Đội cận vệ của tôi khó khăn lắm mới theo kịp khi tôi chạy như bay trên các hành lang cung điện. Những người hầu mặc áo choàng hồ cứng và đi giày bóng lộn đứng dọc hai bên, cúi đầu như những quân cờ domino khi tôi đi qua. Từ xa vọng lại âm thanh trầm thấp, xuyên qua cả những bức tường đá và vữa, đều đặn như tiếng nước chảy, đì đùng như tiếng sấm đằng xa. Đó là đám đông ngoài kia, đang réo gọi tên tôi.
Tôi ngoặt ở một góc và va phải một miếng hộ tâm sáng loáng. Bàn tay vững vàng giữ vai tôi, cứu tôi khỏi ngã ngửa ra sau. Nhưng vương miện của tôi không được may mắn như vậy. Cái thứ to tướng xấu xí đó rơi xuống đất, kéo theo vài lọn tóc, làm tôi đau hết da đầu.
Anh buông vai tôi và xoa xoa đốm đỏ trên cổ. “Vương miện của cô quả là một món vũ khí lợi hại,” tổng chỉ huy Ngự lâm quân Hector nói.
“Xin lỗi,” tôi nói và chớp mắt. Anh và những người lính khác đã cạo râu để ăn mừng chiến thắng gần đây, nhưng tôi vẫn chưa quen với diện mạo mới, trẻ trung hơn của Hector.
Ximena, bà vú tóc bạc của tôi, cúi xuống nhặt vương miện và phủi bụi. Nó bằng vàng dày dặn và nạm duy nhất một viên hồng ngọc được tiện tròn. Tôi không thấy đây là một chiếc vương miện dành cho nữ hoàng quý phái. Theo truyền thống, tôi đội vương miện của một vị quân vương uy quyền toàn cõi.
“Tôi tưởng cô phải đến từ một tiếng trước,” anh nói khi tôi choàng tay qua cánh tay anh chìa ra. Chúng tôi rảo bước đi trên hành lang.
“Tướng quân Luz-Manuel giữ chân tôi. Ông ấy lại muốn thay đổi tuyến đường diễu hành.”
Anh dừng sựng lại, làm tôi suýt ngã. “Lại nữa?”
“Ông ấy muốn tránh đoạn thắt cổ chai, chỗ đại lộ Avenida de la Serpiente cắt ngang hẻm thương nhân. Ông ấy bảo một người lạ trong đám đông có thể dễ dàng ám sát tôi.”
Ximena nhân lúc chúng tôi dừng lại để chỉnh vương miện trên đầu tôi. Tôi nhăn nhó khi bà ấn mấy cái ghim tóc qua những lớp vải nhung để giữ vương miện cố định.
Hector lắc đầu. “Nhưng mái nhà ở khu vực kia thấp hơn. Sát thủ khó có thể bắn tên về phía cô, mà đó là mối nguy hiểm lớn hơn.”
“Tôi cũng nói như thế. Ông ta… không vui.” Tôi giật tay anh, ra hiệu đi tiếp.
“Ông ấy phải hiểu rõ chứ.”
“Tôi cũng tính nói vậy đấy.”
“Tôi chắc ông ta sẽ rất vui được nghe câu đó,” anh nói cộc lốc.
“Tôi không rõ đổi tuyến đường sẽ giúp ông ta được lợi lộc gì,” tôi bảo. “Nhưng dù có là gì đi nữa, ông ta cũng đừng hòng có được.”
Hector liếc nhìn những con người đang đứng dọc hành lang, rồi khẽ giọng nói thêm, “Elisa, là cận vệ của cô, tôi xin cô nên cân nhắc. Cả thiên hạ đều biết cô mang Thánh thạch.”
Tôi thở dài. Đúng, giờ tôi là mục tiêu của những phần tử sùng đạo quá khích, gián điệp Invierne, và cả đám con buôn đá quý chợ đen. Nhưng lễ diễu hành mừng sinh nhật của tôi là ngày duy nhất trong mỗi năm mà mọi người – từ thợ giặt, người chăn ngựa tới những thủy thủ dãi dầu nắng mưa – có thể thấp thoáng nhìn thấy người trị vì của mình. Đấy là ngày quốc lễ, ngày mà họ chờ đợi nhiều tháng nay. Tôi sẽ không tước mất cơ hội này của họ.
Và tôi còn lâu mới trị vì trong sợ hãi. Cuộc sống trải dài trước mắt tôi là cuộc sống của một nữ hoàng. Đó là cuộc sống do chính tôi chọn lựa, thậm chí còn chiến đấu để có được nó. Tôi không thể – và sẽ không – phí phạm nó chỉ vì sợ hãi.
“Hector, tôi sẽ không trốn trong cát như một con chuột nhảy sợ hãi đâu.”
“Đôi khi,” Ximena xen ngang, giọng nhẹ nhàng nhưng thận trọng, “bảo vệ Elisa có nghĩa là bảo vệ ý thích của con bé. Elisa phải xuất hiện trước bàng dân thiên hạ. Những tháng đầu tiên này rất quan trọng vì con bé đang cần củng cố quyền lực. Tôi và anh sẽ bảo vệ Elisa an toàn. Và cả Chúa cũng bảo vệ Elisa. Con bé mang vận mệnh vĩ đại…”
Lời của bà, tôi nghe tai nọ ra tai kia. Quá nhiều chuyện xảy ra hồi năm ngoái, và tôi chẳng thấy mình đến gần định mệnh hơn cái ngày mà Chúa đặt viên đá của Ngài vào rốn tôi mười bảy năm trước. Nó vẫn đập mạnh mẽ, ấm nóng đáp lại những lời cầu nguyện của tôi, nhắc nhở rằng tôi chưa làm đủ, rằng Chúa vẫn còn những dự định dành cho tôi.
Và tôi đã chán nghe về chuyện ấy rồi.
“Tôi hiểu, thưa bà,” Hector nói. “Nhưng sẽ an toàn hơn…”
“Hector!” Tôi gắt. “Ý tôi đã quyết.”
Anh sững sờ. “Vâng, thưa nữ hoàng.”
Nỗi xấu hổ nghẹn trong cổ tôi. Sao tôi lại quát Hector? Tôi bực Ximena cơ mà.
Một lát sau, chúng tôi tới nhà để xe ngựa nồng nặc nước đái ngựa còn nóng ấm và cỏ khô đã mục vào cái ngày cực kỳ nóng nực này. Tàu ngựa của tôi được mở sẵn, đó là một công trình bằng gỗ gụ sáng bóng và đồng uốn. Những lá cờ xí hoàng gia màu xanh từ các cọc rủ xuống. Hai cánh cửa được khắc gia huy của tôi – một chiếc vương miện hồng ngọc nằm trên thảm hoa hồng thánh.
Fernando, cung thủ xuất sắc nhất của tôi, đứng trên bục sau xe ngựa, cung đã đeo sẵn trên vai. Anh ta cúi gập người, gương mặt nghiêm nghị. Bốn con ngựa vẫy đuôi và lồng lên. Tôi cảnh giác nhìn chúng trong khi Hector giúp tôi lên xe.
Sau đó anh chìa tay cho Ximena, và dù mới bất đồng ý kiến nhưng họ nhìn nhau tỏ vẻ rất ăn ý. Họ, cận vệ và hộ vệ của tôi, là một nhóm đáng sợ. Đôi lúc, tôi có cảm giác họ ngấm ngầm lập mưu bảo vệ tôi an toàn.
Hector ra lệnh, và xà ích giật cương, chiếc xe lao đi. Đội Ngự lâm quân, trong những bộ giáp lễ sáng loáng, quỳ rạp quanh chúng tôi. Họ hành quân một-hai-một-hai khi chúng tôi rời nhà để xe, ra ngoài bầu trời rực nắng sa mạc.
Ngay khi chúng tôi quặt vào đường Colonnade, không gian dậy tiếng hò reo.
Hàng nghìn người chen lấn bên đường, vẫy tay, vẫy cờ, vẫy những mảnh vải rách. Trẻ con ngồi trên vai cha mẹ, tung hạt và cánh hoa hồng lên trời. Một lá cờ sáu người căng có dòng chữ CHÚC MỪNG SINH NHẬT NỮ HOÀNG LUCERO-ELISA!
“Ôi,” tôi thở một hơi.
Ximena nắm tay tôi và bóp chặt. “Con là người hùng thời chiến mà, nhớ chứ?”
Nhưng tôi cũng là một nữ hoàng ngoại bang, lên nắm quyền nhờ hôn nhân và chiến tranh. Sự ấm áp và kiêu hãnh nở rộ trong ngực tôi khi chứng kiến thần dân đã toàn tâm toàn ý chấp nhận mình.
Rồi Ximena bỗng ủ rũ và bà cúi sát, thì thầm, “Hãy nhớ và trân trọng giây phút này, bầu trời của vú. Không một vị tôn chủ nào mãi mãi được lòng dân đâu.”
Tôi gật đầu theo thói quen, nhưng không thể không nhăn mày. Thần dân đang tặng quà cho tôi, vậy mà bà nỡ tước nó đi quá sớm.
Hai bên con đường dốc Colonnade là những căn nhà thành thị ba tầng đã xuống cấp. Gờ đắp nổi bằng đá sa thạch được chạm khắc công phu lấp lánh dưới nắng, và những lá cờ lụa tung bay từ các khu vườn trên gác mái. Nhưng khi chúng tôi đi từ trên cao xuống, dọc đường nơi nào cũng vang tiếng hò reo, nhà phố thị dần nhường chỗ cho những căn nhà kém hơn, đến khi chúng tôi tới ngoại ô thành phố, nơi chỉ còn vài căn nhà giản dị vươn lên từ phế tích chiến tranh.
Tôi tránh nhìn những phế tích đó càng lâu càng tốt, cứ chăm chú nhìn tường thành. Nó cao bằng vài người đứng công kênh nhau, bảo vệ chúng tôi khỏi sa mạc nhấp nhô đằng sau. Tôi nghển cổ và thoáng trông thấy những người lính đứng gác giữa các lỗ châu mai, giương cung sẵn sàng.
Cổng chính mở cho hoạt động thương mại ban ngày. Đi qua khung lưới sắt là con đường cái rải sỏi. Bên ngoài đó là những đụn cát trập trùng của sa mạc xinh đẹp, gió hiu hiu dìu dịu trong ánh sáng vàng ruộm của buổi trưa. Ánh mắt tôi nán lại rất lâu ở biển cát khi chúng tôi rẽ sang đại lộ Avenida de la Serpiente.
Khi không thể tránh lâu hơn, cuối cùng tôi cũng chịu ngắm nhìn thảm cảnh khiến trái tim tôi quặn thắt, bởi lẽ vòng ngoại vi của Brisadulce giống như vết sẹo trên bề mặt trái đất, đen đúa, đổ nát và nồng mùi than ẩm. Đây là nơi Invierne đã đập tan cổng thành, nơi lũ pháp sư người thú thiêu rụi mọi thứ trong tầm mắt bằng ngọn lửa xanh nóng rực từ lá bùa Thánh thạch của chúng.
Tôi thấp thoáng thấy một thanh xà nhà, nằm chênh vênh trên một đống gạch vụn. Ở một đầu lộ ra thớ gỗ còn sạch sẽ, nhưng cả thanh đã bị bám muội đen, đầu bên kia vẫn còn cháy đỏ. Một cuộn khói bốc lên trời.
Vành đai ngoài đầy rẫy những chứng tích vẫn còn sáng đỏ của cuộc chiến mà phần thắng thuộc về chúng tôi, nhưng với cái giá không hề nhỏ. Mấy tháng đã trôi qua, nhưng chúng tôi vẫn không thể dập lửa hoàn toàn. Cha Nicandro, tu sĩ trưởng của tôi, nói rằng vì ma thuật gây ra những đám cháy ấy, nên chỉ ma thuật mới có thể dập tắt chúng. Ma thuật hoặc thời gian.
Thành phố của tôi có thể còn cháy cả trăm năm.
Vậy nên tôi mỉm cười và vẫy tay. Tôi làm điều đó một cách nhiệt thành, như thể tính mạng mình phụ thuộc vào đó, như thể cả tương lai huy hoàng trước mắt chúng tôi, còn những đám lửa ma thuật kia chẳng có gì đáng phải bận tâm.
Thần dân yêu mến tôi vì điều ấy. Họ hò hét và vỗ tay, và đó như phép thuật, một thứ phép thuật tốt lành, và sau một hồi họ đã truyền cho tôi hi vọng, và nụ cười của tôi trở nên chân thành hơn.
Đường phố hẹp, và đám đông đứng san sát nhường đường chúng tôi nhích qua. Hector vừa đặt tay lên bao kiếm vừa nhích lại gần cỗ xe. Tôi tự nhủ không cần phải lo lắng về dân chúng gần mình, và tôi yêu gương mặt tươi cười của họ, nguồn năng lượng vô hạn của họ.
Nhưng khi chúng tôi đến gần đại hí trường có những cột đá lớn, tôi cảm nhận được một chuyển động nho nhỏ, một nhóm lạc điệu – như thể mọi người bị xao lãng. Những người lính Ngự lâm quân ngờ vực quan sát đám đông.
“Có chuyện không ổn,” Ximena thì thầm.
Tôi hoảng hốt nhìn bà. Theo thói quen bấy lâu, tay tôi lần tìm Thánh thạch, tìm kiếm một manh mối; nó ấm lên khi tôi ở cạnh bạn bè, và lạnh băng khi mạng sống của tôi bị đe dọa. Có phải tôi tưởng tượng ra hay nó đang lạnh hơn bình thường?
Đại hí trường có hình móng ngựa, với hai đầu vuông góc với đại lộ. Khi chúng tôi đến gần, một chuyển động khiến tôi dõi mắt nhìn lên. Cao cao bên trên là một người đàn ông mặc áo choàng trắng tung bay trong gió.
Thánh thạch của tôi lạnh băng, và tứ chi tôi đông cứng khi nhận thấy màu tóc hắn: vàng nhạt nhất, gần như trắng, đổ dài xuống thắt lưng. Nắng bắt sáng vào thứ gì đó được gắn trên cây trượng gỗ của hắn. Ôi, Chúa ơi.
Tôi bàng hoàng không hét lên nổi, và khi Hector nhận thấy kẻ mặc đồ trắng kia thì đã quá muộn: xe ngựa của tôi đã ở trong tầm ngắm. Đám đông im lìm đến kỳ lạ, như thể toàn bộ không khí đã bị hút sạch, vì tất cả đều được nghe mô tả nhân dạng người thú, pháp sư Invierne.
Từ chóp cây trượng của gã người thú bắt đầu tỏa ra ánh sáng xanh của Thánh thạch.
Nỗi sợ hãi của tôi dày đặc như một cơn mê khi tôi cố gắng nói. “Fernando!” Tôi hét. “Bắn đi! Bắn chết hắn!”
Một mũi tên xé gió về phía gã người thú.
Hắn phất cây trượng. Một luồng lửa xanh nóng bắn ra từ đầu trượng, trúng mũi tên, khiến nó tan tành thành một đám vụn gỗ và tia lửa.
Người người la hét. Hector ra hiệu cho những Ngự lâm quân, và quát tháo ra lệnh. Một nửa vội vàng che chắn quanh tôi, số còn lại lao đi tấn công gã pháp sư. Nhưng đám đông đang hoảng hốt và chạy loạn, còn lính gác bị kẹt giữa dòng người.
“Cung thủ!” Hector hét. “Bắn!”
Hàng trăm mũi tên đồng loạt bay vút đi.
Gã người thú xoay vòng tròn, tay giơ quyền trượng. Không khí xung quanh biến đổi theo ý hắn, và tôi lờ mờ trông thấy một hàng rào được hình thành – giống như thủy tinh, như ảo ảnh rung động trên sa mạc – trước khi Ximena nhảy qua ghế và dùng cơ thể mình che chắn cho tôi.
“Bảo vệ nữ hoàng!” Giọng Hector vang lên. “Chúng ta phải rút lui!” Nhưng xe ngựa không nhúc nhích, vì đám đông đang chạy loạn dồn chúng tôi lại.
“Nữ hoàng Lucero-Elisa,” một giọng nói mang âm xuýt, được khuếch đại nhờ đặc tính của đại hí trường. “Người mang viên Thánh thạch còn sống duy nhất, cô thuộc về chúng ta, thuộc về chúng ta.”
Hắn bước xuống cầu thang. Tôi biết hắn là ai. Hắn đến vì tôi. Để mở đường tiến đến, hắn sẵn sàng thiêu sống người ta và…
“Cô nghĩ đã đánh lui chúng ta, nhưng chúng ta nhiều như cát sa mạc. Lần tiếp theo, chúng ta sẽ tới với cô như những bóng ma trong giấc mơ. Và cô sẽ biết cánh cổng kẻ thù của cô!”
Từ khóe mắt, tôi thoáng thấy ánh kiếm của Hector khi anh giơ nó lên cao, và bụng tôi quặn thắt khi nhận ra anh dám chém giết thần dân của tôi nếu đó là điều cần thiết để giúp tôi thoát thân.
“Ximena!” Tôi thở dốc. “Buông con ra. Hector… anh ấy dám làm bất cứ điều gì. Chúng ta không thể để anh ấy…”
Bà hiểu ngay. “Cúi xuống,” bà ra lệnh khi lao người vào cửa và lảo đảo bước xuống đường.
Tim đập rộn, tôi lén ló qua gờ xe ngựa. Gã người thú vừa nhìn tôi hau háu vừa đi xuống cầu thang lớn, như thể tôi là con chuột nhắt mắc bẫy. Thánh thạch liên tục truyền hơi lạnh cảnh báo.
Giờ hắn thừa sức giết tôi nếu muốn; chúng tôi không thể chặn lửa của hắn. Vậy sao hắn không làm? Cẩn trọng quan sát hắn, tôi đứng thẳng trên xe ngựa.
“Elisa, đừng!” Hector hét. Ximena đã khóa tay cầm kiếm của anh, nhưng anh đẩy bà ra và lao về phía tôi. Anh dừng sững lại, và gương mặt cau có cứng đờ: gã người thú kia đã dùng phép thuật đóng băng anh.
Nhưng Hector là người mạnh mẽ nhất tôi biết. Chống lại nó đi, Hector.
Rùng mình vì cái lạnh thấu xương, tôi buộc mình phải bước ra khỏi xe ngựa. Gã pháp sư kia muốn tôi, vậy có lẽ tôi có thể đánh lạc hướng hắn, kéo dài thời gian cho binh lính của mình đánh úp hắn, cho Hector cơ hội thoát khỏi thứ ma thuật kia.
Ánh nắng phản chiếu từ mảnh áo giáp của một người lính đang thận trọng tiếp cận gã người thú, vậy nên tôi cố giữ ánh nhìn kiên định và giọng sắt đá khi nói, “Ta đã thiêu các anh em mi ra tro bụi. Ta sẽ làm điều tương tự với mi.” Sự dối trá đè nặng lên lưỡi tôi. Tôi chỉ sử dụng được quyền năng trong viên đá của mình một lần duy nhất, và tôi cũng chẳng rõ bằng cách nào.
Nụ cười đáp trả của gã người thú thật hoang dại và trơn tru. “Hãy đầu hàng đi, và chúng ta sẽ tha cho người dân của cô.”
Một người lính đã trong tầm tấn công hắn. Gã người thú không để ý tới cậu ta. Người lính lẳng lặng tra tên vào cung, ngắm bắn.
Hãy tỏ vẻ mạnh mẽ, Elisa. Đừng nao núng. Hãy nhìn thẳng.
Mũi tên vun vút lao đi. Gã người thú quay phắt lại khi nghe thấy âm thanh nọ, nhưng đã quá muộn: mũi tên đã cắm vào lồng ngực hắn.
Gã người thú lảo đảo. Hắn quay lại nhìn tôi, mắt lóe lên sự đau đớn hoặc nhiệt huyết, một bên vai thõng hẳn xuống. Máu đỏ như mực loang trên áo choàng. “Hãy nhìn kỹ đây, nữ hoàng của ta,” hắn nói, giọng trơn trụi buồn ngủ. “Đây là điều sẽ xảy ra với tất cả dân chúng Joya d’Arena nếu cô không tự nguyện làm vật tế.”
Hector cuối cùng cũng tới bên tôi, nắm vai kéo tôi đi, kể cả khi binh lính đã lao tới chỗ gã người thú. Nhưng Thánh thạch của hắn đã sáng lên như một vầng thái dương bé con; họ sẽ không tóm được hắn kịp lúc. Tôi tưởng lửa sẽ bắn về phía chúng tôi, sẽ biến thần dân tôi thành tro muội. Tôi đột ngột níu lấy khớp áo giáp của Hector, nhằm vào thắt lưng đeo kiếm của anh, kéo anh đi, vì tôi không thể chịu nổi cảnh một người bạn của mình hóa thành đuốc sống.
Nhưng gã người thú lại tự thiêu.
Hắn hét lớn “Đây là ý Chúa!”, sau đó giơ hai tay lên trời, miệng lẩm nhẩm như đang cầu nguyện trong khi ngọn lửa thiêu đốt da thịt, biến tóc hắn thành tro, còn bản thân hắn thành ngọn đuốc sống trước con mắt của toàn dân thành phố.
Mùi thịt cháy nồng nặc không khí trong khi những người còn lại đang mải chạy tản mác khắp nơi. Ngựa lồng lên và lao đi, giẫm đạp lên người trên đường, cỗ xe bị kéo lọc cọc đằng sau.
“Bảo vệ nữ hoàng!” Hector hét ra lệnh.
Gió thổi khắp đại hí trường, dập tắt ngọn lửa lớn nhất và cuốn bay những mẩu tóc cùng áo choàng còn sót lại lên trời. Cơ thể đã hóa thành than của gã người thú nghiêng ngả trên cầu thang và rơi thình xuống đất, để lại khói và những tia lửa.
Tôi áp trán vào tấm hộ tâm áo giáp Hector và nhắm mắt khi sự hỗn loạn quanh chúng tôi dần tiêu tan. Cảm giác lạnh cóng từ Thánh thạch đã giảm, và tôi hít sâu vào phổi thứ không khí sa mạc nóng nực hòa cùng cảm giác nhẹ nhõm.
Hector bảo, “Chúng ta phải đưa cô trở về cung điện.”
“Dĩ nhiên,” tôi nói, rời khỏi anh và đứng thẳng. “Đi thôi.” Có lẽ nếu tôi giỏi giả bộ, tôi sẽ thấy mình thực sự mạnh mẽ.
Lính gác xếp thành hình chữ V, với áo giáp kêu lanh canh và kiếm tuốt trần. Khi chúng tôi bắt đầu đoạn đường dài, dốc về lâu đài, một mảnh áo choàng trắng, gấu vẫn còn đỏ lửa, phấp phới bay xuống dưới chân tôi.