Tôi cầu nguyện trên đường về, cảm ơn Chúa đã giữ mạng cho tôi và đội Ngự lâm quân, xin Ngài hãy bảo vệ chúng tôi lâu thêm chút nữa. Nhưng khi chúng tôi tới gần cung điện, Hector giơ nắm đấm ra hiệu dừng lại.
Khung lưới sắt đã bị hạ xuống. Hàng trăm người tụ tập bên ngoài. Có người la hét và giậm chân, lay những thanh sắt. Những người khác đứng yên, mang theo chăn, túi, trẻ nhỏ. Con số càng tăng thêm khi những người khác bắt đầu bước ra từ các con phố và ngõ hẻm gần đó.
“Họ nghĩ chúng ta bị tấn công,” tôi nói, giọng nghẹn ngào. “Họ muốn được bảo vệ trong lâu đài.”
“Có lẽ chúng ta bị tấn công thật,” Ximena đều đều nói. “Có lẽ chiến tranh lại tiếp tục rồi.”
“Lùi lại nhanh,” Hector nói. “Nhưng đừng quá đột ngột.” Tôi hiểu điều anh không nói ra – nếu đám đông tuyệt vọng kia nhận ra tôi, tôi có thể bị tấn công.
Chúng tôi túm tụm trong một ngách nhỏ giữa hai căn nhà phố. Hector cởi bỏ chiếc khăn choàng đỏ tươi đặc trưng của Ngự lâm quân và lật sang mặt trái nhạt màu hơn. “Choàng vào đi. Chiếc đầm đó quá nổi bật.”
Chiếc áo choàng có mùi của Hector – mùi thép được bôi dầu, da thuộc và rượu nồng. Sau khi đã thắt khăn choàng, tôi ra hiệu cho những người khác. “Tất cả lật trái khăn choàng lại. Ximena, vú giấu vương miện giùm con nhé?” Tôi tháo nó ra, còn bà gỡ các ghim cài cố định khỏi tóc tôi.
Bà giơ nó lên một lát, ngẫm nghĩ. Bà luồn ra đằng sau tôi, tránh tầm mắt của binh lính, và khi bà xuất hiện trở lại, vạt váy trước của bà phồng lên. “Ít nhất trông sẽ không giống vương miện,” bà vừa nói vừa nhún vai xin lỗi.
“Giờ thì sao?” Tôi nói. “Nếu khung lưới sắt đã hạ, chắc chắn trại ngựa cũng đã đóng rồi.”
“Còn bếp?” Một người lính gợi ý.
“Hoặc sảnh chầu,” người khác lên tiếng.
Hector lắc đầu. “Binh lính biết phải khóa mọi lối vào trong lúc hỗn loạn.”
Thường thì lính Ngự lâm quân sẽ được phép ra vào lâu đài tùy ý. Đó là lý do duy nhất khiến Hector không cho người tới cung điện để gọi một đội tùy tùng đông đúc hơn và một cỗ xe ngựa không cửa sổ. “Anh nghĩ chuyện này không phải là ngẫu nhiên,” tôi bảo. “Anh nghĩ có kẻ đã ra lệnh giới nghiêm lâu đài trước khi tôi an toàn vào trong. Anh nghĩ đám đông không phải mối nguy hiểm lớn nhất.”
Ánh mắt Hector nhìn tôi rất nghiêm nghị. “Tôi sẽ không để cô gặp bất cứ nguy hiểm nào.”
“Đường ngầm thoát hiểm!” Tôi nói. “Nó dẫn từ phòng đức vua tới hẻm thương nhân. Alejandro đã nói rằng chỉ có một vài người biết đến sự tồn tại của nó.” Tôi vội quên đi hồi ức về những ngày dài trong phòng chồng mình khi chàng nằm chờ chết. Tôi lắng nghe kỹ từng lời chàng nói, ghi lòng tạc dạ để ngày nào đó truyền lại cho con trai chàng, Rosario.
Hector xoa cằm. “Nó đã bị hư hại nhiều. Tôi chưa từng đặt chân vào lại đó kể từ hồi Alejandro và tôi còn bé.”
Vậy thì được rồi. “Chúng ta đi thôi,” tôi ra lệnh.
Chúng tôi rời khỏi bóng tối của cái ngách gạch và bước ra ngoài nắng. Theo thói quen, đội lính Ngự lâm quân tạo thành một vành đai bảo vệ hoàn hảo.
“Không, không.” Tôi ra hiệu. “Thả lỏng đi. Dừng trông giống… Ngự lâm quân quá.”
Họ vội vàng rời đội hình, xấu hổ liếc nhìn nhau. Hector khoác vai tôi như thể chúng tôi vừa đi tản bộ. Anh cúi đầu và nói, “Dạo này trời nóng quá nhỉ.”
Tôi không thể không toét miệng cười, kể cả khi để ý tới sự căng thẳng hằn lên vai anh, cách anh đưa mắt nhìn khắp đường phố, và bàn tay kia đang đặt lên đốc kiếm. Tôi bảo, “Tôi thích nói chuyện cơn sốt khăn choàng đính đá quý gần đây hơn.”
Anh cười. “Không đâu.”
Chúng tôi tới hẻm thương nhân không phải do vô tình. Nó im ắng kỳ lạ, quán xá vắng tanh vắng ngắt, con phố rải đá vắng bóng những chiếc xe bán hàng rong. Hôm nay là quốc lễ. Nơi này đáng ra phải đông nghịt người mua kẻ bán, nghệ sĩ tung hứng, và người ăn mày, với bánh nướng dừa, kẹo viên chà là, và bánh thịt.
Tin tức hẳn đã lan khắp thành phố với sức tàn phá ngang ngửa bão cát. Invierne đã quay lại! Chúng đã đe dọa nữ hoàng!
Toàn bộ sự quạnh quẽ khiến chúng tôi càng dễ bị chú ý hơn. Tôi dựng tóc gáy khi liếc nhìn những tòa nhà xung quanh, chờ đợi một cái đầu lén lút ló ra ở cửa sổ. Nhưng chẳng thấy gì.
Tôi lặng lẽ nói, “Alejandro bảo lối vào đi thông qua nhà của một người thợ rèn.”
“Đúng. Ngay góc ngoặt kia… đó.” Anh chỉ một mái hiên lớn bên ngoài một căn nhà hai tầng xây bằng gạch sống. Ống bễ bên dưới đó lạnh lửa, và những móng đóng ngựa treo tòn ten trên những sợi xích.
Tay Hector đặt trên vai tôi siết chặt hơn khi nhòm dưới mái hiên. “Này, bác thợ rèn!” Anh gọi.
Cửa cót két mở. Một người đàn ông hói sọi đeo cái tạp dề da dính bồ hóng và cánh tay to như thân cây bước ra khỏi ngưỡng cửa. Mắt ông ta trợn tròn.
“Ông Rialto!” Người thợ rèn kêu lên, và sự vui mừng nghe có chút gượng ép. “Cái vạc của ông xong rồi đây. Tôi phải nói là nó đẹp lắm nhé. Thêm chút đồng dát bọc quanh, sẽ được giảm giá đấy. Vào đi nào!”
Tôi nhìn Hector hỏi ý, và anh gật đầu, gần như khó nhận thấy. Chúng tôi theo người thợ rèn vào trong.
Toàn bộ diện tích tường đều được trưng dụng để trưng bày các tác phẩm của ông ta – kiếm, vỉ lò, bẫy thú, thìa, giá nến, găng sắt. Nơi này có mùi nồng như mùi đồng nung quá lửa. Tiếng lửa cháy lách tách trong lò nung. Chỉ một người thợ rèn có thể đứng để duy trì lửa trong một ngày nóng nực như thế này. Chúng tôi vừa vào, ông ta đã đóng cửa và cài then.
“Đường này, thưa nữ hoàng,” ông ta nói và toàn bộ sự vui vẻ đã bay biến mất. “Nhanh lên.” Ông ta kéo góc một tấm thảm dày, để lộ ra cánh cửa sập. Lầu bầu một tiếng, ông ta lấy sức kéo cái vòng đồng. Cửa sập mở ra, cho thấy cái cầu thang gỗ cũ kỹ dẫn vào bóng tối.
“Chúng tôi cần đèn,” tôi bảo.
Ông ta cầm một cây nến và giá đồng trên cái bàn gần bên, với về lò để thắp bấc, rồi đưa cho tôi. “Cẩn thận đấy,” ông ta nói. “Đường hầm được gia cố bằng các thanh xà gỗ. Chúng rất cũ và khô lắm rồi.”
“Để tôi đi trước,” Hector nói và cầu thang kêu cọt kẹt dưới sức nặng của anh.
Tôi định đi theo, nhưng lại thôi. “Ximena, vú hãy cùng binh lính trở về cung điện qua lối cổng chính. Họ sẽ cho vú vào. Phải để người ta thấy chúng ta đã rời khỏi đây, phòng trường hợp có người thấy chúng ta đi vào.”
Bà nhíu mày. “Vị trí của vú là ở bên con.”
“Con sẽ an toàn khi có Hector.” Trước khi bà kịp phản đối, tôi đã quay sang hỏi người thợ rèn. “Ông tên gì vậy?”
“Mandrano ạ,” ông ta tự hào nói. “Nguyên là cận vệ của đức vua Nicolao, hiện đã về hưu.”
Tôi vỗ vai ông ta; nó cứng và tròn như đá tảng. “Cảm ơn ông, Mandrano. Hôm nay ông đã phụng sự cho nữ hoàng thật tốt.”
Ông ta cúi thấp đầu cảm ơn. Tôi không đợi để thấy ông ta đứng thẳng, và chẳng buồn để ý xem Ximena và nhóm binh lính có nghe lệnh tôi chăng. Tôi vội bước xuống theo Hector, cầm thấp cây nến soi đường.
Những ngón tay anh vươn ra khỏi vùng tối, đề nghị giúp đỡ, và tôi nắm lấy. Ngay khi chân tôi chạm xuống nền đất khô, cánh cửa sập đóng sầm lại, khiến nơi đây tối như hũ nút, chỉ trừ vùng sáng của ngọn nến.
Tôi tiến sát gần để nến có thể soi đường cho cả hai. Lửa hắt những cái bóng kỳ lạ lên da anh – làm nhòa vết sẹo trên má, khiến đôi mắt anh dịu đi, và các đường nét trở nên tròn trịa hơn – và tôi bỗng nhớ ra anh còn rất trẻ.
“Hector, ai ngoài tôi và anh có quyền ra lệnh khóa…”
“Bá tước Eduardo, tướng quân Luz-Manuel, và đại quản gia cung điện.” Nghe anh nhanh chóng nêu những cái tên, tôi nhận ra anh đã ngẫm nghĩ kỹ rồi.
“Anh nghĩ có ai cố tình nhốt chúng ta bên ngoài, đúng không?”
Ximena hẳn sẽ nói những lời vô nghĩa an ủi rằng chỉ có chuyện hiểu nhầm không may. Nhưng Hector không giả vờ. “Kể cả nếu cô an toàn trở về, chúng ta cũng phải tính toán cẩn thận,” anh bảo.
Tôi đưa nến cho anh, gật đầu đồng ý. Anh dẫn đường, và tôi đi sát để có thể nắm thắt lưng đeo kiếm của anh nếu cần thiết. Đường hầm quá chật chội khiến vai tôi chạm vào các xà gỗ chống trần. Tôi cố lắm mới không hắt hơi vì ngửi phải bụi bay lên.
Có gì đó chạy qua chân tôi, tỏa ánh sáng xanh như Thánh thạch, làm tôi kêu ré lên.
Hector quay lại, nhưng anh bảo, “Chỉ là bọ cạp hang thôi. Chúng phát sáng khi bị đe dọa. Gần như vô hại.”
Gần như vô hại chứ không phải vô hại, tôi mở miệng định cãi lại, nhưng quyết định nên tỏ ra kiên cường. “Nó làm tôi giật mình,” tôi bình tĩnh nói. “Anh đi tiếp đi.”
Anh quay gót đi tiếp, nhưng tôi đã kịp thấy môi anh cong lên vui vẻ. “Hãy mừng vì đó không phải bọ tử thần,” anh nói và gạt một cái mạng nhện dày sang bên.
“Hả?”
“Đấy là loại bọ cạp lớn hơn nhiều. Cực độc. Chúng sống ở vùng sa mạc mọc nhiều cây bụi quanh Basajuan. Tôi ngạc nhiên vì cô không thấy chúng khi lãnh đạo phiến quân đấy.”
“Giá mà tôi đã thấy bọ tử thần. Chúng sẽ là thứ vũ khí cực kỳ lợi hại.”
“Sao?” Anh dừng lại, và tôi suýt va vào anh.
“Một cậu nhóc trong làng có nuôi rắn độc. Tôi bảo cậu ấy đem chúng bỏ vào doanh trại Invierne. Cậu ấy không nán lại xem có ai chết không, nhưng báo cáo là nghe thấy nhiều tiếng la hét. Bọ cạp có khi còn hiệu quả hơn.”
Anh im lặng một lúc lâu làm tôi lo là đã khiến anh phật lòng. “Hector?”
“Cô luôn khiến tôi ngạc nhiên.” Và anh bước vào vùng tối.
Chúng tôi tới một cầu thang ọp ẹp, bậc cuối đã bị mọt ăn hỏng.
“Cầu thang này chạy qua khắp các bức tường cung điện,” Hector nói khẽ. “Chúng ta phải di chuyển thật êm.”
Anh đợi tôi gật đầu, rồi đi lên. Những bức tường đất được gia cố bằng xà gỗ chuyển thành tường đá trát vữa khi những bậc thang oằn đi và kêu cọt kẹt dưới chân chúng tôi. Tôi nhận thấy những dấu hiệu của cuộc sống – tiếng bước chân, tiếng nói cười vẳng lại không rõ ràng, tiếng nước giặt chảy trong các đường ống xuống hệ thống cống ngầm.
Cầu thang đột ngột dừng lại. Hector giơ nến, chiếu tỏ một bức tường nhẵn đến độ không thể là đá. Anh vuốt một ngón tay qua đó, để lại một vệt đen trên bề mặt bám bụi xám xịt. Có tiếng lách cách. Cửa êm ru trượt sang, cho thấy một không gian sáng hơn đôi chút.
“Phòng thay đồ,” anh thì thào, bước vào trong. “Đứng đây đợi tôi thám thính xem sao đã.”
Ánh sáng ùa vào đường hầm khi anh mở cánh cửa đôi, nhưng rồi đóng ngay lại, để lại mình tôi trong bóng tối mịt mùng. Tim tôi quặn lại khi cảm nhận không gian vắng lặng xung quanh. Quần áo của chồng tôi từng được treo ở đây. Tôi tự hỏi không biết hiện chúng đã lưu lạc phương nào?
Tôi đợi một lát, dỏng tai chờ đợi nghe thấy âm thanh của một cuộc hỗn chiến, ước gì Hector ít nhất cũng đưa tôi cây nến.
Rồi anh mở cửa, và tôi chớp mắt trước ánh sáng chói lóa. “Xong rồi,” anh bảo. Tôi nắm tay anh và bước vào phòng nhà vua.
Buồng ngủ của người chồng đã khuất núi của tôi rộng rãi và hào nhoáng, sàn lát cẩm thạch và đồ gỗ gụ bóng loáng. Những tấm thảm treo tường hình hai người đàn ông rủ xuống từ khung mạ vàng. Một chiếc giường lớn choán hết trung tâm căn phòng như một tòa tháp lùn, với tán che bằng lụa đỏ nhô lên ở giữa.
Tôi có thể ở đây nếu muốn – đây là quyền của tôi, vì là quân chủ. Nhưng tôi ghét căn phòng này. Nó lòe loẹt và nực cười. Và vì tôi chỉ từng ở đây để nắm tay một người đàn ông lâm trọng bệnh và để chàng dễ dàng rời bỏ thế giới, nên tôi thấy nó mang mùi chết chóc.
Ngay trước mắt là cánh cửa nhỏ hơn dẫn đến phòng riêng – và là tổ ấm của tôi. “Tôi kiểm tra rồi. Không có ai ở đó trừ Mara,” Hector nói khi thấy tôi mong ngóng nhìn nó. “Giờ cô đã an toàn.”
Chỉ là bây giờ thôi. Chúng ta phải thận trọng, anh đã nói vậy trong đường hầm. Tôi nắm chặt tay, chuẩn bị tinh thần, nhưng không biết để đón nhận điều gì. “Vậy chúng ta đi thôi.”
Chúng tôi trở về trước Ximena và nhóm Ngự lâm quân. Tôi đi đi lại lại trong buồng ngủ khi Hector đứng tại cửa, khoanh tay nghiêm mặt.
“Tôi phải làm gì đó,” tôi bảo. “Tôi không thể cứ đợi ở đây.”
Mara, tì nữ của tôi, ra hiệu cho tôi đi vào buồng trung ngập nắng. “Nhưng cô phải thay đầm đã,” cô vội vàng bảo. “Nó toàn đất bẩn kìa. Và tôi phải giặm lại phấn, chải lại tóc và… và…”
Sự tuyệt vọng lẩn khuất trong giọng cô khiến tôi nhìn cô thật kỹ. Cô cao gầy như cây cọ – mười bảy tuổi, bằng tuổi tôi. Cô không nhìn tôi khi nói thêm, “Và tôi vừa cọ bồn tắm xong! Cô muốn tắm không?”
“Để sau đi. Tôi phải tìm hiểu xem…” Lời phản đối của tôi chết ngay khi thấy đôi môi cô run run. Tôi sải bước tới và ôm chặt cô.
Cô hít một hơi vì ngạc nhiên, rồi cũng ôm tôi thật chặt.
“Tôi ổn mà, Mara,” tôi nói bên tóc cô. “Thật đấy.”
“Gã người thú ấy có thể đã giết chết cô,” cô thì thào.
“Nhưng nào có.”
Cô buông ra trước. Khi Mara đã đứng thẳng, đôi môi run run của cô mím lại kiên định.
“Hector,” tôi nói.
Anh thôi khoanh tay và quay qua, nhưng lo lắng nhìn tôi.
“Tôi không thể bỏ bao nhiêu con người ở ngoài kia. Họ sẽ trở thành một nhóm hỗn loạn hoảng hốt mất.”
Anh nhíu mày. “Cô muốn mở cổng.”
“Họ phải biết nữ hoàng sẽ bảo vệ họ, dù cho có chuyện gì đi chăng nữa.”
“Để thay đổi mệnh lệnh của một thành viên Ngũ Trưởng lão, cô phải đích thân ra lệnh.” Anh giơ tay ngăn tôi chạy ào ra cửa. “Nhưng cô phải có người tháp tùng đúng nghi thức. Chúng ta nên đợi vú Ximena và các binh lính khác đã.”
“Bây giờ có khi dân chúng đang làm loạn ngoài cổng lâu đài rồi.”
Anh ngẫm nghĩ một lát, rồi lưỡng lự gật đầu.
Tôi quay sang bảo Mara, “Cô giúp tôi xem hoàng tử Rosario ra sao nhé?” Cẩn thận còn là phải bảo vệ người nối ngôi tôi.
Cô nắm tay tôi và bóp chặt. “Được. Nhưng cô phải cẩn thận đấy.” Cô không buông ra tới khi tôi đáp lại.
Hector và tôi vội ra hành lang và ngay lập tức dừng bước. Binh lính ùa ra từ một hành lang gần đó và chạy qua mặt chúng tôi, tạo thành một dàn hòa âm tiếng áo giáp xủng xoảng và tiếng da thuộc sột soạt. Họ mặc áo choàng giản dị của binh lính cung điện – người của tướng quân Luz-Manuel. “Hector? Sao…”
“Tôi không biết.” Nhưng anh rút kiếm.
Một nhóm khác từ sau chạy lại, và chúng tôi bước sang bên cho họ đi qua. Họ chạy vội vã đến nỗi không để thấy ý nữ hoàng đang đăm đăm nhìn.
Người lính cuối hàng trẻ hơn một chút, thấp hơn những người khác một chút. Tôi tóm cổ áo và kéo cậu ta lại. Cậu ta vung kiếm tự vệ, nhưng Hector đã kịp thời chặn lại. Tai tôi ù lên vì tiếng thép va chạm, nhưng không nhăn mày.
Gương mặt người lính trắng bệch khi nhận ra tôi. “Nữ hoàng! Tôi vô cùng xin lỗi. Tôi không thấy…” Cậu quỳ sụp xuống và cúi đầu. Hector không hạ kiếm.
“Các ngươi đi đâu?” Tôi hỏi.
“Đến cổng chính, thưa nữ hoàng.”
“Vì sao?”
“Chúng ta bị bao vây.”
Hector và tôi giật mình nhìn nhau. Hẳn là quân Invierne. Sao chúng có thể lẳng lặn lẻn vào thành phố được? Sao một lực lượng đông như thế…
“Dân chúng Brisadulce đang nổi loạn,” người lính nói thêm.
Ôi Chúa ơi. “Ý ngươi là chúng ta bảo vệ lâu đài khỏi chính thần dân của ta? Hãy cho ta biết ai ra lệnh phong tỏa lâu đài.”
Cậu ta ngẫm nghĩ một lát. “Là… là bá tước Eduardo ạ.”
“Bằng thư có dấu triện hay đích thân ra lệnh?” Hector hỏi, và tôi mất một lúc mới hiểu: nếu là thư có dấu triện, thì bằng chứng có lẽ vẫn còn.
“Quân sư Franco của ngài ấy truyền lệnh ạ.”
Franco. Tôi luôn cố gắng ghi nhớ tên và chức vụ của từng người trong triều đình, nhưng không nhớ ra cái tên này.
“Ngươi hãy đưa ta tới cổng cung điện,” tôi nói với cậu lính khi được Hector gật đầu đồng tình. “Nhanh lên.” Tôi ra hiệu cho cậu ta dẫn đường, vui mừng vì có Hector đằng sau, và nhấc váy rảo bước đi.
Khoảnh sân bụi bặm nhung nhúc lính lâu đài – cung thủ dọc tường cung điện, bộ binh hạng nhẹ xếp thành hàng, mười người đang diễu binh từ cổng lại. Binh sĩ cầm giáo đứng ngay cổng lưới sắt, dùng giáo đâm vào những bàn tay đang níu thanh sắt, quát tháo đe nẹt người ở phía bên kia. Nghe âm thanh huyên náo, tôi đoán rằng đám đông đã đông lên ít nhất gấp ba.
“Cảm ơn ngươi,” tôi bảo người lính trẻ. “Ngươi có thể trở về đội.” Cậu ta cúi chào và chạy đi.
Hector chỉ bức tường trên cổng, về một khoảng giữa hai lỗ châu mai. “Đó là bá tước Eduardo.”
Quả vậy, một người đang đứng thẳng lưng, tay chống hông, quan sát đám đông bên dưới.
“Đi nào.”
Hector lớn giọng, “Tránh đường cho nữ hoàng!”
Binh lính vội nhường đường cho chúng tôi rảo bước đi tới, lên cầu thang, bước từng hai bậc lên đầu tường bao.
Đôi mắt bá tước hơi trợn lên khi thấy tôi, nhưng ông ta nhanh chóng tỏ vẻ điềm tĩnh. Ông ta khá ưa nhìn với đôi vai rộng, đôi mắt sắc, bộ râu đen tỉa sát đang chuyển sang muối tiêu ở hai bên thái dương. “Nữ hoàng không nên đến đây,” ông ta bảo. “Vậy không an toàn.”
“Ông ra lệnh phong tỏa lâu đài?” Tôi hỏi, hụt hơi vì phải leo nhanh.
“Không, là đại quản gia.”
Tôi chằm chằm nhìn bá tước, cố tìm ra dấu vết của sự xảo trá hay lo lắng, nhưng ông ta vẫn điềm tĩnh siêu phàm như thường lệ.
“Ta muốn mở cổng,” tôi bảo.
“Tôi không nghĩ đó là...”
“Họ là thần dân của ta. Chứ không phải kẻ địch.”
“Họ đang hoảng loạn. Con người vào lúc hoảng loạn có thể gây ra những chuyện kinh khủng.”
“Như hạ cổng chặn lối vào của những người chúng ta phải bảo vệ chăng?”
Ông ta phình lỗ mũi khi hít một hơi sâu, đoạn cúi xuống, mắt nheo lại, và tôi phải cố lắm mới không thối lui. Đừng nao núng, Elisa. Bên dưới, đám đông hỗn loạn đã im lặng. Họ chắc chắn đã trông thấy tôi. Họ đang chờ đợi hành động của tôi.
Cuối cùng, bá tước đứng thẳng. “Như ý muốn của nữ hoàng,” ông ta bảo.
Tôi hất hàm để ra lệnh cho toàn bộ đám đông. “Thần dân Brisadulce luôn được chào đón. Kéo cổng lên!”
Tiếng hò reo vang khắp chốn. Tiếng bánh răng kêu ken két khi cổng dần được kéo lên. Binh sĩ tránh đường cho người dân thành phố tràn vào sân. Sự hoảng loạn ban đầu nhanh chóng biến mất, và một lát sau, mọi người hối hả nối đuôi nhau vào. Vai tôi chùng xuống vì nhẹ nhõm. Tới lúc này, tôi chỉ mới khá chắc về quyết định của mình.
Nếu bá tước có phản ứng gì với đám đông trật tự kia, ông ta cũng không biểu lộ. “Với bao nhiêu sự kiện xảy ra trong ngày hôm nay, chúng ta cần phải thảo luận nhiều,” ông bảo.
“Quả vậy,” tôi đáp lại, cũng điềm tĩnh chẳng kém. “Ta sẽ triệu tập cuộc họp Ngũ Trưởng lão khẩn cấp.”
Ông ta cúi rạp thắt lưng, rồi quay gót và sải bước đi mất.
Tôi nhìn theo, tự hỏi về vẻ thay đổi thoáng qua khi mới thấy tôi, sự lưỡng lự không muốn nghe lệnh tôi của người đàn ông này. Sau đó tôi quay lưng với ông ta và đám đông tề tựu trong sân, để nhìn toàn cảnh thành phố. Tôi cần cảm nhận không gian khoáng đạt, không khí thanh sạch hơn.
Tôi biết Hector đang đứng bên cạnh. Anh chống khuỷu tay vào tường thành nên vai hai chúng tôi gần chạm nhau, và anh bảo, “Đây là cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của cô trong vai trò quân chủ toàn quyền. Cô đã xử lý tốt.”
“Cảm ơn anh.” Nhưng tôi lo âu bấu chặt gờ tường. Tôi đưa mắt trông khắp những mái bằng của Brisadulce. Chúng ôm ấp cái sườn đồi thoai thoải như những bậc thang khổng lồ bằng gạch sống, xanh tốt nhờ đám cây cảnh và dây leo. Xa hơn, đại dương tạo thành một đường chân trời trải dài và uốn khúc, như thể có ai bôi màu chàm vào nơi cuối trời. “Hector, anh biết khi mây vần vũ kéo qua bầu trời, mọi người sẽ dõi mắt nhìn ra bến tàu xem nước có dâng ngập đường phố không? Để xem cơn dông sắp tới liệu có phải bão lớn?”
“Có.”
“Tôi sợ tình hình sẽ theo chiều hướng đó. Đây chỉ là điềm báo trước mà thôi.”