Q
uán bar ven đường này khá tiện nghi, thân thiện và không đắt đỏ. Mọi thứ đều ổn.
Cũng an toàn nữa. Lại càng tốt hơn.
Bạn luôn quan tâm tới những vấn đề đó khi đưa cô con gái mới lớn ra ngoài nghe nhạc vào buổi tối.
Michelle Cooper luôn làm như vậy, trong bất cứ sự kiện nào. Yên tâm khi đề cập tới ban nhạc, thứ nhạc họ chơi, các vị khách và cả nhân viên phục vụ.
Bản thân quán bar này cũng vậy, khu để xe – sáng sủa – cả cửa thoát hiểm và hệ thống vòi phun chữa cháy trên trần.
Michelle luôn luôn kiểm tra những thứ này. Vẫn là vì cô con gái mới lớn.
Quán Solitude Creek – Nhánh sông Cô đơn thu hút rất nhiều loại khách ở mọi lứa tuổi, giới tính, người da trắng, người Latinh1, người châu Á, một vài người Mỹ gốc Phi, một hình ảnh phản chiếu đầy trung thực vùng Vịnh Monterey2. Bây giờ mới hơn bảy rưỡi, Michelle nhìn xung quanh, để ý thấy có hàng trăm khách là người bản xứ hoặc đến từ những quận xung quanh, tất cả đang vui vẻ và mong chờ sự xuất hiện của ban nhạc. Nếu họ mang theo bất kỳ mối bận tâm gì, thì những rắc rối đó giờ đây được giấu đi một cách kín đáo, nhường chỗ cho những vại bia, các loại cocktail, cánh gà nướng và âm nhạc.
1 Latinh: là thuật ngữ thường được dùng ở Mỹ để chỉ những người có văn hóa kết hợp Mỹ Latinh, trái ngược với Hispanic là để chỉ người Tây Ban Nha, hay tiếng Tây Ban Nha.
2 Vịnh Monterey: Thuộc quận Monterey – một quận trong tiểu bang California, Mỹ.
Nhóm nhạc này đã bay tới từ Los Angeles. Từ một ban nhạc rock nghiệp dư, thành chân dự bị và rồi trở thành ngôi sao tại các quán bar nhờ có Twitter, YouTube và Vidster3. Tiếng lành đồn xa, cũng như sự nổi tiếng và tài năng của nhiều nhóm hiện nay khiến sáu chàng trai ở Lizard Annie miệt mài làm việc trước điện thoại cũng như trên sân khấu. Họ chưa phải là nhóm O.A.R.4 hay ban nhạc Linkin Park, nhưng với một chút may mắn, họ sẽ nhanh chóng nổi tiếng.
3 Vidster: hay MyVidster được biết đến là một trang cho phép chia sẻ và tìm kiếm video.
4 O.A.R.: Viết tắt của Of A Revelution, là một nhóm nhạc rock của Mỹ thành lập vào năm 1996 tại Rockville, Maryland.
Họ chắn chắn có sự cổ vũ của Michelle và Trish. Thực ra, nhóm nhạc nam dễ thương này có lượng người hâm mộ là mẹ và con gái khá đông đảo, cứ nhìn vào khung cảnh tối nay thì biết, xung quanh đầy những cặp phụ huynh và con cái khác – những lời bài hát dâm dục nhất của nhóm cũng chỉ được đánh giá ở mức PG5. Trong buổi diễn đêm nay, khán giả có độ tuổi từ mười sáu tới bốn mươi, loanh quanh trong khoảng đó. Được rồi, Michelle thừa nhận, có lẽ là hơn bốn mươi tuổi một chút.
5 PG: viết tắt của cụm từ Parental Guidance Suggested – thuộc hệ thống phân loại phim ảnh hiện hành của Mỹ (MPAA). Đối với loại PG: cha mẹ nên có hướng dẫn cho con khi tiếp cận vì có thể có một số nội dung, hình ảnh không phù hợp.
Michelle để ý tới chiếc điện thoại Samsung mà con gái mình đang ôm khư khư và nói, “Nhắn tin sau đi con. Không phải bây giờ”.
“Kìa mẹ.”
“Ai vậy?”
“Là bạn Cho ạ.”
Một bé gái ngoan ngoãn ở lớp âm nhạc của Trish.
“Hai phút thôi nhé.”
Quán đang đông dần. Solitude Creek là tòa nhà một tầng có tuổi đời bốn mươi năm, có một sàn nhảy nhỏ hình chữ nhật làm bằng gỗ sồi ở trung tâm, vây quanh nó là các bàn cao và ghế đẩu. Sân khấu cao khoảng một mét nằm ở đầu phía bắc; đối diện là quầy bar. Nhà bếp nằm ở phía đông, phục vụ đủ các loại món, qua đó bỏ hẳn giới hạn về độ tuổi: chỉ những nơi phục vụ đồ uống có cồn mà có cung cấp đồ ăn là được phép cho trẻ em vào. Có ba cửa thoát hiểm ở bức tường phía tây.
Trên tường ốp gỗ tối màu có treo những tấm áp-phích, cùng những bức hình chụp trong buổi diễn, có cả chữ viết tay thật lẫn giả của các nhóm từng trình diễn tại Nhạc hội nhạc Pop Monterey6 huyền thoại diễn ra vào tháng 6 năm 1967 như: Jefferson Airplane, Jimi Hendrix, Janis Joplin, Ravi Shankar, Al Kooper và Country Joe; cùng hàng chục ca sĩ và nhóm nhạc khác. Trong chiếc hộp bằng kính Plexiglas7 bám bụi là một phần của chiếc ghi-ta điện, nó bị Pete Townshend (nhóm The Who8) đập vỡ sau buổi trình diễn của nhóm ở nhạc hội.
6 Nhạc hội Monterey Pop: diễn ra vào năm 1967, kéo dài ba ngày, tại Khu hội chợ quận Monterey ở Monterey, California. Lễ hội này mang đậm chủ đề của California như là tâm điểm cho phong trào phản văn hóa.
7 Kính Plexiglas: là tên thương mại của loại kính nhựa Poly (methyl methacrylate), cũng có các tên gọi khác như thủy tinh hữu cơ, nhựa acrylic hoặc thủy tinh acrylic.
8 The Who: là một ban nhạc rock người Anh biểu diễn lần đầu vào năm 1964, và dần được xem là một trong những ban nhạc nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới.
Ở quán Solitude Creek này khách đến trước ngồi trước, và giờ tất cả các chỗ ngồi đều đã được lấp đầy – chỉ còn khoảng hai mươi phút nữa là buổi diễn bắt đầu. Hiện giờ, nhân viên phục vụ đã chuyển các đơn gọi đồ vào phút chót, những chiếc đĩa chứa những chiếc hăm-bơ-gơ cỡ lớn cùng cánh gà và đồ uống được xếp lên các khay đang chao lượn trên bàn tay vững chắc của người phục vụ. Phía sau sân khấu vang lên một chuỗi những hợp âm của đàn ghi-ta, âm arpeggio9 của kèn sắc-xô-phôn và hợp âm La trưởng từ chiếc ghi-ta bass. Sự hồi hộp trông đợi. Đó là những khoảnh khắc thú vị trước khi âm nhạc bắt đầu thu hút và lôi cuốn mọi người.
9 Arpeggio: là hợp âm được chơi rải theo từng nốt rời rạc, thường gồm ba nốt là nốt chủ âm/nốt gốc (Tonic), nốt bậc 3/quãng 3 (Third) và nốt bậc 5/quãng 5 (Fifth).
Những tiếng nói to, từ ngữ không rõ ràng của những vị khách chưa có bàn đang cố tìm cách để có được chỗ tốt nhất trong khu vực phòng chờ. Vì sân khấu không cao và sàn nhà thì phẳng, nên đôi khi rất khó để xem trọn vẹn cả tiết mục. Có một chút chen lấn, nhưng rất ít lời khó nghe thốt ra.
Đó là quán bar Solitude Creek. Không có thái độ thù địch.
An toàn…
Tuy nhiên, có một thứ mà Michelle Cooper không để tâm tới. Chứng sợ không gian hẹp. Trần của quán này khá thấp, càng khiến không gian thêm chật chội. Căn phòng tối mờ mờ thực sự không rộng rãi cho lắm, hệ thống thông gió không phải là tốt nhất; mùi mồ hôi trộn lẫn mùi kem cạo râu và mùi nước hoa, nồng nặc hơn cả là mùi đồ chiên nướng, càng làm tăng thêm cái cảm giác bị giam hãm. Cái cảm giác mà bạn bị bó buộc, nhồi nhét như cá hộp vậy. Không, thường thì điều đó không bao giờ khiến Michelle Cooper bằng lòng.
Cô hững hờ vuốt mái tóc vàng xịt gôm của mình, nhìn lại về phía cửa thoát hiểm – nằm cách đó không xa – và cảm thấy an tâm.
Thêm một hớp rượu nữa.
Michelle thấy Trish đang để ý tới một cậu nhóc ở một bàn gần đó. Cậu ta có mái tóc mềm, mặt nhỏ, người mảnh khảnh. Ngoại hình đẹp chết người. Cậu ta đang uống bia nên mẹ nghiêm cấm ngay hành động nghiêng người sang của Trish, dù là âm thầm. Vấn đề không phải là đồ uống có cồn, mà là độ tuổi: dùng thức uống này tức là cậu ta đã phải trên hai mươi mốt tuổi và vì thế hoàn toàn không phù hợp với cô con gái mười bảy tuổi của cô.
Lúc đó, cô bé tỏ vẻ thất vọng như muốn nói: Chí ít thì cũng cho con thử chứ.
Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ Rolex nạm kim cương. Đã năm phút trôi qua.
Michelle lên tiếng hỏi, “Đó có phải là bài Trốn Thoát, từng được đề cử giải Grammy không con?”.
“Đúng ạ.”
“Nhìn mẹ này, con gái!”
Cô bé làm bộ nhăn nhó, lên tiếng “Mẹ”, và rời mắt khỏi chàng trai đang uống bia kia.
Michelle hy vọng rằng tối nay Lizard Annie sẽ hát bài hát này. Bài Trốn Thoát không chỉ dễ nghe mà còn gợi nhớ đến những kỷ niệm đẹp. Cô đã nghe bài này sau buổi hẹn đầu tiên gần đây với một luật sư tới từ Salinas. Trong sáu năm kể từ sau vụ ly dị lằng nhằng, Michelle đã có rất nhiều buổi hẹn hò ăn tối hay xem phim gượng gạo, không tự nhiên. Nhưng buổi tối hôm đó với Ross thực sự vui vẻ. Họ cùng cười đùa. Họ cùng tranh luận về các tập hay nhất của phim Phó tổng thống (Veep10) và Trở về (Homeland11). Và mọi thứ diễn ra rất tự nhiên, không có chút căng thẳng nào, điều vốn rất hiếm thấy ở lần hẹn hò đầu tiên.
10 Veep: là một bộ phim truyền hình thuộc thể loại hài chính trị của đài cáp HBO. Phim kể về câu chuyện của một phó tổng thống hư cấu, Selina Meyer, người sẽ là tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ.
11 Homeland: là series truyền hình chính kịch dựa trên loạt phim Prisoners of War (Những tù nhân chiến tranh) của Israel.
Hai mẹ con ăn thêm một chút a-ti-sô ngâm trộn và Michelle thì uống thêm chút rượu. Vì phải lái xe nên cô chỉ cho phép mình uống hai ly, không hơn.
Trish chỉnh lại chiếc băng đô hoa màu hồng trên đầu và nhấp một ngụm Cô-ca ăn kiêng. Cô bé mặc một chiếc quần bò màu đen, không quá bó – đúng thế! – và một chiếc áo len trắng. Michelle thì mặc chiếc quần bò màu xanh, bó hơn của con gái mình, dù đó là một biểu hiện của việc tập thể dục thất bại; kết hợp cùng chiếc áo cánh màu đỏ bằng lụa.
“Mẹ, tuần này mình đi San Francisco nhé? Đi mà mẹ. Con muốn mua một chiếc áo khoác.”
“Chúng ta sẽ tới Carmel.” Michelle tiêu chủ yếu số tiền hoa hồng có được từ bất động sản của mình vào việc mua sắm ở những cửa hàng cao cấp tại ngôi làng mua sắm đẹp như tranh và cực dễ thương này.
“Mẹ ơi, con vẫn chưa tới ba mươi tuổi mà.” Ý là cổ lỗ sĩ. Trish chỉ đơn giản chỉ ra ít nhiều thực tế rõ ràng rằng mua sắm quần áo cho lứa tuổi mới lớn ở khu Peninsula này không dễ dàng chút nào, mọi người vẫn thường nói quá một chút là nơi này dành cho những cặp mới cưới hoặc những người sắp lìa đời.
“Được rồi. Mẹ sẽ xem xét.”
Trish ôm lấy mẹ mình và thế giới của Michelle bừng sáng.
Hai mẹ con cô đã trải qua những giai đoạn khó khăn. Cuộc hôn nhân tưởng chừng viên mãn lại sụp đổ vì sự lừa dối. Mọi thứ rẽ đôi. Frederick (không bao giờ là Fred) bỏ đi khi Trish mười một tuổi – đó không phải là khoảng thời gian thích hợp cho việc tan vỡ. Nhưng Michelle đã làm việc chăm chỉ để nuôi con gái thật tốt, bù đắp cho con bé những gì đã bị cướp đi bởi sự phản bội và hậu quả của cuộc ly hôn.
Và giờ thì mọi thứ đã ổn. Con gái cô dường như rất vui vẻ. Cô mở to mắt và ngắm nhìn con gái, Trish để ý thấy điều đó.
“Sao vậy mẹ?”
“Không có gì.”
Đèn vụt tắt.
Thông báo từ loa phóng thanh yêu cầu tắt hết điện thoại, đóng các cửa thoát hiểm và vài thứ khác là tiếng của chính người chủ đáng kính của câu lạc bộ này – ông Sam Cohen. Ông là một biểu tượng của vùng Vịnh Monterey này. Ai ai cũng yêu quý Sam.
Giọng Sam tiếp tục vang lên, “Và giờ, thưa quý vị thân mến, Solitude Creek, quán bar bậc nhất tại bờ Tây…”.
Tiếng vỗ tay rào rào.
“… rất hân hạnh được chào đón, trực tiếp từ Thành phố của những Thiên thần… Lizard Annie!”
Tiếp đó là tiếng vỗ tay reo hò. Huýt sáo.
Các chàng trai bước ra. Những chiếc ghi-ta được cắm điện vào. Chỗ ngồi phía sau dàn trống nhanh chóng được tiếp quản, vị trí đàn điện cũng vậy.
Giọng ca chính hất mái tóc của mình sang một bên và giơ tay lên về phía khán giả. Thể hiện cử chỉ quen thuộc của nhóm. “Chúng ta đã sẵn sàng để bùng cháy chưa?”.
Tiếng hò reo vang lên. “Sẵn sàng chưa?”
Những âm thanh từ cây ghi-ta vang lên. Đúng thế! Đó là bài Trốn thoát. Michelle và con gái bắt đầu vỗ tay, hòa cùng với hàng trăm người khác trong căn phòng nhỏ này. Không gian trở nên nóng hơn cùng với độ ẩm và mùi cơ thể. Sự bí bách tăng lên một chút. Tuy nhiên, Michelle vẫn tươi cười, thậm chí còn cười lớn.
Nhịp điệu vẫn vang lên cùng ghi-ta điện, trống và những cánh tay.
Nhưng đột nhiên Michelle ngừng vỗ tay. Cô cau mày nhìn xung quanh và ngẩng đầu lên. Đó là gì vậy? Giống như mọi nơi ở California, quán này cấm hút thuốc. Tuy nhiên, Michelle chắc chắn rằng có ai đang làm điều này. Cô rõ ràng ngửi thấy mùi khói.
Cô nhìn quanh nhưng không thấy ai đang hút thuốc cả.
“Gì vậy mẹ?” Trish gọi, khi nhìn thấy biểu hiện khó chịu của mẹ mình.
“Không có gì,” Michelle đáp, và lại bắt đầu vỗ tay theo nhịp.