(Mỹ)
trả lời Mahmoud Husein và Régis Debray
Tôi sử dụng tất cả các vũ khí.
Là một trong những nhà điện ảnh hàng đầu của Mỹ, Oliver Stone đã giành được nhiều giải Oscar về phim hay nhất và đạo diễn xuất sắc nhất. Oliver Stone đã thực hiện nhiều bộ phim thành công lớn như Scarface (1983), Platoon (Trung đội, 1986), Wall Street (1987) và JFK (1992). Ông theo dõi sát sao những diễn biến chính trị và xã hội ở Mỹ mà ông miêu tả một cách không khoan nhượng.
Ông đã làm nhiều phim nói về những đề tài hết sức tế nhị. Đó không phải là một điều dễ dàng. Trong ngành điện ảnh, không phải muốn làm cái gì là có thể làm được. Có phải không?
- Đúng thế, không bao giờ dễ dàng. Bởi vì các hãng phim muốn kiếm tiền. Vấn đề luôn luôn đặt ra với loại phim này là thế này: đề cập một đề tài có nhiều ý kiến tranh cãi, ta sẽ chọc tức một nhóm người nào đó, điều đó nói chung không giúp ích gì cho ta, ngược lại với những điều người ta thường nghĩ. Nhiều người có xu hướng tránh xa những chuyện gây tranh cãi.
Tình hình không phải như vậy với Platoon, bộ phim của ông về cuộc chiến tranh Việt Nam.
- Platoon đã ra đời đúng lúc. Tổng thống Reagan sắp sửa can thiệp vào Nicaragoa, và chúng tôi lo sợ sẽ bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh mới. Và ở Mỹ, 18 hoặc 20 năm sau chiến tranh Việt Nam, có một mối quan tâm thực sự về sự kiện này. Uy tín của Reagan giảm sút và dư luận trong nước bắt đầu chống lại việc quân sự hóa đất nước. Vậy là cuốn phim ra đời đúng lúc.
Có những yếu tố tự truyện trong phim không?
- Platoon dựa nhiều vào những điều tôi đã trải qua tại Việt Nam. Tôi phục vụ trong Trung đoàn bộ binh số 25 và sư đoàn kỵ binh số 1. Nhưng đây không thực sự là một tác phẩm tự truyện. Tôi đã hư cấu ra cốt truyện và hoàn toàn tạo ra các nhân vật. Trong lúc tham chiến, người ta không nhìn nhận được gì nhiều, nhưng tôi có cảm tưởng là tất cả các trung đội mà tôi đã từng phục vụ đều chia làm hai phái: một bên là những người quan tâm đến những người Việt Nam, và bên kia là những người hoàn toàn dửng dưng đối với những gì chúng tôi làm tại Việt Nam. Như vậy có một sự chia rẽ về tinh thần trong mỗi đơn vị chiến đấu. Về nước, tôi thấy cũng có một sự chia rẽ như vậy. Nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc giữa phái diều hâu và phái bồ câu. Hầu hết mọi người đều thờ ơ, nhưng giữa hai phái có sự đối lập ý kiến rất mạnh. Tôi đã tranh cãi với cha tôi và toàn thể gia đình tôi. Tôi cảm thấy rất cô đơn. Chính để loại bỏ cảm nghĩ ấy mà tôi quay Born on the Fourth of July (Sinh ngày 4 tháng Bảy), một bộ phim nói về những khó khăn trong việc trở lại cuộc sống dân thường.
Công nghiệp điện ảnh Mỹ thường khẳng định rằng chức năng chủ yếu của điện ảnh là giải trí. Khi Hollywood nói đến lịch sử thì tính chân xác không phải là mối quan tâm chính. Ông nghĩ như thế nào về điều này. Có cần đặt giải trí lên hàng đầu hay không?
- Đó là hai vấn đề khác nhau. Cố nhiên, điện ảnh là phải giải trí. Một phim hay là phải hấp dẫn người xem. Không mấy ai chịu giam mình suốt hai giờ trong một phòng tối để xem một phim tài liệu. Vì vậy phải đưa vào phim một yếu tố gây căng thẳng, hồi hộp. Tôi nghĩ tôi đã thành công trong việc đề cập một cách hấp dẫn những đề tài tương đối nghiêm túc, bởi vậy người ta mới đến xem phim của tôi. Ở châu Âu, cũng như ở Mỹ, phải thừa nhận rằng có hàng nghìn bộ phim mà không ai muốn xem. Có ai muốn xem một phóng sự về nông thôn trong đó không có gì thu hút sự chú ý của khán giả, trong đó người ta chỉ thấy mặt trời mọc rồi lặn và người nông dân đi giặt giũ. Nhưng nếu như người nông dân ấy có một cô con gái, và - ái chà - nếu như cô gái ấy lại đem lòng yêu một chàng trai con nhà giàu thì tình huống trở nên phức tạp và làm cho khán giả phải chú ý.
Cái yếu tố gây hồi hộp, như ông nói, thực ra nó là cái gì? Phải chăng chỉ là sự đối kháng giữa cái thiện và cái ác, sự giao chiến giữa cái tốt và cái xấu, hay đôi khi có thể phức tạp hơn thế?
- Một cuốn phim tốt sẽ làm trật các quan niệm của ta về cái thiện và cái ác. Ta cho rằng nhân vật này là ác nhưng thật ra không phải. Còn người tốt cũng không đúng là người mà ta tưởng. Trong điện ảnh, không có chuyện đơn giản như vậy. Trong các bộ phim của Alfred Hitchcock, ít khi ta biết được ai sẽ làm những gì đối với ai. Trong Vertigo chẳng hạn, vai nữ chính là xấu hay tốt? TrongNotorious Gary Grant đóng vai người tốt hay người xấu? Trong điện ảnh, ta lẫn lộn hết thảy.
Tôi phải thừa nhận rằng điện ảnh rõ ràng đã làm xáo trộn lịch sử. Nó đã nổi tiếng về việc ấy. Chắc chắn là chúng tôi đã đem lại cho những nhân vật rất mờ nhạt những tầm vóc mà họ không xứng đáng. Chúng tôi thậm chí đã có thể làm phim về thượng nghị sĩ Mc Carthy nếu như ông này chưa bị vạch mặt. Cách đây không lâu, J.Edgar Hoover hãy còn là một người hùng ở nước chúng tôi.
Nhưng lịch sử luôn luôn thay đổi và được viết lại. Shakespeare đã xử tệ với Richard III mà lịch sử kể với chúng tôi rằng ông ta thực ra là một ông vua tốt. Vậy tại sao lại chê trách riêng mình Hollywood? Bản thân các nhà viết sử cũng có phần trách nhiệm trong đó vì cách nhìn của chúng ta về lịch sử không ngừng thay đổi. Arthur Schlesinger đã viết lại lịch sử nước Mỹ theo cách riêng của mình khi ông biến tổng thống Andrew Jackson thành một anh hùng. Nhân vật George Washington cũng đã bị xem xét lại nhiều lần. Thomas Jefferson đã lần lượt bị coi là một chủ nô, một người công bằng chính trực, một tên côn đồ. Abraham Lincoln là vĩ nhân duy nhất trong lịch sử Mỹ theo tôi biết đã không bị rắc rối mấy.
Ông bảo rằng lịch sử nước Mỹ thường xuyên được sửa đổi, nhưng dẫu sao cũng có một điều bất biến, đó là cách nền điện ảnh Mỹ thể hiện các nhân vật mafia và tướng cướp như những người hùng trong phim Mỹ. Tại sao lại có quan niệm xấu xa như vậy về người anh hùng?
- Việc tôn vinh giới mafia trên màn ảnh nước chúng tôi thực sự là độc hại. Cho dù hai bộ phim Godfather (Bố già) của Coppola có hay đến đâu, tôi cho rằng chúng sai trái về mặt lịch sử khi khuếch đại sức mạnh của những kẻ thực ra phải gọi là những tên côn đồ đã hủy hoại đất nước thông qua những tổ chức nghiệp đoàn kín, những vụ kinh doanh mờ ám - buôn rượu lậu, Las Vegas, máy đánh bạc, mua chuộc các nhà chính trị, vân vân. Nạn găngxtơ ở nước chúng tôi đã có từ trước thời mafia Ý, từ thời Boss Tweed, giới mafia Ailen, những tổ chức tội phạm xấu xa đã tồn tại từ thời George Washington. Trong xã hội Mỹ tồn tại đủ mọi loại găngxtơ. Tôn vinh chúng như chúng tôi đã làm chắc chắn là một việc đồi bại, đúng như ông nói.
Nhưng tại sao những phim ấy lại có đông khán giả ở Mỹ?
- Tôi cho rằng có lẽ là vì thực ra chúng tôi là những kẻ nổi loạn, những kẻ bị phát vãng khỏi châu Âu, những kẻ sừng sỏ sắt đá. Chúng tôi không thích bị chính quyền bắt bẻ quá mức, đó thực ra không hẳn là một tính xấu. Chúng tôi khâm phục Bogart và Cagney, nhưng đó là những găngxtơ giàu tình cảm, những găngxtơ trên phim ảnh.
Khi quay JFK chẳng hạn, ông có nghĩ về nó như một bộ phim chiến đấu không?
- Có, theo một nghĩa nào đó. Tôi đã không lấy lại cách trình bày sự việc của Ủy ban Warren vì nó đã được bộ máy và giới thông tin báo chí bênh vực trong bao nhiêu năm ròng. Tôi đã đụng đến một điểm rất nhạy cảm trong JFK khi tôi đả kích các phương tiện thông tin đại chúng, bằng cách chỉ ra rằng việc bưng bít không chỉ do một số người trong chính phủ tiến hành mà các nhà báo cũng đã góp phần vào việc bưng bít ấy bằng cách lấy lại luận điểm của các nhân vật chính phủ kia mà không kiểm tra, tức là không làm công việc nhà báo của mình.
Theo tôi, sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay là một trong những vấn đề lớn tại Mỹ. Trong các phòng biên tập tin của các đài truyền hình CBS, NBC, ABC, các tuần báoNewsweek hay Time, các tờ báo lớn hằng ngày như New York Times - tôi có thể kể ra khoảng hai chục cơ quan báo chí lớn - người ta nghĩ theo cùng một kiểu, nhai lại cùng những chủ đề cũ. Khi Clinton lên cầm quyền, họ đã buộc vị tổng thống trẻ này phải nhìn nhận sự việc theo cách của họ. Họ gây một sức ép không thể chịu đựng nổi, khiến cho không một ý kiến mới nào, không một giải pháp độc đáo nào có thể chống cự lại nổi. Tôi coi đó là một tác dụng xấu xa của điều bổ sung thứ nhất của Hiến pháp mà các tác giả hẳn đã không thể đoán trước được sức mạnh của báo chí sẽ lớn đến đâu trong thời đại điện tử. Tôi không biết giải pháp sẽ là thế nào. Cố nhiên, tự do ngôn luận là cần thiết, nhưng nó sẽ không còn có ý nghĩa gì nữa khi nó đạt tới tầm vóc không lành mạnh, khi nó trên thực tế trở thành một hình thức khống chế mới, chứ không phải là tự do.
Tại sao lại có sự nhất trí như vậy giữa hơn hai chục trung tâm quyền lực của giới báo chí?
- Tôi không thể nói với ông là nó bắt đầu từ đâu, nhưng ở đâu đó có một quyết định là những vấn đề gì sẽ được đưa thành nội dung của thông tin, và họ sẽ làm cho những vấn đề đó trở thành vấn đề của ngày hôm nay hay của tháng này. Khi thì là vấn đề vô gia cư, khi thì là vấn đề thuế má, khi khác lại là vấn đề tại sao phải ủng hộ giới quân sự tại Irắc, hoặc một điều gì khác. Nhà báo I.F.Stone đã so sánh những người trong giới báo chí với một bầy chim sẻ tất cả bay ào lên cùng một lúc, về cùng một hướng, và tất cả cùng bay trở lại khi có một con quay lại. Chúng tôi sống trong một thế giới kỳ ảo, một thế giới không ổn định và không nhất quán, trong đó người ta bảo thẳng với chúng tôi cái gì là quan trọng trong tháng này hay tháng sau. Điều đó làm tôi hết sức khó chịu.
Người ta đã gửi tôi sang Việt Nam là vì các phương tiện thông tin đại chúng ra sức làm cho chúng tôi tin rằng chúng tôi phải bằng mọi giá không để cho nước này rơi vào tay cộng sản. Họ đã làm cho nước Mỹ rối tung rối mù lên với câu chuyện đó! Sau vụ ám sát Kennedy, tất cả họ đều đi theo cùng một luận thuyết là có một tay súng lẻ loi đã bắn ba phát và đã giết chết tổng thống, tuy rằng không có mấy bằng chứng thực tế nói lên điều đó.
Nói cho đúng, tại sao ông làm phim JFK?
- Tôi cho rằng Kennedy đã bị khử vì những lý do chính trị, rằng người ta không muốn ông ta cầm quyền nữa. Trước hết bởi vì ngay từ năm 1963, chính sách và cách nhìn nhận thế giới của Kennedy đã triệt để thay đổi. Ông đã thỏa thuận được với Khrushev. Hai người đã ký Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1963. Ông thương lượng với Castro đằng sau lưng bộ máy cầm quyền. Ông đã ký một giác thư ra lệnh rút khỏi Việt Nam. Tôi không bịa đặt gì hết, văn kiện ấy rõ ràng tồn tại và chính tay Kennedy đã ký nó, đó là bản National Security Action Memorandum 263. Chỉ mãi gần đây Robert McNamara sau cùng mới thừa nhận rằng Kennedy khi ấy sắp sửa cho rút quân khỏi Việt Nam.
Việc Lyndon Johnson lên cầm quyền, ngược lại, đã đánh dấu một cuộc leo thang nhanh chóng. Ngay trong ngày an táng Kennedy, như tôi đã chỉ rõ trong phim, Johnson đã triệu tập khẩn cấp tướng Maxwell Taylor và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân để tăng cường sự dính líu của Mỹ tại Việt Nam. Và ngay trong ngày xảy ra vụ ám sát Kennedy, dự kiến có một cuộc họp về vấn đề này tại Honolulu... Diễn biến các sự việc hai hoặc ba ngày trước hôm Kennedy chết thật đáng chú ý.
Ông có được tự do tiếp cận tất cả các hồ sơ lưu trữ không?
- Ờ Mỹ, các tư liệu lưu trữ được mở cửa cho công chúng, nhưng trước khi được giao cho công chúng thì chúng đã được bộ máy quan liêu xem xét lại tỷ mỉ rồi. Bộ phim đã góp phần vào việc ban hành một điều luật mới mở cửa các tư liệu lưu trữ về Kennedy. Nhưng bất kỳ tài liệu nào khả dĩ làm nguy hại đến an ninh quốc gia phải được một hội đồng đặc biệt do tổng thống bổ nhiệm xem xét và tán thành trước.
Tôi tin rằng nếu còn sống, Kennedy đã kết thúc cuộc chiến tranh lạnh với Khrushev vào cuối thập kỷ 1960, trong nhiệm kỳ thứ hai của mình. Một điều đáng chú ý là ít lâu sau vụ ám sát Kennedy, Khrushev đã bị gạt ra khỏi chính quyền. Tôi tin rằng số phận hai người gắn liền với nhau. Sở dĩ tôi coi những biến cố này là quan trọng đến vậy bởi vì chúng đã ảnh hưởng không chỉ đến số phận nước Mỹ mà có lẽ đến cả chiều hướng của lịch sử thế giới trong thế kỷ XX.
Phim JFK pha trộn những hình ảnh tư liệu với những hình ảnh hư cấu. Phải chăng có một số đoạn phim tài liệu đã được quay lại theo yêu cầu của bộ phim?
- Chúng tôi đã dựng lại hầu hết những đoạn phim tài liệu đó. Có một vài hình ảnh tư liệu thực sự lúc ban đầu, nhưng không nhiều như người ta tưởng. Những cảnh mổ tử thi chẳng hạn đều được dựng lại, trừ cảnh cuối cùng trong đó người ta nhận ra rõ ràng gương mặt Kennedy. Chắc chắn ông đã nhận thấy rằng gương mặt ấy còn nguyên vẹn, đây là một điều đáng chú ý, vì nếu như Kennedy đã bị bắn từ phía sau thì mặt ông ta đã bị xé nát.
Sự pha trộn này giữa thực tại và hư cấu đã đem lại cho bộ phim tác động thẩm mỹ không thể chối cãi. Nhưng liệu sự pha trộn này có đặt ra một vấn đề đạo lý hay không?
- Đó là một điều phê phán mà người ta đã nói với tôi, và tôi có sẵn câu trả lời: đây là chiến tranh. Ở đây chúng tôi đối đầu với những kẻ đã lừa dối đất nước, đã lái câu chuyện này theo cách có lợi cho chúng. Chúng đã không từ một thủ đoạn hèn hạ nào, và tôi cũng vậy. Tôi sử dụng tất cả các vũ khí. Đúng thế, tôi là người dấn thân chiến đấu.
Bộ phim đã làm thay đổi được gì không?
- Tất cả các phim đều rút cuộc, một cách có ý thức hay không, ảnh hưởng đến dư luận. Tôi cho rằng bộ phim này đã làm thay đổi lòng tin ở chính quyền. Đã có khoảng 20 triệu người Mỹ xem phim này. Và tôi cho rằng ngày nay, không còn có một thanh niên nào tin rằng Lee Harvey Oswald là một tay súng đơn độc. Các nhà báo bây giờ cũng không nói nhiều như vậy. Họ phải cân nhắc trước khi nói điều đó.
Liệu có thể nghĩ đến chuyện quay một bộ phim tại Mỹ hiện nay về sự cam kết của Mỹ trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh, với tổng thống Bush trong vai người hùng hay phản người hùng?
- Đây lại là thêm một kịch bản kiểu Orwell (kiểu viễn tưởng chính trị) nữa. Những kịch bản này không phải dành cho tôi. Nó được dành cho một nhà làm phim nào khác. Có người nói với tôi rằng cuộc chiến tranh vùng Vịnh không phải là chiến tranh, nó là một bộ phim truyền hình. Về phía chúng tôi không có một ai chết cả, và chúng tôi không biết có chừng ấy người chết ở phía bên kia hay không. Sự kiện này đã sáu lần được đưa lên bìa tạp chí Time trước khi nổ ra chiến tranh và rút cuộc Saddam Hussein trông chẳng khác gì Hitler, kể cả bộ ria. Người ta đã biến ông ta thành một con quỷ trong con mắt người Mỹ. Chúng tôi đã sẵn sàng xông ra và giết. Sống lại những lúc mà lòng yêu nước bị mất phương hướng như vậy thật là kinh khủng.
Nói về lòng yêu nước, ở thời hoàng kim của điện ảnh, người Mỹ đã tự hào về Hollywood. Bây giờ, người nước ngoài đã mua mất một phần Hollywood và có thể vài năm nữa họ sẽ mua hết. Ông nghĩ như thế nào về tình cảnh đó?
- Công nghiệp điện ảnh không biết đến các đường biên giới. Trong đời nghề nghiệp của mình, người ta đi đến chỗ phải làm việc với đủ mọi loại người, với các nhà sản xuất phim khác nhau, với những người tưởng rằng mình sẽ không bao giờ có thể cộng tác với họ. Phim JFK đã được thực hiện bằng tiền của Pháp, Ixraen và Đức. Người Ý đã cấp vốn cho The Doors, người Anh cấp vốn cho Salvador và Platoon. Tất cả các vai diễn quốc tế ấy đều muốn nhảy vào cuộc chơi. Đó là điều làm tôi thích thú trong ngành này.
Vậy ông tán thành điều đó?
- Cố nhiên, đó là một điều tốt. Nếu không, làm sao tất cả những phim kia có thể thực hiện được? Chúng cần những khoản đầu tư rất lớn.
Ông nghĩ thế nào về quyền tự do sáng tạo. Liệu nó có tồn tại trong những điều kiện như vậy không?
- Chỉ tồn tại nếu ta có khả năng cho phép mình có nó. Nếu ta làm một bộ phim có lãi thì người ta sẽ ủng hộ ta. Về phần tôi, tôi may mà vượt qua được. Salvador không đông khán giả, nhưng Platoon rất thành công, vì vậy họ đã cho tôi toàn quyền tự do làm hai bộ phim kế tiếp. Cả hai phim này đều đạt kết quả tốt, đến lúc bấy giờ tôi có thể làm phim Sinh ngày 4 tháng Bảy, và phim này cũng lại trôi chảy nốt. Điều đó làm cho tôi được tự do thêm một chút nữa và khi ấy tôi đã quyết định làm JFK. Họ sẽ không khi nào để cho tôi làm phim này lúc ban đầu, nhưng ở vào giai đoạn này trong đời nghề nghiệp của tôi thì việc đó làm được.
Tại sao Salvador không thành công?
- Lý do chính trị. Khi phim ra đời vào đầu 1986, chúng tôi đang ở giữa thời Reagan. Các nhà phê bình không thật tử tế. Tờ New York Times bảo nó là một loại tuyên truyền kiểu Costa-Gavras. Dẫu vậy, hầu hết những yếu tố chứa đựng trong phim, kể cả sự đồng lõa của Mỹ, đã tỏ ra là đúng trong mười năm qua.
Đôi khi ông có cảm thấy mình như một trong những kỵ sĩ lang thang còn sót lại hay không, những kỵ sĩ đó là những người được hưởng những đặc quyền, nhưng cũng có những nghĩa vụ, những giá trị thiêng liêng phải bảo vệ.
- Điều so sánh của ông rất đúng. Khi người ta ở vào hoàn cảnh như tôi, một hoàn cảnh được ưu đãi, có khả năng thực hiện những phim khó, thì phải biết cách sử dụng nó. Nếu không, có nguy cơ sẽ mất hết mọi sự tín nhiệm.
Đối với tôi, đây là thời gian thuận lợi. Tôi vừa mới quay xong Heaven and Earth (Trời và Đất) tại Thái Lan và Việt Nam, kể lại ba mươi năm trong cuộc đời một người đàn bà nông thôn Việt Nam. Đây không phải là một phim dễ làm.
Ông làm phim cho riêng khán giả Mỹ hay ông muốn nói với toàn thế giới?
- Hầu hết các phim của tôi thu được tiền ở nước ngoài nhiều hơn ở Mỹ, trong trường hợp JFK là gấp đôi. Vậy là chúng đáp ứng tốt khán giả quốc tế. Tôi cảm thấy cần có một cách nhìn nhận toàn cầu để hiểu rõ hơn bản thân tôi. Xưa nay tôi vẫn cho rằng các nhà làm phim có khuynh hướng đánh giá thấp sự thông minh và năng lực nhận thức của khán giả.
Có lẽ người ta đôi khi muốn hòa mình vào với một sự nghiệp cao cả.
- JFK không có yếu tố gì của một phim thương mại. Phim dài 3 giờ, đầy những đoạn đối thoại và kịch bản thì phức tạp. Nhưng tôi quyết định làm phim này, cho dù nó có thể thất bại. Tôi không nghĩ rằng nó lại có thể hiểu được dễ dàng đối với lớp khán giả trung bình. Nhưng họ đã hoàn toàn hiểu được. Đây là một trong những kinh nghiệm bổ ích nhất trong đời tôi, nó cho thấy con người ta thông minh hơn nhiều so với mức mà người ta muốn gán cho họ. Ngay cả khi họ không hiểu hết mọi chuyện khi xem lần đầu, họ sẵn sàng xem lại, qua băng viđêô hay bằng cách nào đó, để bù đắp những chỗ trống.
Ông giải thích như thế nào sự say mê của toàn thế giới đối với một số phim Hollywood, và đối với văn hóa dân gian Mỹ nói chung.
- Nước Mỹ hiện nay đang được thuận gió và có thế giới trên quỹ đạo của mình. Người ta thích nhạc Mỹ, người ta rập theo dáng đi cách đứng của Mỹ, người ta thích ăn bánh mì cặp thịt của Mỹ... Giới trẻ muốn rũ khỏi những xiềng xích trói buộc của thế giới người lớn và sức nặng của truyền thống. Như thế ngộ hơn, fun hơn, một khái niệm mà nhiều phim Hollywood nói đến. Những phim ấy nhẹ nhàng, giải trí. Theo tôi đó là câu trả lời.
Nhưng không phải mọi phim Hollywood đều thành công...
- Những phim ấy có lẽ đã không tìm được mức độ nhẹ nhàng thích hợp...
Người đưa tin UNESCO, tháng 7-8/1993