N
hững con buôn chính trị đã bắt đầu tới nhánh sông Solitude.
Chuyện đó luôn xảy ra ở những vụ việc như này. Những nhân vật quan trọng xuất hiện, những người đang đương nhiệm hay những kẻ tham vọng, hay những người giống như sếp của Kathryn – Charles Overby – người chỉ đơn giản muốn được mọi người chú ý trong một vài phút, bởi vì họ thích được chú ý. Họ sẽ xuất hiện rồi trò chuyện với cánh báo chí và được những người than khóc hoặc người xem để mắt tới.
Bởi vì những người để mắt tới là các cử tri và công chúng.
Và đúng thế, họ thi thoảng thực sự có bước lên và giúp đỡ. Thỉnh thoảng. Đôi khi. Có thể. (Là một nhân viên chính phủ, Kathryn Dance đấu tranh không ngừng với thái độ cay độc đó.)
Lúc này có nhiều đội tin tức hơn là người xem ở đây. Vì vậy, những mạng lưới truyền thông lớn nhất đang nhằm vào những tiêu điểm tin tức đáng giá nhất, giống như những người chơi thể thao trong một bữa tiệc trên thuyền ở Vịnh Monterey sẽ chọn con cá hồi béo nhất.
Đài lớn. Hệ thống. Những cái lưới. Cá. Kathryn thích phép ẩn dụ này.
Nghị sĩ đại diện cho Quận có quán Solitude Creek là Daniel Nashima, thuộc thế hệ người Mỹ gốc Nhật đời thứ ba hay thứ tư và đã đương nhiệm nhiều nhiệm kỳ. Ở độ tuổi trung tuần, ông ta đi cùng một nam phụ tá, cao ráo, cẩn thận, trông giống diễn viên Josh Brolin. Anh ta mặc một bộ vest lỗi thời đến không thể tin được.
Nashima là một người giàu có, có doanh nghiệp gia đình, nhưng ông ta thường xuyên ăn vận bình thường. Hôm nay, ông ta diện trang phục đặc trưng gồm: quần chino32, áo sơ mi xanh, ống tay được xắn lên – một bộ cánh mà bạn sẽ mặc tới bữa sáng gây quĩ Kiwanis với bánh pancake. Nashima, một người đẹp trai với những đường nét châu Á – mẹ ông ta là người da trắng – đã kiểm tra phía bên ngoài quán bar Solitude Creek. Kathryn không lấy làm ngạc nhiên. Ông ta có tiếng trong việc ứng phó với thiên tai, ví dụ như vụ động đất đã tàn phá thành phố Santa Cruz cách đây không lâu. Ông ta đã tới hiện trường lúc ba giờ sáng và cứu giúp những người còn sống đang ở dưới đống đổ nát và tìm kiếm những người thiệt mạng.
Biên tập viên tin tức của đài CNN, một cô gái tóc vàng nổi bật, ngay lập tức có cuộc phỏng vấn Nashima. Viên nghị sĩ phát biểu, “Trái tim tôi hướng về những nạn nhân của thảm họa tàn khốc này.” Nashima hứa rằng mình sẽ làm việc với các đồng nghiệp để điều tra tận gốc vấn đề. Nếu có bất kỳ sơ suất nào từ phía quán bar hay người chủ quán, ông ta chắc chắn sẽ đưa ra các cáo buộc hình sự.
Thị trưởng của quận Monterey xuất hiện sau đó một lúc. Không xe limo. Người đàn ông Latinh cao lớn bước ra từ chiếc xe riêng của mình – một chiếc Range Rover khá đẹp – và bước khoảng chừng mười bước về phía người xem/những người khóc lóc/nạn nhân, trước khi ông ta, cũng bị đám phóng viên tiếp cận. Mặc dù đó chỉ là vài phóng viên địa phương. Ông ta liếc nhìn Nashima và chỉnh đốn lại, chỉ để giữ thái độ không quan tâm, để làm lu mờ đi việc ông ta bị Nghĩ sĩ từ chối; người dân từ Atlanta – và một người phụ nữ với mái tóc hoàn hảo – biết được những mối ưu tiên của họ.
32Chino: Chino hay Chinos vẫn được biết đến là một loại quần nhưng trên thực tế đây là tên một loại vải có mật độ sợi cotton rất dày và chắc. Chiếc quần chino xuất hiện vào năm 1848 và được sử dụng đầu tiên khi quân đội Anh đóng tại Ấn Độ và Afghanistan.
Kathryn nghe nói rằng đại diện bang California của khu vực này – và là một ứng cử viên được đồn đang cạnh tranh chiếc ghế ở Thượng viện mà Nashima đang để mắt vào năm tới – đang không có ở trong vùng và hẳn là sẽ không mất công từ Vegas quay về đây chỉ để diễn trò cảm thông. Đây sẽ là một điều đáng tiếc cho sự nghiệp của ông ta.
Ông Nashima kết thúc cuộc phỏng vấn một cách lịch sự nhưng dứt khoát rồi rời đi, từ chối tất cả những câu hỏi từ phóng viên khác. Ông ta đang xem xét hiện trường và tới chỗ những người đang để lại hoa, đang cầu nguyện, hoặc thậm chí đang đứng buồn bã, đau khổ. Ông ta cúi đầu khi nới chuyện với họ và ôm lấy họ. Kathryn tin chắc rằng ông ta đã gạt nước mắt trên má một hay hai lần. Đó không phải để diễn trước ống kính vì ông ta đã cố tình quay đi.
Có khoảng ba mươi người bao gồm cả những người đang đau khổ và người xem có mặt ở đây. Với sự đồng ý của Bob Holly, giờ Kathryn đang đi hỏi một vòng, vẫn giơ ra tấm phù hiệu sáng bóng và trịnh trọng trong tư thế của người từ Phòng Dân sự giống như khi cô còn là điều tra viên hình sự. Cô hỏi về chiếc xe tải, về lửa trong thùng phi, và về bất cứ ai lén lút bên ngoài quán bar đêm qua.
Không được gì. Tất cả đều không có ích gì.
Cô cố nhận diện bất cứ ai đã ở trong đám đông lúc sáng, nhưng không thể. Đúng thế, hầu hết có lẽ đã biến mất. Nhưng bằng kinh nghiệm trong nghề, cô biết rằng khi đối mặt với sự đau lòng thì năng lực quan sát và khả năng ghi nhớ của chúng ta sẽ yếu đi hoàn toàn.
Cô để ý một chiếc xe đang đi vào bãi và từ từ dừng lại ở khu vực cảnh sát đang phong tỏa, gần nơi tưởng niệm các nạn nhân chất đầy hoa và thú bông. Một chiếc Lexus hai cửa đời mới, đẹp, bóng bẩy, màu đen.
Có hai người ngồi trong xe, mặc dù Kathryn không thể nhìn rõ. Họ đang thảo luận việc gì đó quan trọng. Ngay cả chỉ nhìn qua bóng dáng, cũng thấy rằng cơ thể họ đang bộc lộ sự căng thẳng và tâm trạng. Người lái xe, tầm hơn bốn mươi tuổi, bước ra và cúi xuống nói vài lời qua cánh cửa xe đang mở, sau đó lật ghế phía trước lấy ra một bó hoa ở ghế sau. Anh ta nói thêm điều gì đó với người đi cùng ngồi ở ghế phụ đằng trước nhưng có vẻ như chỉ nhận lại sự từ chối, anh ta nhún vai và tiếp tục đi về phía nơi tưởng niệm.
Kathryn bước tới chỗ người mới xuống xe vừa nãy, xuất trình thẻ của cô. “Tôi là Kathryn Dance, đến từ Cục Điều tra trung ương.”
Bị phân tâm, người đàn ông đẹp trai gật đầu.
“Tôi đoán là anh đã mất người thân đêm qua.”
“Vâng, đúng là chúng tôi đã có mất mát.”
“Tôi rất lấy làm tiếc.”
Chúng tôi…
Một cái gật đầu ra hiệu về phía chiếc Lexus. Có một ánh nhìn giận dữ… và dù những kỹ sư Nhật Bản khá giỏi trong việc chế tạo kính màu, nhưng Kathryn vẫn có thể nhìn thấy người đang ngồi trong xe có mái tóc dài. Một người phụ nữ. Có lẽ là vợ anh ta. Nhưng trên tay người đàn ông này không đeo nhẫn. Có lẽ là vợ cũ. Và rồi cô sốc khi nhận ra. Chúa ơi. Họ đã mất con của mình ở đây.
Tên người đàn ông này là Frederick Martin, và anh ta cho biết là vợ cũ của mình, Michelle, đã đưa con gái tới đây đêm qua.
Cô đã đoán đúng. Rằng con của họ chắc chỉ đang ở độ tuổi thiếu niên. Thật đáng tiếc. Và theo như bó hoa đặt ở nơi tưởng niệm, cô bé không phải chỉ bị thương. Cô bé đã thiệt mạng.
Đó là nỗi kinh hoàng khủng khiếp nhất của Kathryn. Của bất cứ người mẹ nào.
Hẳn đó chính là lý do cho sự căng thẳng trong xe. Vợ chồng cũ buộc phải đi cùng nhau vào thời điểm như thế này. Có lẽ là trên đường tới một nhà tang lễ để sắp xếp tang sự. Trái tim của Kathryn đồng cảm với cả hai người.
“Chúng tôi đang điều tra sự vụ này,” Kathryn nói một cách thành thật. “Tôi có vài câu hỏi”.
“Chà, nhưng tôi không biết gì cả. Tôi đã không có mặt ở đây.” Frederick hơi bực mình. Anh ta toan bỏ đi.
“Không, không. Tôi hiểu. Nhưng nếu được, tôi muốn nói vài lời với vợ cũ của anh.”
“Gì cơ?” Anh ta hỏi và cau mày khó chịu.
Rồi có một giọng nói phía sau họ, một giọng nữ. Gần như là tiếng nói thầm. “Bà ấy đã ra đi rồi”.
Kathryn quay người lại và nhìn thấy một thiếu nữ. Xinh xắn, nhưng khuôn mặt mếu máo, đôi mắt sưng húp vì khóc. Mái tóc được búi qua loa bằng tay, không dùng lược.
“Mẹ đã mất rồi.”
Ôi. Người tử vong là vợ cũ của anh ta.
“Trish, quay trở lại xe.”
Cô bé nhìn chằm chằm về phía quán bar. “Mẹ bị mắc kẹt. Bị áp vào cửa. Con đã nhìn thấy mẹ. Con không thể... Cả hai nhìn thấy nhau nhưng rồi con bị ngã. Người đàn ông to béo đó khóc như trẻ con, ông ta trèo lên lưng con và con ngã xuống. Con đã nghĩ mình sẽ chết, nhưng con được ai đó nâng lên. Sau đó, người này đưa con đi cùng qua một cánh cửa khác, không phải cửa thoát hiểm. Còn mẹ vẫn ở trong đám đông đó...”.
“Trish, con yêu, không. Bố đã nói với con rằng đây không phải một ý hay. Chúng ta đi thôi. Chúng ta phải gặp ông bà ở sân bay. Chúng ta còn có nhiều việc cần làm.”
Frederick nắm lấy cánh tay con gái mình. Cô bé giằng ra. Anh ta cau mặt lại.
Cô lên tiếng: “Trish, cô là Kathryn Dance ở Cục Điều tra California. Cô muốn hỏi cháu một vài điều, nếu cháu không phiền”.
“Chúng tôi có.” Frederick nói. “Chúng tôi có thấy phiền”.
Cô bé khóc thút thít và nhìn chằm chằm về quán bar. “Ở đó thật kinh khủng. Người ta chỉ nói về địa ngục trong phim hay những thứ khác, nhưng, không, ở đó mới thực sự là địa ngục”.
“Đây là danh thiếp của tôi.” Kathryn đưa tấm danh thiếp cho Frederick Martin.
Anh ta lắc đầu. “Chúng tôi không muốn nó. Con bé chẳng có gì để nói với cô. Hãy để chúng tôi yên”.
“Tôi rất lấy làm tiếc về sự mất mát của anh.”
Frederick siết tay con gái mình chặt hơn và kéo cô bé trở lại chiếc Lexus, dù cô bé vẫn bướng bỉnh. Khi họ đã ngồi trong xe, anh ta vươn sang kéo dây an toàn cho con gái mình. Sau đó, họ phóng vụt đi trước khi Kathryn kịp ghi lại biển số xe.
Kathryn cho rằng điều đó cũng chẳng sao cả. Nếu cô bé và mẹ của mình đã ở trong đám đông hỗn loạn đó, thì họ hẳn là không chứng kiến được những gì mà Kathryn thực sự quan tâm: ai đã đỗ chiếc xe tải ở trước những cái cửa thoát hiểm và đã gây cháy.
Bên cạnh đó, cô khó có thể trách người đàn ông này vì thái độ bao bọc con gái của anh ta. Kathryn cho rằng ông bố này đang bị đặt vào một vị trí khó khăn và xa lạ. Cô hình dung được rằng người mẹ là người giành được quyền nuôi con cao hơn, có thể là chiếm toàn quyền chăm con.
Vụ tai nạn ở quán Solitude Creek đã thay đổi cuộc sống của nhiều người theo nhiều cách khác nhau.
Một con mòng biển sà xuống và Kathryn theo bản năng giơ tay lên. Chú chim lớn này vụng về đậu xuống gần một tấm bìa các-tông, nghĩ rằng đó là thức ăn. Nó có vẻ tức giận với phần thưởng này, chỉ ngửi mùi rồi sải cánh bay đi, hướng ra phía vịnh.
Kathryn quay trở lại quán bar và có một cuộc nói chuyện thứ hai không mấy dễ dàng với Sam Cohen, ông ta vẫn còn đang trong tình trạng bơ phờ. Sau đó, cô trò chuyện với một số nhân viên khác. Không ai có thể nghĩ ra bất kỳ người khách quen hay nhân viên cũ từng làm tại quán mà có gì không hài lòng với ông Sam hay bất cứ ai ở đó. Cũng như dường như không có đối thủ cạnh tranh nào có thể đứng sau vụ này – ai đó muốn ông Sam phá sản hoặc để trả thù những gì mà ông ta đã làm một cách thành thạo trong quá khứ.
Quay trở ra, Kathryn lấy chiếc iPhone của mình và gọi cho Jon Boling, hỏi rằng liệu anh có thể giúp đón con sau khi chúng tan học.
“Được thôi,” anh đáp. Cô thích nghe giọng nói điềm tĩnh của anh. “Công việc của em ở phòng Dân sự sao rồi?”.
Jon biết về vụ Serrano.
“Kỳ lạ lắm,” cô nói, mắt nhìn phía Bob Holly, anh ta đang hỏi một vài người mà cô vừa mới hỏi họ xong. “Em đang ở quán Solitude Creek”.
Một sự ngập ngừng.
“Không phải em đang xử lý những khoản tiền đặt cọc của mấy lon soda sao?”
“Thì ban đầu là thế.”
Jon nói, “Nó thật là khủng khiếp, tin tức trên bản tin. Họ đang nói về một gã tài xế đã đỗ chiếc xe tải đằng sau quán bar đó để chơi thuốc. Sau đó hắn ta hoảng khi thấy lửa bắt đầu cháy, và bỏ lại chiếc xe ở đó. Không ai có thể thoát ra ngoài”.
Đám phóng viên…
Cô nhìn vào chiếc iPhone để xem giờ, vì giờ đồng hồ của cô đã hỏng. Bây giờ là hai giờ ba mươi phút. “Em đoán là mình phải ở đây thêm ba, bốn tiếng nữa. Bố mẹ tối nay sẽ đến đấy. Martine, Stephen…”.
“Anh và bọn trẻ sẽ lo bữa tối.”
“Thật chứ? Ôi, cảm ơn anh.”
“Gặp lại em sau.”
Cô cúp máy. Đôi mắt cô lướt một lượt quán bar, công ty vận tải và bãi đỗ xe.
Cuối cùng là bãi cỏ bên rìa. Ở cuối phía đông của bãi đỗ xe dường như là một khu đất trũng dẫn qua một dãy cây sồi, liễu Úc, thông và mộc lan. Cô dạo bước dọc theo con đường đó và thấy mình đã ở sát cạnh Solitude Creek. Một nhánh sông sẫm màu – rộng khoảng chín mét – bao quanh bởi cồn cỏ, cây kế33 và một vài loại thực vật khác sống được trên cát mà cô không thể đoán được là gì.
Kathryn đi theo con đường dẫn ra khỏi bãi đỗ xe, xuyên qua một đám cây bụi và cỏ mọc cao. Ở đây, thảm thực vật phát triển quá mức cùng với cát bụi chính là tàn dư của những công trình kiến trúc cũ: nền xi măng, những phần hàng rào rỉ và một vài cái trụ. Chúng cũng phải có tuổi đời khoảng bảy mươi lăm hay một trăm năm rồi. Khá rộng. Có thể hồi đó chỗ nhánh sông Solitude này còn sâu hơn và là một phần của ngành kinh doanh hải sản. Khu này cách Cannery Row khoảng hai mươi tư ki lô mét về phía bắc, nhưng hồi đó việc đánh bắt cá là hình thức kinh doanh chủ yếu ở dọc tất cả vùng bờ biển này.
33Cây kế: Là một trong nhiều loại cây dại, lá có gai, hoa đỏ thắm, trắng hoặc vàng. Loài hoa này được chọn làm loài hoa biểu tượng của Lorraine và Scotland.
Hoặc có lẽ những công ty phát triển nhà đất đã bắt đầu xây dựng một dự án ở đây – khu căn hộ, khách sạn hay nhà hàng. Cô nghĩ, nhưng hẳn sẽ là một vị trí thuận lợi cho một nhà nghỉ: gần biển, nằm giữa những đồi cỏ. Bản thân nhánh sông chảy hiền hòa và màu nước hơi xám của nó không có nghĩa là không hợp để câu cá.
Tiếp tục đi qua những bãi tàn dư, Kathryn nhìn quanh. Cô phân vân nếu tên giết người đã đỗ xe của hắn ở đây – có vài ngôi nhà và con đường mòn ở quanh đây – và đi trên cùng một con đường cô vừa đi. Hắn hẳn đã tới bãi đỗ xe mà không bị ai nhìn thấy, sau đó đi vòng tới công ty vận tải để đến chỗ hộp để chìa khóa và những chiếc xe.
Khi cô đến chỗ có vài nhà dân – khoảng năm, sáu căn nhà gỗ nhỏ, một cái nhà xe di động – cô nhận ra rằng ai đó sẽ nhìn rất rõ việc đỗ xe ở đằng kia từ chỗ này: về cơ bản nơi duy nhất có thể đỗ được là đằng trước một ngôi nhà. Cô thì không cho rằng thủ phạm có thể sơ suất đến thế.
Nhưng, bạn đã làm những gì có thể rồi.
Ba trong số những ngôi nhà này tối om, và Kathryn để lại danh thiếp trên khung cửa mỗi nhà.
Tuy nhiên, có hai người phụ nữ ở nhà. Cả hai đều da trắng, cao lớn và đang địu em bé. Như Kathryn phỏng đoán, họ đều nói rằng không nhìn thấy ai cả, “Nếu có ai đỗ xe ở đây thì chúng tôi hẳn phải thấy, và nếu vào buổi tối, Ernie sẽ lập tức ra ngoài để hỏi cho ra nhẽ ngay”.
Cô đi tiếp sang nhà cuối cùng, chiếc nhà di động, nơi duy nhất thực sự nhìn được thấy toàn bộ Solitude Creek.
Chà. Liệu có khi nào hắn đã dùng thuyền để tới được quán và công ty vận tải?
Cô gõ cửa. Chiếc rèm che được kéo ra, và Kathryn giơ thẻ lên để người phụ nữ nhìn thấy. Ba ổ khóa hay chốt mở ra. Cả sợi xích. Kathryn đoán rằng người này sống một mình. Hoặc là một người chế thuốc.
Tay Kathryn sờ vào nơi từng gài khẩu súng của cô. Cô nhăn mặt và kéo khóa áo lại.
Người phụ nữ mở cửa trông gày hơn những người khác, khoảng chừng bốn mươi lăm tuổi, có mái tóc dài màu nâu xám. Một bím tóc mỏng, màu tím, phía cuối không tết hết rủ trên vai người này. Từ cách người phụ nữ này ăn mặc đến những thứ lộn xộn xung quanh, Kathryn thấy chị ta tôn sùng phong cách thời trang Macramé34, nhuộm màu họa tiết và viền tua rua. Cô ngay lập tức nghĩ tới người phụ tá TJ Scanlon ở Cục Điều tra của mình, anh chàng chỉ có một hối tiếc rằng mình đã không được sống vào cuối thập niên sáu mươi.
“Cần gì à?”
Kathryn giới thiệu bản thân và giơ thẻ lên một lần nữa cho người phụ nữ kiểm tra. Annette không có vẻ gì là không thoải mái khi trò chuyện với một người thực thi pháp luật. Kathryn chỉ ngửi thấy mùi khói thuốc và đầu lọc, mùi rượu bia và mùi ôi thiu. Không có thứ gì phi pháp.
“Chị đã nghe tin gì về vụ việc xảy ra ở quán Solitude Creek chưa?”
34Macramé: Macramé (tiếng Pháp) là một loại đan thắt dây trang trí với kỹ thuật thắt đơn giản sử dụng dây cotton tạo ra những múi tết có độ chính xác cao. Loại thắt này bắt nguồn từ những thợ dệt Ả Rập vào thế kỉ XIII và đến nay đã trở thành một trong những biểu tượng thời trang cao cấp (theo nhận định của tạp chí thời trang Vogue).
“Thật kinh khủng. Cô tới đây vì việc đó phải không?”
“Chỉ muốn hỏi một vài câu thôi, nếu chị không phiền.”
“Không hề. Cô muốn vào nhà không?”
“Cảm ơn.” Kathryn theo chị ta vào. Hàng nghìn đĩa CD và đĩa than trên giá, chồng thành đống giáp với tường. Là một nhạc sĩ về vườn và người đồng sáng lập một trang web dành cho âm nhạc, Kathryn khá ấn tượng với người phụ nữ này. “Chị có thường tới quán bar đó không?”.
“Thi thoảng thôi. Khá là đắt đỏ với tôi. Sam thu tiền phục vụ khá đắt.”
“Vậy, chị đã không ở đó tối qua đúng không?”
“Không, tôi tới đó một năm một lần thôi, và chỉ tới nếu có nghệ sĩ nào tôi rất, rất là thích.”
“Giờ thì, Annette, tôi phân vân là liệu người ta có thể đi bằng thuyền tới quán Solitude Creek không.”
“Thuyền sao? Có thể chứ. Tôi từng nhìn thấy một vài người chèo thuyền kayak và những chiếc ca nô. Một vài chiếc xuồng máy. Nhỏ lắm luôn. Con sông khá nông khi cô đi về phía đông.” Những ngón tay hơi đỏ của chị ta đang nghịch những sợi tóc màu tím của mình.
“Có nơi nào mà ai đấy có thể đỗ xe và chèo thuyền xuống chỗ quán bar không?”
Một cái hất hàm về phía con đường. “Không, đây là nơi duy nhất để dừng xe và Ernie...”.
“Ở bên kia đường?”
“Phải, đó là Ernie. Ông ta sẽ không cho người lạ tự tiện đỗ xe ở đây đâu.”
“Ernie là một người có máu mặt?”
“Không phải. Chỉ là, cô biết đấy.”
Một người được tin tưởng. Bất cứ điều gì tương tự thế.
Kathryn để ý thấy những phong bì của chính phủ đã được xé toạc ra giống như nhặt được ở ven đường. Phúc lợi. Người phụ nữ châm một điếu thuốc và phả khói ra xa Kathryn.
“Vậy tối qua chị không nhìn thấy ai đi thuyền trên sông này phải không?”
“Không có ai. Và nếu có thì tôi hẳn đã thấy. Nhìn từ cửa sổ có thể thấy được nhánh sông. Ngay đó. Cái đó.”
Thực vậy, nhưng cánh cửa sổ bám đầy bụi với khói thuốc, vì thế mà cũng không thể nhìn được nhiều qua đó.
Kathryn lấy một cuốn sổ tay nhỏ mang theo mình và mở ra. Ghi chép. “Chị đã kết hôn chưa? Còn ai sống ở đây nữa không?”.
“Không, chỉ có mình tôi. Một mình. Thậm chí không có một con mèo.” Một nụ cười. “Cái vụ này”, Annette nói, “những gì cô đang hỏi, giống như là có chuyện gì đó đang xảy ra. Ý tôi là, giống như cô nghĩ rằng có ai đó đã cố tình làm gì đó với quán bar”.
“Chỉ là theo quy trình điều tra. Chúng tôi luôn làm vậy.”
“Giống như NCIS35.”
Giờ thì Kathryn mỉm cười. “Giống như vậy đấy. Chị không thể nhìn thấy quán bar từ đây, nhưng chị có tình cờ đi tản bộ tối qua, và dừng ở gần đó không?”.
“Không đâu. Phải cẩn thận chứ. Quanh đây có những con sư tử núi.”
35NCIS: là từ viết tắt của cụm Naval Criminal Investigative Service – là một bộ phim truyền hình cảnh sát thủ tục Mỹ, xoay quanh một nhóm hư cấu của các đặc vụ Hải quân tra hình sự vụ, trong đó tiến hành điều tra hình sự liên quan đến Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến.
Đúng như vậy. Có một người phụ nữ đã bị giết cách đây không lâu, một người chạy bộ và là nhân viên ngân hàng tới từ San Francisco.
“Chị ở trong nhà suốt cả buổi tối?” Dance hỏi.
“Đúng thế. Ở ngay tại đây.”
“Và có ai mà chị không nhận ra trong khu vực này dạo gần đây không? Không chỉ riêng tối qua.”
“Không, thưa cô. Tôi đã nói cho cô nếu tôi biết gì rồi.”
Một ghi chú khác.
Kathryn với lấy túi xách của mình, đổi cặp kính viền hồng thành cái khác có viền kim loại màu đen.
Kính săn mồi.
“Annette?”
“Vâng thưa sếp?”
“Chị hãy nói cho tôi biết tại sao chị lại nói dối?”
Cô đã trông đợi sự phủ nhận, sự phản kháng. Trông đợi sự tức giận.
Chứ không mong người phụ nữ này quỳ gối, mất tự chủ mà khóc nức nở.