kể về
MỘT THỜI ẤU THƠ HY LẠP
Ai quên được những điệu Bouzouki tuyệt vời trong phim Zorba người Hy Lạp hoặc phần nhạc của những phim Z và Thế bị bao vây... Nhà soạn nhạc Hy Lạp Mikis Theodorakis đã đưa được tâm hồn và thiên tài của dân tộc mình vào các tổng phố của ông. Nhưng Theodorakis cũng là chiến sĩ ngay từ buổi đầu: hiện tại, trong nghi viện nước ông cũng như trước kia, trong thời bí mật và ở chiến khu, ông vẫn tiếp tục đấu tranh vì tự do và công lý, cuộc đấu tranh đã hơn một lần đưa ông đến ngục tù hoặc lưu đày. Ở đây, ông thuật lại những hoàn cảnh đã làm nẩy nở thiên hướng âm nhạc và dẫn đến sự dấn thân chính trị của mình.
Mikis Theodorakis, ông là ai?
− Tôi sinh ngày 29 tháng 7 năm 1925 ở đảo Chios đối diện với làng quê của mẹ tôi ở Tiểu Á, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Cha tôi quê ở Crète, là tình nguyện quân trong cuộc chiến tranh Balkan lần thứ nhất, bị thương, rồi chuyển vào ngạch hành chính. Khi quân đội Hy Lạp chiếm đóng Smyrne, ông được bổ về thành phố nhỏ Bourla, ở đó ông làm quen với mẹ tôi. Mẹ tôi là con gái trong một gia đình rất tầm thường trong vùng, ông ngoại tôi mùa đông làm ruộng, mùa hè đánh cá. Anh trai tôi có chút học hành, về sau trở thành vụ trưởng ở Bộ Kinh tế. Như vậy, gia đình tôi thuộc vào cái giai cấp tiểu tư sản công chức quen giáo dục con cái ý thức kỷ luật.
Tôi ra đời sau thất bại quân sự của Hy Lạp đi liền theo cuộc cách mạng Ataturk. Đó là một tấn bi kịch quốc gia thực sự: tôi nghĩ, với việc mất Ionie, Hy Lạp đã mất luôn cả tâm hồn mình. Lịch sử đã muốn Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ phải đối đầu nhau suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài. Cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa của Hy Lạp được tiến hành chống đế quốc Thổ vào năm 1821 và đảo Crète bị Thổ Nhĩ Kỳ thống trị cho đến năm 1912.
Trong tất cả những cuộc chống chọi ấy, cả hai bên gia đình cha mẹ tôi đều có nạn nhân, đều chịu những hy sinh to lớn và theo lời cha tôi, đã đổ hàng sông máu. Vậy cho nên tôi lớn lên trong không khí của những chuyện ái quốc, những bài hát cách mạng hùng dũng - những Rizitika mà tôi chịu ảnh hưởng rất sâu đậm.
Tuy nhiên, ông vẫn giữ kỷ niệm về một thời thơ ấu sung sướng?
- Vâng. Chúng tôi có một ngôi nhà nông thôn, xung quanh toàn là chú bác cô dì, cả một gia đình lớn. Một họa sĩ lớn thuộc phong cách hồn nhiên, Theophilos, cũng đã sống ở đó và nuôi lớn tài năng bằng cuộc sống thôn dã. Sống ở đó, giữa những cây ô-liu, những cây cam, giữa hoa trái với cảnh biển trước mặt, thật là tuyệt diệu! Tôi còn nhớ một con tàu mỗi tuần hai bận qua đây. Hình ảnh con tầu trắng trên mặt biển xanh đã hằn dấu trong tôi đến mức như thể nó để lại một vết thương, một cái sẹo của niềm say sưa ngây ngất. Tôi nghĩ rằng trong tất cả những tác phẩm tôi đã viết, tôi đã tìm cách tái tạo cái vẻ đẹp ấy, tìm lại những hình ảnh đã in sâu trong ký ức tôi như một giấc mơ con trẻ ấy.
Tôi cũng nhớ những buổi tối chúng tôi cùng với cha tôi nằm dài trên mặt đất ngắm bầu trời. Cha tôi rất thuộc tinh tú, ông giải thích cho tôi, kể tên và sự tích các vì sao, đưa tôi lên chu du trên đó.
Một kỷ niệm khác về thời thơ ấu, thuộc loại in dấu mãi trong ta, tôi có được nhờ ông chú tôi. Sắp sửa được bổ nhiệm làm việc tại lãnh sự quán Alexandria thì ông về làng cưới vợ. Ông mang về làm quà cho tôi một cái máy hát và những đĩa nhạc Hy Lạp, cổ điển và dân gian cũng như nhạc jazz bấy giờ đang phát triển đến tột đỉnh. Hồi đó tôi lên bốn và phát hiện ra âm nhạc. Tối tối, chúng tôi tổ chức khiêu vũ, thanh niên nam nữ nhảy charleston, fox-trot và tôi phụ trách quay máy hát. Đó là những thời điểm rất đáng kể trong đời tôi.
Chú tôi còn cho tôi một album những aria trữ tình và trong một thời gian dài, vì tập nhạc đó mà tôi sợ opera. Tại sao? Hẳn là vì giọng của các ca sĩ giọng nam cao cỡ lớn ấy và những nữ danh ca ấy có một cái gì dễ sợ đối với một đứa trẻ ở tuổi tôi. Mãi đến năm sáu mươi tuổi tôi mới quyết định đi vào opera. Âm nhạc thời thơ ấu của tôi, thứ âm nhạc tôi đã nghe trên cái máy hát ấy đã góp phần quyết định tạo nặn sở thích của tôi trong một thời gian dài.
Hồi ấy, ông là một đứa trẻ như thế nào?
- Tôi có những ý tưởng thật kỳ khu. Tôi muốn bay như chim. Thế là tôi trèo lên cây và tôi lao vào không trung để ngã giập mày giập mặt, đó là cái chắc. Nhưng tôi lại thử nữa, đinh ninh rằng cuối cùng sẽ đạt tới đích. Một hôm, tôi định lao từ trên một bức tường cao ba mét, tin rằng mình sẽ bay và hạ cánh xuống bãi biển mé dưới. Tôi sắp sửa nhảy thì ông nội tôi chồm tới, định đỡ tôi cho tôi khỏi bị thương. Tôi rơi xuống đầu ông tôi làm cụ mất thăng bằng. Tôi bị gãy cổ tay, còn ông cụ thì gẫy một cẳng chân. Quanh tôi, cứ là nháo nhác cả lên. Người ta chỉ rối rít với cái cổ tay tôi và chẳng ai lo lắng đến ông tôi. Phẫn trí, ông già dỗi không chịu ăn uống gì hết, điều đó cộng với hậu quả của vết xương gãy, rốt cuộc, đã làm hủy hoại sức khỏe của cụ. Ít lâu sau, cụ mất. Đó là lần đầu tiên tôi trông thấy một người chết và tôi chẳng hiểu gì cả.
Thiên hướng âm nhạc đã đến với ông như thế nào?
- Ở Hy Lạp, những năm 1928-1930 rất xáo động. Các chính phủ kế tiếp nhau, điều đó chẳng thuận lợi gì cho đời sống công chức. Cha tôi là dân Crète, vậy là người theo phái tự do chủ nghĩa, vậy là người theo phái Venizélos. Venizélos không chỉ là thần tượng của cha tôi, mà còn là bà con họ hàng nữa. Khi ông ấy trở thành thủ tướng, cha tôi được bổ nhiệm làm phó thống đốc Epire. Đó là một vùng đất nghèo, trẻ con rất bẩn thỉu, độc đi chân đất; tôi là đứa duy nhất mang giày. Tôi ngượng quá phải bỏ ra... Rồi Venizélos đổ và cha tôi bị chuyển đến Céphalonie, một cương vị kém vai vế hơn - và nhất là ít bổng lộc hơn nhiều, đó là điều rất khổ tâm.
Về mặt văn hóa, Céphalonie hoàn toàn khác với Epire. Vùng này trước đây không bị đế quốc Thổ chiếm đóng. Những ảnh hưởng của Venice, rồi của Anh hãy còn thấy rõ trong cả giọng nói của cư dân. Âm nhạc ở đây có phần mang chất phương Tây. Chính ở đây, lần đầu tiên tôi được nghe một dàn nhạc giao hưởng. Dàn nhạc này thường chơi ở quảng trường công cộng và mỗi khi đi qua đó, tôi cứ đứng như chôn chân xuống đất, sững sờ vì thán phục. Ông nhạc trưởng gây ấn tượng mạnh đối với tôi; khi tôi hỏi mẹ tôi ông ta làm gì, mẹ tôi đáp: “Con người ấy đau khổ”. Cả với tôi, thứ nhạc ấy cũng là đau khổ.
Hồi tôi đang học ở trường tiểu học, có lần đức Tổng giám mục vùng Céphalonie đến thanh tra lớp tôi, người bảo các bạn tôi và tôi hát quốc ca để thử giọng chúng tôi. Hai mươi đứa trong chúng tôi được chọn để hát thánh ca vào ngày Thứ Sáu thánh ở một nhà thờ nhỏ địa phương. Những điệu hát ấy rất cổ và rất đẹp - có hai bài theo điệu thức và một theo âm thức. Tôi xin vào ban đồng ca của nhà thờ, chỉ để tiếp tục nghe những bài thánh ca đó. Cách đây mươi năm, tôi đã lấy lại ba bài thánh ca ấy đưa vào bản giao hưởng số 3 của tôi để kỷ niệm những thời điểm không thể quên đối với tôi.
Sau Céphalonie, chúng tôi được chuyển đến Patras, một thành phố trưởng giả giàu có hơn, tuy không ngoạn mục bằng. Ở đây, trong khi đi mua sách, tôi phát hiện ra thế nào là một tổng phổ âm nhạc.
Cha tôi giải thích cho tôi rằng người ta viết nhạc như thế đó và cho tôi bài học đầu tiên. Trường tôi có một ban đồng ca rất khá do một giáo sư, đồng thời là người chơi vĩ cầm, chỉ huy. Sáng nào, chúng tôi cũng hát một bài kinh nguyện của Haydn, bài này có một đoạn lĩnh xướng mà tôi trình diễn chắc là thành công vì giáo sư thường xuyên mời mọi người đến nghe. Một hôm, thầy bảo tôi mua một cây vĩ cầm và tôi đồng ý. Rồi tôi vào nhạc viện Patras, nhưng tôi hơi kéo sai một nốt là thầy dạy vĩ cầm đánh liền. Cuối cùng, tôi phải bỏ thầy mà tiếp tục học một mình. Như vậy, vào khoảng năm mười hai tuổi, tôi đã viết những ca khúc đầu tiên dựa trên những bài thơ cổ điển trong sách giáo khoa của tôi. Đó là những giai điệu đẹp, thậm chí có thể là những giai điệu đẹp nhất tôi từng viết. Loại này gồm gần sáu mươi bài, mà tôi đang định xuất bản. Tôi sẽ đề tặng lứa trẻ em ở các trường vì đây là tác phẩm của một học sinh.
Chúng tôi rời Patras để đến một thành phố ở quá xuống phía Nam, nghèo hơn. Dạo ấy là mùa hè và chiều chiều, tất cả mọi người dạo chơi trên quảng trường công cộng. Tôi đã cao ngổng, rất mảnh khảnh và cái dáng dấp lêu nghêu của tôi thu hút những cái nhìn thường là diễu cợt. Cuối cùng, tôi giam mình trong nhà, nhờ đó mà tôi có những tiến bộ lớn về âm nhạc. Ở ngôi nhà trước mặt, có một cô gái xinh đẹp mắt xanh làm tôi mê mẩn. Ở lì trong buồng, ngắm cô gái không nhìn thấy mình, tôi dùng vĩ cầm soạn rất nhiều bài hát. Tôi đem dạy mẹ tôi, bà có giọng đẹp và hát tốt. Tối đến, sau bữa ăn, khi cha tôi hỏi chúng tôi làm gì trong ngày, hai mẹ con bèn hát cho ông nghe những bài hát đó. Ông cũng hát theo rồi sau đó, em trai tôi cũng hòa vào trọn bộ tứ tấu. Tôi vừa hát vừa đệm bằng ghi-ta hoặc vĩ cầm. Cha tôi bèn mời các bạn, các quận trưởng, quận phó và cả một hội nhỏ công chức đến nghe chúng tôi hát. Thành thử gần như là một nghề nghiệp: tối nào, tôi cũng phải chuẩn bị một cuộc hòa nhạc cho khách khứa của cha tôi.
Năm sau, chúng tôi lại đổi sang một thành phố khác. Càng ngày tôi càng cô đơn, tôi đọc rất nhiều: cha tôi có một tủ sách gồm 1600 cuốn, chuyển tới đâu cũng mang theo.
Về sau, ở Tripolis, tôi bắt đầu học dương cầm và hòa âm. Chúng tôi không đủ tiền để mua piano, mà trong cả thành phố chỉ có ba cái. Tôi tập gam trên cây piano của một người Mỹ giàu có, ông ta cho phép tôi đến học ở nhà ông vào giờ lễ chầu sáng chủ nhật. Nhưng khi nào ông về là tôi phải thôi ngay. Lần đầu tiên tôi cảm thấy căm ghét những người giàu có thể sở hữu một cây đàn dương cầm mà họ không dùng đến, trong khi tôi thực sự cần nó thì lại không có được. Nếu tôi trở thành người mácxít, đó là do cây dương cầm đó: trước mắt tôi, nó là hiện thân của bất công xã hội. Cuối cùng, tôi thuê một cây hácmônium, nó rất được việc cho tôi. Nhưng tất cả những tình tiết ấy đã dạy tôi làm nhạc bằng trí nhớ, không cần nhạc cụ, điều đó sau này đã giúp tôi có thể tiếp tục sáng tác trong thời gian bị tù đày.
Ở đâu và vào thời điểm nào ông đã quyết định hiến thân cho âm nhạc?
- Ở Tripolis, thuộc Peloponnese, một vùng nghèo khó, đời sống rất khó khăn. Nhiều người di trú sang Mỹ hoặc tìm vận may ở Athens. Tôi quyết định trở thành nhạc sĩ, mặc dầu tôi khá giỏi toán và thích biện giải trừu tượng. Cha mẹ tôi và thầy dạy toán thì hy vọng tôi sẽ chọn một nghề oai oai, như kiến trúc chẳng hạn. Nhưng tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu nhạc cổ điển và sáng tác. Tôi bắt đầu viết nhạc cho dương cầm hồi tôi quen cô gái có piano và thường chơi nhạc Schumann, Beethoven. Chúng tôi thường tổ chức hòa nhạc và mời các thân hào trong thành phố đến nghe. Đó là vào thời kỳ chiếm đóng và chúng tôi không có thú giải trí nào khác ngoài thơ và triết học. Chúng tôi dịch các tác giả cổ điển - Aristote, Platon, Homère - ra tiếng Hy Lạp hiện đại. Còn điện ảnh thì toàn chiếu phim Đức, tuy đôi khi chúng tôi cũng được xem những bộ phim âm nhạc tuyệt vời thay vì trò tuyên truyền quân sự. Chẳng hạn, tôi đã được xem những phim Đức kết thúc bằng chương cuối bản Giao hưởng số 9 của Beethoven, điều đó tác động đến tôi như một tiếng sét. Tôi xúc động đến phát ốm, phát sốt. Cuối cùng tôi tuyên bố với cha tôi và thầy dạy toán rằng từ nay, tôi chẳng quan tâm đến gì khác ngoài âm nhạc.
Năm 1942, cha tôi mang những bản nhạc của tôi đến gặp Giám đốc Nhạc viện Athens. Ông này đề nghị gặp tôi. Tôi đến nhà ông, chúng tôi đã trò chuyện, ông nghe tôi chơi dương cầm và cuối cùng tặng tôi một học bổng tại nhạc viện mà tôi lẽ ra phải nhập học vào năm 1943. Nhưng kể như vậy là tôi đã nhảy cóc một quãng thời gian bởi vì trước đó ít lâu tôi đã có một cuộc gặp gỡ quan trọng khác là hội nhập phong trào kháng chiến và chủ nghĩa Mác.
Đó là thời kỳ chiến tranh. Chúng tôi tin Chúa sâu sắc và sùng đạo. Lòng yêu Chúa Kitô, lòng từ thiện Cơ Đốc và những tình cảm tôn giáo đáp ứng một nhu cầu thực sự trong chúng tôi khi phải đối mặt với bạo lực khắp xung quanh, với sự xấu xa của thế giới. Đọc kinh Phúc Âm cũng là một hình thức đề kháng, nhưng chưa đủ. Phải làm một cái gì: phản ứng lại. Ngày 25/3/1942, chúng tôi đã tổ chức ở Tripolis một cuộc biểu tình chống bọn Ý. Mặt trận dân tộc giải phóng, thành lập ở Athens, đã cử phái viên đến giúp chúng tôi. Phong trào này theo chủ nghĩa cộng sản. Cuộc biểu tình của chúng tôi bị bọn Ý bao vây. Tôi lao vào ẩu đả và hình như đã đánh trúng một sĩ quan. Cùng với những người biểu tình khác, tôi đã bị bắt và đưa đến một trại lính. Ở đó, người ta đã tra tấn chúng tôi để bắt khai ra tên tuổi của những người lãnh đạo. Sau đó, tôi bị ném vào tù. Chính tại đó, tôi đã gặp những người kháng chiến đầu tiên - những người cộng sản. Hồi đó tôi tham gia phong trào thanh niên quốc gia do Metaxas thành lập và chúng tôi ghét cay ghét đắng chủ nghĩa cộng sản. Chỉ riêng cái từ đó đã gợi cho tôi một con quái vật gớm ghiếc. Nhưng khi tôi bắt đầu nói chuyện với họ và được biết họ là những người đầu tiên đấu tranh chống lực lượng chiếm đóng, điều đó đã khiến tôi phải suy nghĩ. Và khi ra khỏi nhà tù, tôi dã tham gia kháng chiến.
Tôi được giao phụ trách tổ kháng chiến đầu tiên ở trường học. Tôi phải giải thích ý tưởng của mình và biện minh cho những điều tôi đề xuất. Do đó, tôi phải đọc và tìm hiều về chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng mà chúng tôi dựa vào để chiến đấu với kẻ thù.
Sự thay đổi thái độ ấy có đột ngột không? Hồi ấy ông chỉ quan tâm đến âm nhạc, vậy mà ông đã trở thành người kháng chiến chính trị.
- Không, điều đó cũng chẳng mấy đột ngột. Đành rằng tôi vẫn quan tâm đến âm nhạc, nhưng chúng tôi bị thúc đẩy bởi những tình cảm ái quốc sâu sắc. Chúng tôi đau khổ ghê gớm trong thời kỳ bị chiếm đóng. Đất nước bị chia sẻ ba bề bốn bên giũa quân Đức, Ý và Bungari. Người ta bàn tán xôn xao về nhục hình tra tấn, nhân dân lâm vào nạn đói. Quân Đức bao vây Athens bốn tháng và 300.000 người bị chết đói. Gia đình tôi xưa nay vẫn theo chủ nghĩa quốc gia, nên tôi tham gia kháng chiến cũng là chuyện đương nhiên mà thôi.
Vào thời kỳ đó, tôi có làm một buồi hòa nhạc công cộng, bọn sĩ quan Ý đến dự lấy làm ngạc nhiên thấy một nhạc sĩ vừa biểu diễn vừa sáng tác trước mặt họ. Từ đó trở đi, tôi thành nổi tiếng trong giới chức chiếm đóng vì Tripolis là một thành phố nhỏ, mọi người đều biết nhau. Viên chỉ huy đơn vị đồn trú của Ý, một viên đại tá ghê gớm, thường làm những việc quá khích khiến chúng tôi chết khiếp. Một buổi tối, vào lúc mọi người đang dạo chơi ở quảng trường chính theo thường lệ, y đột nhiên tiến đến nắm lấy vai tôi, cất tiếng hát La donna à mobile. Mọi người kinh ngạc nhìn chúng tôi. Thế rồi, đùng một cái, y thay đổi thái độ, đẩy tôi đến bệnh viện, nơi bị trưng dụng làm nơi đóng quân cho lính Ý và ra lệnh khám xét tôi. Không tìm thấy gì, y ra lệnh cho tôi sáng hôm sau phải đến trình diện hắn tại văn phòng. Khi tôi bước vào, y đứng dậy chào theo lối nhà binh và nói: “ Tôi chào người yêu nước và tôi ghét tên cộng sản!” Rồi y báo cho tôi biết ngày mai quân Ý phải rút khỏi thành phố và giao lại cho lực lượng Đức, và bọn này yêu cầu một danh sách gồm 20 chiến sĩ kháng chiến để hành quyết. Cho nên để cứu mạng tôi, y đã phải bắt tôi, tống đi Athens ! Hoàn cảnh xô đẩy tôi đến Athens là thế đó. Chỉ ít ngày sau, viên đại tá đó chết trận.
Mussolini bấy giờ đang suy và nhiều lính Ý chạy sang phía chúng tôi, mang theo vũ khí và đạn dược. Họ bị bọn Đức rượt đuổi, gây những tội ác khủng khiếp. Ở Athens, tôi bắt liên lạc và gia nhập du kích. Trong đơn vị tôi có nhiều người Ý cũng chiến đấu cho đến khi giải phóng.
Năm 1944, tôi bị Gestapo bắt. Rồi quân Đức rút. Có một quãng thời gian xả hơi và mặt trận yêu nước của những người cộng sản lợi dụng ngay. Sau đó, lực lượng Anh đến và có một lúc đã ủng hộ việc thành lập một chính phủ thống nhất dân tộc mới dưới sự lãnh đạo của Papandréou, nhưng rồi họ mau chóng xoay ra xúi giục đối đầu với cộng sản.
Papandréou bị kẹt giữa hai làn đạn, cuối cùng xin từ chức. Thế là chúng tôi liền tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Anh ở Athens, trong đó bảy mươi người đã bị cảnh sát giết chết tại Quảng trường Hiến pháp. Bấy giờ, du kích nổi dậy hàng loạt chống Anh đã tới với những vũ khí hạng nặng và tàu chiến. Đảng cộng sản không muốn đưa những chiến sĩ dày dạn nhất của mình vào trận, nên rút họ khỏi Athens. Và thay vào đó, bọn tôi, đám quân dự bị ban ngày là sinh viên, sau giờ học là lính, được phái lên chiến tuyến ! Mặc dầu thế chúng tôi cũng kháng cự được 30 ngày. Sau đó, quân Anh chiếm đóng Hy Lạp.
Trong hai năm tiếp theo, đảng cộng sản vẫn còn mạnh và tiếp tục tổ chức biểu tình. Rồi những người cộng sản mắc bẫy khiêu khích và nội chiến nổ ra. Một đội quân mới gồm 70.000 chiến sĩ, trong đó 15.000 là phụ nữ, đã được huy động. Đó là một lực lượng quân đội thực thụ, được huấn luyện tốt, do các nước Đông Âu giúp đỡ xây dựng. Sức mạnh của nó làm phái quốc gia kinh ngạc và nó kiểm soát được gần hết nước Hy Lạp ! Chính lúc đó, lực lượng Mỹ đổ bộ với cả một hạm đội, củng cố xây dựng lại quân đội quốc gia, cung cấp cho hàng loạt phương tiện thiết bị đặc biệt. Họ truy đuổi du kích, bắt bớ hàng loạt và đầy toàn bộ người dân của nhiều làng đến những đảo hoang vắng. Bấy giờ, Nam Tư bèn đóng cửa biên giới không cho du kích chạy sang. Đám này phải trốn sang Anbani, Tiệp Khắc, Bungari, Rumani và cả Liên Xô nữa.
Tôi bị bắt lần đầu vào năm 1947. Rồi chính phủ thay đổi, và tôi được ân xá. Tôi trở về Athens, nhưng lập tức phải rút vào bí mật. Tôi lại bị bắt và đầy đến đảo Icaria, bị giam ở Macronisos với những tù chính trị khác, chuyển qua một đơn vị quân đội và bị tra tấn nhiều ngày trước khi được đưa vào bệnh viện rồi quay về Macronisos. Khi kết thúc chiến tranh, tôi chỉ còn là một bóng ma đi trên nạng.
Mặc dầu vậy, ông vẫn tiếp tục sáng tác trong suốt thời kỳ náo loạn ấy?
- Tôi nghĩ chính trong những năm khó khăn ấy, tôi đã viết những tác phẩm quan trọng nhất của đời mình. Tôi cũng chép lại những tổng phổ của những nhạc sĩ cổ điển lớn để nghiên cứu từ đầu đến cuối. Bằng cách ấy, tôi đã phân tích chín bản giao hưởng của Beethoven. Tôi nghĩ không ai từng sáng tác cái gì toàn diện như thế. Các sáng tác của tôi bị tịch thu ở Macronisos, nhưng tôi đã ghi nhớ và về sau có thể chép lại được.
Năm 1949, tôi đã có thể trở lại Crete, về ngôi làng cha tôi. Đó là một trải nghiệm khủng khiếp: tất cả anh em họ của tôi đã từng tham gia quân đội quốc gia đều có mặt và, cũng như tôi, đều bị thương. Một số đã mất tay mất chân. Chúng tôi thuộc cùng một dòng họ, vậy mà đã cắn xé nhau và cuối cùng đều đã thua thiệt. Đó là một bài học mà tôi sẽ không bao giờ quên. Có thể nói nó đã đánh dấu chấm hết cho thời thơ ấu của tôi.
Người đưa tin UNESCO, tháng 7-8/1992