(Chilê)
trò chuyện với nhà văn Urugoay Fernando Ainsa
Văn học và mỹ học đã thay thế ý thức hệ.
Nhà văn Chilê José Donoso là một trong những nhà tiểu thuyết Mỹ Latinh hàng đầu trong thế kỷ này. Sau thời gian giảng dạy văn học Anh tại Mỹ và đi thăm nhiều nước, ông sống tại Tây Ban Nha đến năm 1980 thì trở về Chilê. Tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có Ce lieu sans limites (1974), The Obscene Bird of Night (1979), Casa de Campo (1980), Le jardin d’à côté (1983) và La désespérance (1987).
Dưới đây, ông nói về quan niệm của ông về vai trò của nhà văn trong xã hội.
Trong con mắt các nhà phê bình cũng như độc giả, tiểu thuyết Mỹ Latinh không còn giữ vị trí nổi bật như trong thời kỳ “bùng nổ” của tiểu thuyết vào những năm 1960, cho dù các nhà văn lớn của thời kỳ đó như Gabriel Garcia Marquez, Carlos Fuentes, Mario Vargas Llosa và bản thân ông vẫn xuất bản đều đặn, và một thế hệ nhà văn mới đã xuất hiện tại tất cả các nước Mỹ Latinh?
- Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng một bên là sự quảng cáo rùm beng và khai thác về thương mại xung quanh thời “bùng nổ” trong những năm 1960 mà tôi đã phê phán trong cuốn Historia personal del “boom” (1972) và một bên là ước vọng cao xa về một thứ tiểu thuyết “trọn vẹn” mà các nhà văn hướng tới. Một điều chắc chắn là từ mấy năm nay, các nhà tiểu thuyết Mỹ Latinh đã từ bỏ giấc mơ làm những trụ cột trong các dự án xã hội lớn lao từng là đặc điểm của đời sống chính trị và văn hóa trong các thập kỷ 1960 và 1970. Những dự án đó nằm trong khuôn khổ của những “ý thức hệ vũ trụ”, đưa ra những giải pháp vừa cấp tiến vừa phổ biến xuất phát từ một niềm tin tuyệt đối ở sức mạnh của lý trí.
Ở Mỹ Latinh, thời kỳ ấy được đánh dấu bằng giấc mộng “Bôliva” về một nền văn học thống nhất của lục địa. Đồng thời, mỗi cuốn tiểu thuyết đều nhằm trở thành một siêu phẩm văn chương vì lượng kiến thức bách khoa chất chồng trong đó. Ngược lại, trong thập kỷ 1980 và nhất là trong thập kỷ hiện tại, tiểu thuyết không còn đề xuất một cái nhìn tuyệt đối và bao trùm mọi thứ được thể hiện trong các tập sách dày cộm mà nhiều tác giả thuộc thế hệ tôi, trong đó có bản thân tôi, đã làm. Mục đích của chúng tôi không chỉ là diễn giải thế giới mà còn là thay đổi nó.
Tuy nhiên ông chưa bao giờ là một con người của những xác tín mà là của những hoài nghi, mơ hồ và mâu thuẫn?
- Mâu thuẫn và hoài nghi là một phần của sứ mạng đầy kỳ vọng mỗi người đã tự trao cho mình. Sứ mạng đó là “nói hết thảy mọi điều” trong một cuốn tiểu thuyết, có tham vọng tiêu biểu cho một thời điểm cụ thể trong lịch sử, mà tính chất độc đáo và duy nhất hoàn toàn không có gì nghi ngờ theo con mắt chúng ta.
Ngày nay lịch sử được nhận thức một cách chủ quan, được giải mã thông tin cá nhân. Những gì lịch sử đã giành được về mặt tương đối thì bị mất đi về mặt xác tín. Nhà tiểu thuyết thời nay viết về các số phận cá nhân, ít nhiều điển hình, nhưng họ không còn tham vọng giáo huấn người đọc nữa. Nhân vật của họ bất lực, nhiều khi cô đơn lạc lõng. Chúng ta ngày nay không còn có chỗ để sưởi ấm như trước đây, hồi mà ý thức hệ được dựng làm những mái che trên đầu chúng ta. Ngày nay, và tôi cho rằng như vậy là tốt, chúng ta bị phơi ra nắng gió, không còn được che chở bởi những chân lý đã được phát hiện đối với những bão táp của cuộc đời.
Đó là đối với các nhân vật, còn với nhà văn thì sao? Ngày nay đâu là những quy chiếu của họ? Con người rút cục phải tin tưởng vào điều gì đó chứ?...
- Văn học và mỹ học đã thay thế ý thức hệ. Đây không phải là lần đầu diễn ra điều này. Tôi nghĩ đến nhà văn Anh John Milton chẳng hạn, bị giằng co giữa các thế lực của thời đại Phục hưng và các thế lực chủ nghĩa Thanh giáo. Các quy chiếu văn hóa của tác giả cuốn Lost Paradise (Thiên đường đã mất) chính là những quy chiếu của thời đại ông: các nhà thơ Hy Lạp và Latinh mà gần đây ta mới khám phá lại, các trước tác của các giáo phụ, Kinh Thánh. John Miton đã viết cho những người cùng tín ngưỡng hơn là những người cùng quan điểm chính trị với ông. Trong những lúc khủng hoảng, chính tấm mạng nhện mà các tác giả thời xưa đã dệt nên giữ nhà văn lại bên bờ vực của vực thẳm sinh tồn. Chính di sản văn hóa ấy đã giúp họ tiếp tục sống. Các tác phẩm của quá khứ là sức mạnh thực sự của chúng ta, chúng ta dựa vào những tác phẩm ấy để viết những tác phẩm mới, nhất là khi mọi niềm tin tuyệt đối khác lung lay.
Nhưng khủng hoảng còn có nghĩa là cá nhân bị cám dỗ co mình lại trong vỏ ốc, tạo ra một nơi ẩn náu an toàn cho mình. Mọi thứ đều cho thấy ngày nay chúng ta đang tự giam mình trong một cái “kén” - như người Mỹ thường nói, rập theo một lối sống ích kỷ, an nhàn, biệt lập và thiếu tình đoàn kết.
- Tôi không biết cái “kén” cá nhân và cái “kén” tập thể gồm những điều xác tín về tư tưởng đem lại cho chúng ta câu trả lời cho mọi vấn đề, cái nào tệ hại hơn.
Dù thế nào đi nữa, điều rất lành mạnh là một số rào chắn đã bị vượt qua và một số định nghĩa đã bị xem xét lại. Tôi đặc biệt muốn nói đến thế giới nhỏ bé khép kín dựng lên bởi môn đệ của các giáo phái khác nhau đã ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng hiện đại, từ Freud đến Lacan, từ Marx đến Althusser hay những biệt ngữ khó hiểu của các nhà phê bình mà chỉ những người cùng hội cùng thuyền với họ mới hiểu nổi!
Ngày nay, tất cả những sự trói buộc này đã mất và xem chừng chưa có cái gì khác thay thế. Khía cạnh tích cực của tình hình này theo tôi là chúng ta ở vào một hoàn cảnh mới bị vây quanh bởi những câu hỏi mà chúng ta không có câu trả lời.
Tại sao nhà văn cứ phải luôn luôn có câu trả lời cho mọi thứ?
Đây có lẽ là một đặc điểm của đời sống trí thức Mỹ Latinh. Bị những thực tế bủa vây quanh mình thúc bách, nhà văn luôn luôn cảm thấy bắt buộc phải có những lời tuyên bố và bày tỏ lập trường của mình. Tệ nhất là nhiều người cho rằng mình có “nhiệm vụ” bày tỏ ý kiến về tất cả những gì diễn ra ở trong nước và trên thế giới.
Người trí thức ở chỗ chúng tôi là một người “biết tất”, có quyền thuyết giảng về mọi chủ đề, từ kinh tế đến chính trị. Trong khi đó, các nhà văn châu Âu có xu hướng chỉ tập trung vào công việc của mình tin rằng, một cách hoàn toàn đúng đắn, vai trò của thợ đóng giầy là đóng giầy. Có biết bao nhiêu “nhà tiên tri” đã nhầm lẫn vì nói những chuyện mà họ không hay biết!
Phải chăng có thể nói rằng quan niệm về nhà văn vật lộn với thực tại “ở đây và trong lúc này”, một quan niệm mới đây còn rất thịnh hành ở Mỹ Latinh, ngày nay đang bị khủng hoảng?
- Nhà văn nào cũng buộc phải sống với những bất trắc của thời mình. Đó là điều không tránh khỏi song không phải chỉ có ở Mỹ Latinh. Câu hỏi “Chúng ta là ai?” vẫn hàm ẩn trong mọi nền văn học. Chớ bao giờ quên rằng nhà văn luôn luôn phải là người ngoài cuộc cho dù chỉ chút ít. Nếu về bản chất họ không phải là người ở ngoài cuộc thì dẫu có phải trả giá, nhà văn vẫn phải có thể tách xa bất kỳ cái gì đồng nhất họ một cách quá chặt chẽ với một nhóm người, một ý thức hệ, một giai cấp hay với quốc gia của họ. Phải thận trọng đối với ý tưởng mình thuộc về một cái gì hay một ai đó. Người ngoài cuộc bao giờ cũng nhìn sự việc một cách khác. Đó cũng chính là điều những nhân vật “bị gạt ra khỏi bữa tiệc của cuộc sống”, như tiểu thuyết của tôi, đã nói.
Các nhà văn Chilê, bất chấp tất cả, ngay cả trong những ngày tháng đen tối nhất dưới chế độ độc tài Pinochet, luôn luôn giữ vững sợi dây tình cảm mãnh liệt với tổ quốc của mình. “Mảnh vườn bên cạnh” được ông lấy làm tên cho một cuốn tiểu thuyết của ông là mảnh vườn của tuổi ấu thơ và nỗi nhớ thương về một quê hương được lấy làm nền cho tất cả các cuốn sách của ông.
- Quả là, các nhà văn Chilê có một mối quan hệ rất đặc biệt với tổ quốc mình. Ngay cả chúng tôi, những người sống và viết ở nước ngoài, coi là những nhà văn “siêu quốc gia”, chúng tôi vẫn giữ gìn những hình ảnh, những kỷ niệm - một mảnh vườn bí ẩn nơi chúng tôi ẩn náu tránh những sóng gió khắc nghiệt của đời thực. Như ông biết, giờ đây tôi đã về sống và làm việc trên quê hương mình. Tôi đang hoàn thành cuốn tiểu thuyết Chim sẻ hót bằng tiếng Hy Lạp mà cốt truyện diễn ra ở vùng mỏ Lota. Ngôn ngữ cộc cằn, khô khan, bắt nguồn từ lối ăn nói của thợ mỏ.
Có phải vì thế mà ông trở về Chilê năm 1980, giữa lúc nền độc tài đang thịnh hành?
- Phần nào thôi. Chủ yếu là tôi cảm thấy mọi thứ ở châu Âu đã tròn trịa rồi và với những việc còn lại ở đó, những người như tôi không cần thiết. Tôi tin chắc như vậy. Tôi không thể để lại một dấu ấn nào ở thế giới cũ, nhưng ở Chilê còn có nhiều việc phải làm. Tất nhiên, ở châu Âu tôi có lợi thế của một người vô danh, tôi có thể “cải trang” dưới nhiều thứ mặt nạ khác nhau, tôi có thể ẩn náu, đi lại mà không ai hay. Ở Chilê tôi không thể thoát khỏi cái hình ảnh mọi người đã tạo nên về tôi. Mọi thứ đã được sắp đặt sẵn. Tôi phải đóng vai nhà văn của tôi - một điều không phải là dễ khi người ta, giống như tôi, bị nỗi hoài nghi và bất trắc giằng xé. Nhưng, để trả lời câu hỏi của ông, tôi xin nói rằng lý do thứ nhất khiến tôi về Chilê là nỗi nhớ mong quê hương ngày càng da diết theo tuổi tác, mà với nó thì không có phương thức nào chữa được.
Chủ đề lưu đày được thể hiện đau đớn trong Mảnh vườn bên cạnh, xuất bản ở Tây Ban Nha đúng vào năm 1981. Sự trở lại quê nhà được nói đến trong Tuyệt vọng xuất bản năm 1986. Phải chăng có một yếu tố tự thuật trong đó?
- Đã có nhiều huyền thoại xung quanh chủ đề lưu đày. Dù đi đâu, dù làm gì, con người vẫn mang theo mình quê hương xứ sở; chúng ta không thể sống lưu vong khỏi bản thân mình cho dù người ta có thể nghĩ hay khẳng định điều ngược lại. Ngay cả những người bôn ba khắp thế giới vẫn luôn nhớ về Tổ quốc mình, như nhà thơ Hy Lạp Constantin Cavafy đã viết: “Mãi mãi anh sẽ lại đến thành phố này”. Có lẽ, nên dẫn ra cả bài thơ:
Anh bảo: Tôi sẽ đến một xứ sở khác, một bờ biển khác.
Tìm kiếm một thành phố khác tốt hơn nơi đây...
Rồi anh sẽ chẳng gặp được xứ sở nào khác, chẳng thấy bờ biển nào khác, Thành phố mãi mãi theo anh
Anh sẽ dạo chơi: trên vẫn những con đường đó
Trong vẫn những khu phố đó anh sẽ già đi
Trong vẫn những ngôi nhà đó tóc anh sẽ bạc trắng
Mãi mãi, anh sẽ vẫn đến thành phố này.
Đừng mơ đến một chốn nào khác:
Vì chẳng có con tàu nào cho anh, chẳng có con đường nào cho anh.
Vậy rốt cuộc, có cội rễ, có một mái ấm không phải là điều tồi!
- Tôi không bao giờ nói điều ngược lại, cho dù những người Chilê tuy cắm rễ sâu đến đâu trên mảnh đất phương Nam của họ vẫn bị lôi cuốn về với châu Âu, nơi xét cho cùng, thuộc về nguồn gốc của họ.
Chủ đề du hành đã ám ảnh cuộc đời và tác phẩm của nhiều nhà văn Chilê, như Criollos en Paris (Người Chilê ở Paris) của Joaquin Edwards Bello; Los Trasplantados (Những cây ghép) của Alberto Blest Gana, hay truyền thống “hành trình khai tâm” về châu Âu của trí thức Chilê thế kỷ trước. Các nhà thơ lớn Chilê luôn là những nhà du hành lớn như Pablo Neruda, Vincente Huidobro và cả Gabriela Mistral, trong khi bà vẫn gắn bó sâu sắc với thực tại ở tổ quốc bà. Có qua mưa gió bão bùng mới biết quý hơi ấm của bếp lửa quê nhà. Vì lẽ đó, chúng tôi hiện đang ở trong một tình trạng bấp bênh sung sướng, bị giằng xé giữa khát vọng ra đi và mong muốn ở lại.
Người đưa tin UNESCO, tháng 7-8/1994