài.
Dẫu vậy, người Phi có một sự gắn bó máu thịt với quá khứ, một sự gắn bó với truyền thống truyền miệng. Thực vậy, tại những nước mà lịch sử được giao phó cho sách vở, cho những văn kiện viết, cho các tài liệu lưu trữ, thì có một thứ khoảng cách, một sự xa cách đối với quá khứ. Trong khi người Phi lại gắn bó chặt chẽ với truyền thống nói, chở đầy những tên tuổi quen thuộc khiến cho lịch sử của họ có khuynh hướng biến thành sở hữu công cộng, được khẳng định và khẳng định lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Liệu có thể xác định một thời điểm chứng kiến sự ra đời của ý thức Phi, vượt lên trên ý thức bộ tộc và thị tộc, thậm chí vượt lên trên cả các quốc gia và các đế chế? Chẳng hạn, sự choáng váng do nạn buôn bán nô lệ da đen trên quy mô lớn gây ra có phải là một thời điểm kiểu đó không?
- Về mặt khách quan thì phải. Tôi có thể nói quả đã có một sự nhận thức trên toàn lục địa Phi, hiểu theo nghĩa là hầu hết các xã hội Phi, vào thời điểm diễn ra cuộc buôn bán nô lệ da đen, đã cùng có cảm nghĩ bị tha hóa, bị tước đoạt này. Nhưng làm sao có thể nói đến một ý thức chủ quan của toàn lục địa Phi? Nó có thể truyền bá và lan rộng như thế nào? Cần phải tính đến những trở ngại tự nhiên trong một lục địa mênh mông như vậy. Điều kỳ diệu là mặc dầu có những trở ngại ấy, những yếu tố thực sự toàn Phi cuối cùng cũng đã nổi lên và liên kết với nhau.
Khi tôi lần đầu tiên đến Bắc Rôđêdia, nay là Dimbabuê, một buổi tối, qua cửa sổ phòng tôi ở khách sạn, tôi nghe vọng đến từ một khu phố xa xăm trong thành phố, một nhịp trống giống hệt tiếng trống quê tôi, khiến tôi đứng dậy nhẩy một mình. Chắc chắn đó là những yếu tố thống nhất.
Nhưng tôi xin trở lại với những trở ngại tự nhiên, trong một thời gian hầu như không vượt qua nổi, giống như khu rừng xích đạo lớn, cái nôi của những sáng kiến xã hội và công nghệ, nhưng dẫu sao vẫn là trở ngại. Sahara cũng là một cái hàng rào sàng lọc và làm chậm lại sự truyền thông. Tất cả những điều ấy khiến cho sự ra đời của ý thức toàn Phi chắc chắn là một quá trình chậm chạp. Nói cách khác, cho dù mọi người Phi đều có cùng một cảm nghĩ ở cùng một thời điểm thì tình cảm chung ấy không thể biến thành một ý thức tập thể muốn hành động. Chưa kể người ta đã dùng những người Phi này chống lại những người Phi khác bằng cách gây ra những xung đột chủng tộc,v.v…
Là một nhà sử học châu Phi, mục tiêu của ông hiện nay là gì? Có phải đơn giản là tìm kiếm rồi phân tích những gì đã diễn ra trong quá khứ, hay ông muốn rút ra những kết luận, những bài học cho tương lai?
- Câu trả lời cho câu hỏi ấy thật bao la. Một mặt có vấn đề nghề nghiệp sử gia. Mặt khác là quan niệm của các dân tộc về lịch sử. Và sau cùng là sự phân biệt giữa lịch sử thực như nó diễn ra với lịch sử mà chúng ta cố dựng lại, tức là sự thể hiện lịch sử như các nhà sử học đã nhào nặn.
Trước hết tôi muốn phân biệt giữa người làm báo và nhà viết sử. Ở đây tôi muốn nói đến cái giai đoạn người ta gọi là lịch sử tức thời. Truyền thông ngày nay diễn ra nhanh đến nỗi các sử gia cảm thấy bị cuốn theo nhu cầu phải miêu tả ngay tức khắc những sự kiện vừa mới xảy ra. Có những bộ sử tức thời thuộc loại đó, ra đời chỉ một vài tháng, thậm chí một vài tuần sau biến cố. Loại sử ấy gần như báo chí. Nhưng nhà viết sử khác với người làm báo ở mối quan tâm đến cái lâu dài, ở chỗ tính đến một khoảng thời gian đáng kể để nói lên những sự nối tiếp kéo dài và những chiều hướng trong các sự kiện hoặc các cơ cấu, nói tóm lại, là một cảnh quan vượt xa hơn cái hiện tại.
Cái khái niệm về độ lớn đó trong thờ gian, tôi không nói là trong không gian, là một trong những yếu tố nổi bật. Rồi còn có vấn đề là ta chỉ căn cứ ở bề ngoài của sự việc, ở những con sóng vỗ ì oạp trước mắt ta, hay ta còn xét đến những dòng hải lưu ở sâu bên dưới, những cơ cấu bên dưới nó giải thích những con sóng kia. Đó là sự phân biệt nổi tiếng giữa trường phái sử gia Annales và trường phái tập trung vào lịch sử của các biến cố.
Nhưng cũng cần nhấn mạnh rằng nhà viết sử không độc lập đối với xã hội mình. Nhà viết sử đáp ứng nhu cầu của xã hội đó, và cho dù những yêu cầu này có vẻ chủ quan hoặc cá nhân thì chúng vẫn có một tầm vóc xã hội. Nhà viết sử không phải từ trên trời rơi xuống mà thuộc về một bối cảnh xã hội nhiều mặt, nó để lại dấu ấn của nó nói lên anh ta cho dù chỉ là thông qua những gen mà anh ta mang trong người. Người viết sử không phải là một kiểu quan tòa độc lập đứng trước một thực tế trừu tượng. Anh ta ít nhiều bị dính líu, nếu không muốn nói là bị dấn thân vào những điều anh ta miêu tả.
Có một thời các sử gia phải đáp ứng những yêu cầu xã hội như phả hệ của các vua chúa, hay đạo lý dạy cho các ông hoàng bà chúa qua những tấm gương trong quá khứ. Bởi vậy, ở một thời kỳ nào đó tại châu Âu, các quan thái phó dạy dỗ các hoàng tử là những sử quan. Sau đó, diễn ra sự phát triển của dân tộc và nó đã sản sinh ra những sử gia nhấn mạnh chủ yếu đến các biến cố hoặc những con người sáng lập ra nhà nước - dân tộc.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thời kỳ quan tâm đến các cơ cấu, cùng với nhau hay sau các hệ tư tưởng. Đó là trường phái Annales với người thầy của tôi là Fernand Braudel, trường phái ấy đã thực sự mở ra không gian mới này, dải ngân hà trí tuệ này, mở ra lịch sử. Tôi phải nói rằng nhà sử gia châu Phi thực sự có thể giang rộng cánh cửa của mình tại đây vì có sự tồn tại lâu dài của các cơ cấu bên trong các nền văn minh của chúng ta.
Ta thấy có những thứ không thay đổi từ hàng thế kỷ nay, hoặc lặp lại như cách đây 100 năm. Tôi đã có dịp tham dự vào lễ tức vị của moro naaba cách đây hơn 20 năm. Và gần đây diễn ra lễ tức vị của đứa cháu nội ông ta, và nghi thức thiêng liêng vẫn như nhau. Nhưng xin hãy ghi nhớ rằng lâu bền không phải là bất động. Các cơ cấu không bao giờ hoàn toàn cố định. Mọi thứ đều chuyển động, hoặc cuối cùng sẽ phải chuyển động. Điều quan trọng là phải phân tích thật sâu sắc các thực tế ở châu Phi, chụp bằng X quang sự kết hợp các nhân tố đã đưa một cơ cấu lâu bền vào trong một quá trình biến đổi.
Trong suốt cuộc phỏng vấn này, ông đã nói đến tính lâu bền và những cơ cấu, nói đến đoạn tuyệt và thay đổi. Xã hội Phi xem chừng là một sự pha trộn của hai thứ đó. Nhưng cũng thấy rõ là trong thế giới hiện đại, với việc chinh phục thuộc địa và những gì diễn ra tiếp theo, quá trình thay đổi đang diễn ra dồn dập. Theo ông, thay đổi nào là quan trọng nhất? Những gì đang xẩy ra với những cộng đồng trước đây đã từng dựa trên sự lâu bền ấy nhưng đã bị rung chuyển mạnh mẽ từ một thế kỷ nay? Nhận thức xã hội Phi vì thế đã biến đổi như thế nào?
- Đã có cùng một lúc những yếu tố lâu bền đáng kinh ngạc và cả những sự chạy trốn về phía trước, những sự sụt lở đất, đôi khi không mục đích, bởi đó là một hiện tượng ngoại lai, từ bên ngoài đến. Tôi cho rằng thời kỳ buôn bán nô lệ da đen có thể được coi như là một thời kỳ chẩy máu, đã làm tiêu hao, kiệt quệ các lực lượng sinh học và xã hội của châu Phi. Nhưng sự thay đổi cơ bản là việc xâm chiếm thuộc địa. Xâm chiếm thuộc địa là một vụ cắt xẻo lớn. Đó là một sự cách ly tàn bạo, làm cho các nạn nhân của nó bị cắt rời khỏi nhiều thứ thiết yếu. Đó là ly hôn cưỡng bức với lịch sử của chính mình, với cơ cấu xã hội của mình, với quy chế của mình: cách tổ chức riêng về không gian, việc sử dụng ngôn ngữ của mình tại những nơi công cộng chính. Nói vắn tắt, đó là một vụ diệt dân tộc điểm xuyết bằng những cuộc diệt chủng.
Nhưng thông qua sự thay đổi ấy, đã phát triển những sự việc mới: thông qua một thứ biện chứng, việc xâm chiếm thuộc địa đã cho phép triển khai hoặc thực hiện một số việc tại châu Phi. Chẳng hạn, nó đã tạo ra những không gian lớn bao gồm nhiều cộng đồng, và đôi khi bằng biện pháp tàn sát, đã thiết lập thứ hòa bình của nó gợi lại cái “Pax romana” (Hòa bình theo kiểu La Mã) xưa kia. Nhưng người Phi đã không mất đi sự sáng tạo của họ dưới thời thuộc địa, trái ngược với ý kiến của một số sử gia thực dân. Do đó mà một lịch sử châu Phi, nhìn từ bên trong, là quan trọng. Trong thực tế, nhiều xã hội gọi là “tĩnh lại” và thụ động đã vẫn sống, phát triển những quá trình nhiều khi dẫn đến phản kháng hoặc thậm chí nổi dậy, cho đến tận Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nhưng sự sáng tạo này, từ khi kết thúc chế độ thuộc địa, không chỉ hướng về việc tìm lại nhịp đập trong quá khứ. Nó tất yếu tìm cách cách tân, sáng tạo ra một tương lai không chỉ là lặp lại quá khứ….
- Thực ra, các chiến lược phản kháng thường giống nhau trong thời kỳ thuộc địa và sau thuộc địa, chẳng hạn trong cái mà ngày nay ta gọi là khu vực “không chính thức”. Cuộc đấu tranh vì bản sắc và tự trị, mà ta không được lẫn lộn với việc ngu xuẩn cự tuyệt thay đổi, đã mang rất nhiều hình thức, mà dễ thấy nhất là đấu tranh vũ trang. Nhưng ngay cả những thủ lĩnh có tiếng là “nhu mì”, khi bị yêu cầu cử con cái đến trường học của người da trắng, cũng thường tìm cách thay thế bằng con cái những người hầu hạ của mình để con mình được cắt đứt mọi sự liên lạc với chế độ ngoại bang. Thanh niên bị gọi làm nghĩa vụ quân sự hoặc lao động cưỡng bức thường lẩn tránh bằng cách di cư hoặc tự gây thương tích cho mình.
Về tôn giáo, cho đến tận ngày nay, đó là một trong những thành trì thách thức chính quyền. Người Phi tỏ ra táo bạo trong việc giải thích lại đức tin, hòa trộn các yếu tố đạo Kitô hoặc đạo Hồi với các tín ngưỡng và phong tục cổ truyền. Nhưng nói chung, so với người châu Á chằng hạn, người châu Phi thích nghi ít và làm theo nhiều. Và lý do chính đáng, khi người ta không có một khu vực công nghiệp tự quản thì phạm vi hành động của trí tưởng tượng sáng tạo thật là hẹp…
Từ mấy năm nay, người ta thấy có những thanh niên đứng lên nhân danh tự do và dân chủ, và họ sẵn sàng chết vì những ý tưởng ấy. Những thanh niên ấy là ai? Họ từ đâu ra?
- Tuổi trẻ đáng khâm phục ấy là kết quả của một chế độ chia rẽ lâu đời. Họ đã bị mắc kẹt hai lần. Bị mất gốc vì ảnh hưởng mạnh mẽ của một hệ thống nhà trường ngoại sinh và những bộ phim truyền hình và những buổi phát thanh từ phương Bắc đổ vào, họ đã bị cắt khỏi hệ thống quyền lợi và nghĩa vụ của châu Phi. Họ vừa tự do vừa là nô lệ. Bởi họ bước vào một thị trường “hiện đại” với một sức mua nhỏ xíu, nhưng với một sự háu ăn lớn, bị kích thích bởi các phương tiện thông tin đại chúng. Đối diện với họ là những kẻ độc tài, nhiều khi không có học vấn bằng họ, nhưng lại có trong tay quyền lực và tài sản… Đối với những thanh niên kia, quá khứ là mù, hiện tại là câm và tương lai là điếc.
Trong điều kiện ấy, quả bom thanh niên nhất định phải nổ tung. Các chế độ độc tài không tạo ra việc làm, trừ việc làm cảnh sát và tra tấn mà đối tượng chính là những thanh niên ấy.
Dân chủ, nếu chỉ ở hình thức, chỉ là một thứ lừa gạt, một thứ thuốc xoa dịu. Chế độ đa đảng là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Nếu các điều kiện khác về cơ cấu không được áp ứng thì dân chủ chỉ còn là một bộ xương, một văn bản không có văn cảnh. Không có da thịt của một mức phát triển tối thiểu, không có dòng máu của một trình độ văn hóa dân chủ tối thiểu, người ta sẽ rơi vào những thất vọng cay đắng đã đi liền theo sau độc lập và cuộc chạy đua mù quáng vì tăng trưởng kinh tế.
Đâu là những chương trình và những dự án xã hội của hàng trăm đảng phái đã mọc lên như nấm ở châu Phi trong mấy năm qua? Vào lúc chủ nghĩa cộng sản bị co lại và mô hình tư bản chủ nghĩa bộc lộ nhiều thiếu sót về cơ cấu, hệ thống của châu Phi có thực là không có gì đem lại không? Một ví dụ: bằng một thứ “bảo hiểm xã hội” nào người Phi cho đến bây giờ đã tìm cách chăm sóc được con cái họ, những người ốm đau và những người già cả của họ? Ở đâu đó có một hình thức đoàn kết về thể chất, nó có lẽ là đường biên giới mới “không vượt qua được” của văn minh nếu như văn minh hy vọng chọc thủng được thái độ vị kỷ dã man và tự sát hiện nay. Một nền dân chủ dựa trên tinh thần đoàn kết ấy có thể làm cho châu Phi trở thành một người cộng sự đáng tin cậy trong mối quan hệ cộng sự toàn cầu mới. Với điều kiện là có một điều kiện tiên quyết thiết yếu không kém khác là sự hòa nhập của châu Phi, mà chỉ có nó mới đưa được chúng tôi đến với những công nghiệp lớn, đó là khả năng gắn nền kinh tế của chúng tôi vào một con tàu mới các giá trị kết hợp những gì tốt đẹp nhất ở các nơi khác với những hoa thơm trái ngọt của lịch sử của chúng tôi.
Người đưa tin UNESCO, tháng 7-8/1992