Tôi ghét những buổi họp Ngũ Trưởng lão.
Đúng là phải triệu tập một cuộc họp; chúng tôi phải giải quyết dứt điểm vấn đề này. Nhưng tướng quân và bá tước đã nắm quyền hành suốt mấy chục năm ròng. Tôi chỉ vừa lên ngôi – một nữ hoàng mới mười bảy tuổi, đăng cơ nhờ một chiếu chỉ, chứ chẳng phải người đường đường chính chính có quyền kế vị. Nhiều lúc họ bàn luận như thể tôi không tồn tại. Ngày khác, tôi có cảm giác mình giống một con bọ cát phiền phức sắp bị đập chết.
Tôi là người đến muộn nhất. Các tì nữ và binh lính tùy tùng dừng lại tại cửa, vì chỉ các thành viên Ngũ Trưởng lão mới được phép bước vào trong. Mara gượng cười khích lệ khi tôi đóng cánh cửa lớn và cài then, nhốt chúng tôi ở bên trong.
Sảnh họp Ngũ Trưởng lão có trần thấp và không cửa sổ, như một hầm mộ. Nến chập chờn cháy trên những cái giá đặt tại những tấm thạch cao bám bụi nằm giữa các phiến đá xám. Chiếc bàn gỗ sồi to bè choán hết không gian giữa phòng, với xung quanh là những tấm nệm đỏ. Bầu không khí nặng nề vì sự im lặng như tờ, và tôi có cảm giác bóng ma của những quyết định lớn lao cùng những mật hội đè xuống, bắt tôi phải im miệng.
Hector đã ngồi trên nệm, trông nghiêm nghị. Chúng tôi luôn đến riêng rẽ, vì chẳng ra sao khi huênh hoang về mối quan hệ thân tình giữa hai người. Anh gật đầu ra ý chào, không cho thấy rằng giữa chúng tôi có chút thân thiết nào.
Tướng quân Luz-Manuel, thống lĩnh quân đội, đứng lên chào tôi, nhưng nụ cười của ông ta không hề chạm tới đôi mắt. Ông ta nhỏ thó, cúm rúm, lại chẳng bệ vệ lắm, làm đôi khi tôi thắc mắc không hiểu sao ông ta có thể leo lên vị trí thống lĩnh ba quân như hôm nay. Chính vì thắc mắc ấy mà tôi biết không nên đánh giá thấp người đàn ông này.
“Nữ hoàng thật sáng suốt khi quyết định triệu tập cuộc họp này,” ông ta cất tiếng.
Ngồi cạnh ông ta là phu nhân Jada, tay đan lại đặt trong lòng và cười vui vẻ. “Ôi, thưa nữ hoàng, tôi rất mừng vì một lần nữa được tướng quân mời tới!”
Tôi chớp mắt, ngạc nhiên vì cô ta dường như chẳng hề ý thức được tầm quan trọng của thời khắc này. Jada là vợ thị trưởng Brisadulce và là thành viên tạm thời của Hội đồng Ngũ Trưởng lão. Chúng tôi đã mất một thành viên sau khi tôi trao quyền tự trị của lãnh địa miền đông, nhưng chúng tôi không dám để cuộc họp ít hơn năm người, con số thần thánh tượng trưng cho sự hoàn hảo. Phu nhân Jada không cáo già cũng chẳng thú vị, vì thế là sự lựa chọn an toàn cho đến khi chúng tôi chính thức chọn được người mới.
“Ta rất mừng vì phu nhân đồng ý tham dự,” tôi chân thành nói.
Bá tước Eduardo cúi đầu chào, rồi bắt đầu buổi họp bằng cách trích lời Chúa trong Thánh kinh: “Ở nơi nào có năm người tập hợp, thì ta ở giữa họ.”
Tôi ngồi xuống tấm nệm ở đầu bàn.
Bá tước tiếp tục, giọng nghiêm trang. “Tôi cực kỳ quan ngại khi một người thú có thể qua mắt tất cả để lẻn vào thành phố của chúng ta, đấy là chưa kể hắn còn leo lên đỉnh đại hý trường. Và hắn yêu cầu chúng ta giao nữ hoàng cho Invierne…”
“Đó là một lời đe dọa vô nghĩa,” Hector nói. “Chúng đã thua tan tác. Ngày hôm đó nữ hoàng đã tiêu diệt chín pháp sư địch.”
“Nhưng còn sót lại một kẻ,” tướng quân Luz-Manuel cất lời. “Và ai biết còn bao nhiêu kẻ khác lẻn vào thành phố này? Còn bao nhiêu tên đang nhởn nhơ trên vùng đồi núi Invierne? Gã người thú kia đã tuyên bố rằng người thú đông hơn cát trên sa mạc. Liệu chúng có còn đem một đội quân khác, đông đảo hơn đến tấn công ta? Nếu vậy chúng ta chẳng có nổi một phần thắng.”
Hector nhíu mày. “Ông không thực lòng cho rằng chúng ta nên làm theo yêu sách của chúng chứ?”
Tôi nhúc nhích người trên nệm, sợ câu trả lời của tướng quân.
Sau một hồi đắn đo, tướng quân nói, “Dĩ nhiên là không.”
“Chúng ta nên thử một chiến thuật ngoại giao nào đó,” Eduardo bảo. “Điểm yếu nhất của chúng ta từ xưa tới nay là ta biết quá ít về chúng. Và tôi chắc nữ hoàng của chúng ta có thể lừa phỉnh chúng…”
“Sứ giả của chúng chưa bao giờ sẵn lòng giúp đỡ.” Tôi xen ngang, chủ yếu vì chán bị người ta bàn qua tán lại như thể mình không hề có mặt. “Khi không thể gửi một sứ đoàn tới Invierne, ta không rõ chúng ta làm cách nào để có được thông tin mình cần. Chúng cũng chưa từng đáp lại lời mời tới thăm vương quốc của phụ vương ta.”
“Tình hình ở đây cũng vậy,” Hector nói. “Đức vua Alejandro gửi lời mời vài lần, nhưng đều bị khước từ.”
Tôi biết chị mình, công chúa Alodia, sẽ đưa ra quyết sách gì. “Chúng ta cần gián điệp,” tôi nói.
Tướng quân Luz-Manuel lắc đầu. “Chúng ta không thể đưa gián điệp tới nơi xa xôi như vậy. Ngân sách không đủ. Và chúng ta chẳng có cách liên lạc với họ. Khoảng cách từ đây đến đó quá xa, ngay cả bồ câu cũng chẳng bay nổi.”
Vẻ vô phương vô sách trên gương mặt tất cả khiến căn phòng còn ngột ngạt, nóng bức hơn. Tôi ước gì mình mang quạt theo.
“Chúng ta còn một vấn đề cấp bách hơn,” bá tước Eduardo nói. “Năm tháng sau trận Brisadulce, vương quốc của chúng ta cuối cùng cũng bắt đầu hồi phục. Nhưng sự cố vừa rồi là một cú đánh nặng nề. Trong lúc hỗn loạn, đã có vài người thiệt mạng.”
Tim tôi như rơi xuống bụng. Tôi nhớ sự hoảng loạn, đám đông, chuyến xe tháo chạy trở về. Tôi không hề nhận ra quanh mình có người chết. Có lẽ đó là kế hoạch từ đầu của Invierne, khiến chúng tôi sợ đến nỗi nồi da nấu thịt.
Bá tước Eduardo nói thêm, “Một vài kẻ nổi loạn có lẽ còn muốn lấy đầu nữ hoàng.”
“Đừng hòng!” Phu nhân Jada phản đối.
Bá tước nhún vai. “Nếu họ tin rằng giao nữ hoàng cho Invierne sẽ cứu được anh em, vợ con họ, họ sẽ làm. Mọi người đã thấy sáng nay họ suýt xô đổ cả lâu đài thế nào rồi đấy.”
Đó cũng chính là những con người đã hò reo chào đón tôi trong lễ diễu hành, đã hô vang tên tôi và tôn vinh tôi như một người hùng. Ximena đã đúng.
Phu nhân Jada quay nhìn tôi. “Ngài không thể” – cô ta đưa tay phác ra một cử chỉ mơ hồ – “làm gì đó với Thánh thạch à? Đánh bại chúng như lần trước?”
Tôi hơi nghiêng người trên nệm. “Giá như ta có thể, phu nhân ạ. Hồi đó ta có một mặt dây chuyền, và vài viên Thánh thạch từ những người đi trước. Và giờ ta chỉ có một viên duy nhất, của chính mình. Cha Nicandro và ta đang cùng nhau tìm hiểu cách sử dụng quyền năng của nó.” Tôi quyết định không hé răng ra chuyện ngoài việc khiến viên đá tỏa sáng ấm áp, tôi vẫn chưa làm được gì hơn.
Tướng quân Luz-Manuel nhoài tới, mắt lấp lánh. “Tôi có ý này.” Ông ta là một chính trị gia tuyệt vời, và ông ta im lặng một lúc vừa đủ trước khi nói tiếp, “Thưa nữ hoàng, chúng ta phải thảo luận chuyện nhiếp chính của ngài.”
Tôi lau bàn tay đột ngột đổ mồ hôi vào đầu gối. “Ta không phải nữ hoàng nhiếp chính,” tôi nói, giả bộ hiểu nhầm. “Ta hoàn toàn có quyền lựa chọn có trao ngai vàng cho hoàng tử Rosario hay không khi hoàng tử đến tuổi trưởng thành. Đức vua quá cố đã ra chiếu chỉ công bố ta là người kế vị và là nữ hoàng nắm quyền cai trị toàn vương quốc.” Tôi tự hào vì giọng nói vững vàng của mình.
“Lúc đó nhà vua đã sắp băng hà và đang trong cơn đau đớn tột độ, có lẽ ngài không tỉnh táo. Nữ hoàng còn quá trẻ, chưa đến tuổi trưởng thành. Và lại là người ngoại quốc. Rất nhiều người cho rằng nữ hoàng không có quyền trị vì. Lại thêm sự kiện kinh hoàng hôm nay, có lẽ nữ hoàng nên cân nhắc rằng chính mình cần có nhiếp chính. Đó cũng là một cách để trấn an thần dân.”
Tôi cố không trợn mắt nhìn ông ta. “Ta đã chiến đấu vì vương quốc này không khác gì một người con ruột của nơi này!”
Ông ta nghiêm nghị gục gặc. “Ngài đã làm một việc quan trọng góp phần vào nỗ lực của cả tập thể.” Tôi siết chặt nắm đấm khi nghe sự hợm hĩnh trong giọng ông ta. “Nhưng ngài sẽ phải đưa ra những quyết định khó khăn, như tăng thuế nhằm có ngân sách tái thiết đất nước. Ngài sẽ thấy rằng một khi con người ta phải thắt lưng buộc bụng, người ta sẽ chẳng còn coi công lao của nữ hoàng ra gì. Họ sẽ trách cứ ngài, thưa nữ hoàng, và ngài sẽ cô độc. Họ sẽ đòi chúng tôi giao ngài cho quân địch.”
Tôi biết Ngũ Trưởng lão chẳng hề tôn trọng tôi, và tôi mặc kệ. Nhưng lời ông ta đã đánh tôi một đòn đau điếng vì tôi biết ông ta nói đúng. Tôi vẫn là một đứa trẻ, chưa trải đời. Dẫn dắt một nhóm phiến quân nho nhỏ nơi sa mạc, dùng Thánh thạch đánh bại lũ người thú Invierne – rõ ràng đó là những việc làm ấn tượng. Nhưng chúng chẳng hề giống việc trị vì.
Phu nhân Jada hết nhìn tướng quân lại nhìn tôi, đôi mắt hăm hở và mở lớn. Cô ta ưa buôn chuyện, và tôi tự hỏi có phải tướng quân Luz-Manuel mời cô ta chủ yếu vì hi vọng người phụ nữ này sẽ loan tin tôi cần nhiếp chính ra không. Hoặc lý do tôi nên có nhiếp chính – là vì tôi không thể tự trị vì.
Bá tước Eduardo nhìn xa xăm, xoa bộ râu cạo sát. Cuối cùng ông ta cất tiếng, “Còn một cách khác.” Ông ta chống khuỷu tay lên bàn và lần lượt nhìn từng thành viên Ngũ Trưởng lão, rồi cuối cùng nhìn tôi. “Nữ hoàng thân mến, đã đến lúc ngài nên chọn cho mình một đức lang quân rồi.”
À, ra là vậy. Bàn chuyện nhiếp chính chỉ là cái cớ đơn giản để đưa đẩy hôn nhân thành một lựa chọn thay thế dễ chấp nhận hơn. Có lẽ họ đã bàn trước rồi.
“À, đúng!” Jada nói. “Một người có tiếng nói được tôn trọng. Toàn thể dân chúng sẽ chấp nhận nữ hoàng trị vì với một hoàng tế có tài, kể cả sau những sự kiện hôm nay.”
Hector nhẹ nhàng nói. “Nhà vua qua đời mới có năm tháng.”
“Nữ hoàng đã hết thời gian để tang chồng,” bá tước Eduardo nhún vai nói. Ông ta quay sang tôi. “Tôi không định nói xấu người đã khuất, nhưng đức vua Alejandro và Nicolao không phải minh vương. Vương quốc chúng ta đã chia năm xẻ bảy kể từ trước cuộc chiến. Nữ hoàng, tôi xin ngài hãy đặt thần dân lên trên hết. Xin hãy chọn một nhiếp chính hoặc một người chồng tài giỏi, và đem đến sự ổn định vô cùng cần thiết cho quốc gia này.”
“Ngài sẽ được lợi thế chính trị lớn nhất nếu chọn người từ các lãnh địa miền Bắc,” tướng quân nói thêm. “Miền Bắc chịu nhiều tổn thất nhất từ cuộc chiến.”
“Tôi sẽ lên danh sách những ứng cử viên thích hợp,” phu nhân Jada nói. “Chúng ta sẽ xem xét trong cuộc họp tới. Huân tước Liano xứ Altapalma này, và tất nhiên cả bá tước Tristán xứ Selvarica nữa. Người này xuất thân từ miền Nam nhưng không thể không tính đến. Ngoài ra còn…”
Tôi không tập trung nổi trong khi Jada huyên thuyên về những nhân vật đình đám khắp vương quốc. Tôi đã biết mình sẽ phải kết hôn vì Joya d’Arena. Nhưng bây giờ, khi đối mặt với hiện thực đó, tôi lại không muốn. Tôi muốn lại được yêu ai đó, như đã yêu Humberto, hoặc ít nhất là làm bạn với người ấy, như tôi và Alejandro trong những phút giây cuối đời chàng.
Và tôi muốn làm nữ hoàng của đất nước tuyệt vời này, không phải vì có người giúp đỡ mình, mà là vì tôi có thể. Tôi. Elisa.
Nhưng tôi đồng ý xem xét danh sách của Jada trong buổi họp lần sau, vì tôi không biết phải làm hay nói gì khác. Dù gì, nó cũng cho tôi thời gian cân nhắc các quyết định của mình.
Cuộc thảo luận chuyển sang việc tái thiết vương quốc. Toàn bộ những ngôi làng dọc tuyến đường giao thương qua sa mạc vẫn còn là đống phế tích ngổn ngang sau cuộc tiến quân của địch. Cái giá để dọn dẹp và xây dựng lại là quá lớn. Con đường huyết mạch đi qua Puerto Verdo gần như đã hỏng hẳn sau vài năm gánh chịu thời tiết xấu bất thường. Các phường thuộc da và dệt vải sắp tan tác vì thiếu nguồn da và lông cừu, khi vương quốc tự trị Basajuan không còn phải cống nạp cừu cho kinh thành.
Vương quốc đang lâm vào cảnh rối ren. Dù thắng trận, nhưng ngân sách của chúng tôi đã cạn, quân đội suy yếu, người dân mất tinh thần. Cuộc diễu hành nhân ngày sinh nhật hôm nay đáng ra sẽ nhóm lên tia hy vọng, cho thấy sự bình yên an toàn đang dần trở lại.
Cái vương miện lố bịch càng thêm nặng trình trịch khi tôi ngẫm nghĩ về bao nhiêu quân vương trước tôi đã ngồi trong chính căn phòng này, cũng bên chính cái bàn này. Có ai phải giải quyết vấn đề rối ren lớn nhường này chăng? Có ai trong số đó chưa trưởng thành, như tôi đây không?
Tôi không thể che giấu sự nhẹ nhõm khi buổi họp kết thúc. Tôi đứng dậy cảm ơn tất cả đã có mặt, rồi Hector rút then và mở cửa. Tôi tắm mình trong làn không khí tươi mới hơn tràn tới.
Tôi vừa ra, người hầu đã xúm lại. Tôi giật vương miện và quẳng cho Ximena. Mara chặm mồ hôi trên trán và giũ váy cho tôi.
Tôi bảo, “Tôi muốn đi dạo.” Chủ yếu, tôi muốn suy nghĩ, tránh những ánh mắt theo dõi và những vấn đề quan trọng.
Họ tránh đường, và Hector bước tới hộ tống tôi.
Tôi lắc đầu. “Tôi muốn đi một mình.”
“Theo tôi thì đừng.”
“Chỉ vài phút thôi.” Tôi trấn an. “Tôi sẽ tới hầm mộ cầu nguyện. Tôi chỉ đi dạo ở nơi có lính gác tuần tra canh gác. Hãy tìm tôi nếu tôi không về phòng lúc nhà nguyện đổ chuông.”
Anh đưa tay ra như định giữ tay tôi, nhưng lại đổi ý và buông tay xuống. “Hãy cẩn trọng, nữ hoàng.”
Tôi cười trấn an rồi đi mất.
Đá cuội dưới chân tôi đã mòn nhẵn, vì Brisadulce được dựng lên đã gần hai nghìn năm, sau khi Chúa đưa tổ tiên của chúng tôi thoát khỏi thế giới đang chết dần chết mòn bằng bàn tay phải quyền năng của Ngài, và đưa họ tới nơi này an cư lập nghiệp.
Vừa đi, tôi vừa vuốt một ngón tay dọc theo bức tường đá nhám, thấy dễ chịu nhờ cảm nhận được sự đặc cứng của chúng. Tôi hình dung cung điện và kinh đô cổ xưa, trải rộng trên cao nguyên đá vôi, với ba bề là đại dương và phía còn lại là sa mạc. Ngôi nhà mới của tôi là một nơi rõ ràng, không đổi dù cho bị những trận bão cát chết người, bão nổi suốt một mùa trong năm quần thảo.
Nhưng điểm yếu cũng là điểm mạnh của thành phố. Gia sư của tôi từng kể rằng ngày xưa, trước khi con người tới định cư, sa mạc mênh mông của chúng tôi từng là biển nội địa. Đại hồng thủy xảy ra đã khiến toàn bộ nước ngấm hết xuống lòng đất. Giờ nó chảy ra đại dương qua những hang động dưới chân tôi, cung cấp nguồn nước ngọt dồi dào cho ốc đảo xinh đẹp chính là kinh đô này.
Hầm mộ, được xây để tận dụng các hang động thủy tạo tự nhiên, là nơi tôi thích lui tới khi muốn được một mình.
Lính gác cửa không ngạc nhiên khi thấy tôi. Anh ta cúi chào và mỉm cười. “Tôi rất mừng được thấy nữ hoàng an toàn trở về,” anh ta bảo. ”Tôi đã nghe về chuyện hôm nay.”
“Cảm ơn cậu, Martín.” Nhưng tôi không muốn nói chuyện ấy. “Vợ của cậu thế nào rồi?”
Anh ta là một trong những Ngự lâm quân trẻ nhất, và thật khó tin khi một người chẳng lớn hơn tôi bao nhiêu đã kết hôn và có một đứa con. “Cô ấy mang bầu được chín tháng rồi. Và quỷ tha ma bắt cái nắng nóng sa mạc suốt ngày suốt tháng đi.” Anh ta lấy ngọn đuốc trên giá và đưa cho tôi. Martín cười ngại ngùng. “Nếu là con gái, cô ấy muốn đặt tên con là Elisa.”
Tôi suýt đánh rơi đuốc. “Ồ. À… ờ, tất nhiên ta rất lấy làm vinh dự. Mà này, khi nào đứa bé chào đời, anh nhớ mang cháu đến gặp ta nhé.”
Anh ta vỗ nắm đấm vào ngực – đó là một lời thề chân thành. “Tôi thề, thưa nữ hoàng.”
Là nữ hoàng cũng có cái lạ, là mọi người đều coi lời tôi nói là quan trọng. Tôi có chút hơi khó chịu khi giơ cao đuốc và bước xuống những bậc thang chật hẹp, lành lạnh. Gấu váy lê trên bậc thang phía sau, nhưng tôi mặc kệ. Tôi vừa đi vừa cầu nguyện, xin Chúa phù hộ cho đứa bé có lẽ sẽ được đặt tên là Elisa của Martín, rằng con bé sẽ lớn lên cuốn hút, mảnh mai và xinh đẹp.
Quầng sáng đỏ cam soi rọi đoạn đường trước mắt. Tôi cúi đầu đi qua một vòm cửa thấp và bước vào Sảnh Xương Sọ rộng thênh thang.
Đây là một đại thánh đường bằng xương. Lớp lang xương sọ giống như gạch, cao tới tận mái vòm khuất trong bóng tối. Một hàng những cái đầu lâu lớn hơn thò ra ở chính giữa bức tường, hàm há ngoác ra để làm giá để nến cúng. Những chiếc xương sườn cong cong tạo thành những cổng vào tối tăm cách nhau từng quãng đều đặn.
Tôi sợ cái chết. Khi nhắm mắt, tôi thấy máu thấm xuống cát, thịt da chảy ra như sáp nến dưới ngọn lửa của người thú, những vết thương hoại tử, những đôi mắt vô hồn. Nhưng những cái xương sọ đẹp đẽ này đã thoát khỏi lớp da thịt thối rữa, được bảo quản và đang mỉm cười. Tôi yêu sự nhắc nhở rằng cái chết là nền móng quan trọng cho thành phố vĩ đại của tôi, rằng người chết sẽ để lại gì đó trên đời mãi mãi.
Tôi đi qua vòm cửa thứ ba bên phải và vào lăng mộ của đức vua Alejandro de Vega. Nơi đây vẫn thoang thoảng mùi hoa hồng và trầm hương. Tôi đặt đuốc vào giá đồng và đợi tới khi mắt thích ứng với ánh sáng tù mù. Xa xa vẳng lại tiếng dòng sông ngầm vỗ nước vào hang động. Dòng sông khá gần, làm khuấy động bầu không khí ẩm ướt, và khiến ánh đuốc lay động.
Năm cỗ quan tài đá nằm trên mấy cái bệ lớn, nhưng ánh đuốc chỉ chiếu tỏ được ba cỗ gần nhất. Một chứa thi hài cha Alejandro. Trong chiếc thứ hai là người vợ đầu của chồng tôi, đã chết sau khi sinh hạ hoàng tử nhỏ Rosario.
Còn cỗ thứ ba là nơi chồng tôi an nghỉ.
Một lá cờ lụa phủ lên quan tài, và tôi vuốt lớp vải trơn bóng bằng ngón trỏ. Những lá cờ cũng phủ trên những chiếc quan tài khác, nhưng đã rách nát theo thời gian, hoặc có thể vì cái ẩm ướt làm mũi tôi ngứa ngáy.
“Chào chàng, Alejandro.” Tiếng thì thầm của tôi vang vọng.
Nói chuyện với người chết thật là hành động ngu ngốc. Người đã bước qua bên kia ranh giới để tới kiếp sau liệu có nhìn được hay nghe thấy tiếng của người kiếp này? Scriptura Sancta không nói rõ về điểm này. Nhưng tôi vẫn trò chuyện với chàng, vì tìm niềm an ủi ở một hành động ngốc nghếch cũng đáng.
“Hôm nay em đã chính mắt trông thấy một kẻ tự hóa mình thành đuốc sống. Em nghĩ đến chàng, lúc chúng thiêu chàng.” Tôi áp lòng bàn tay lên quan tài, và trong một khoảnh khắc điên rồ, tôi tưởng tượng thấy trái tim Alejandro đang đập dưới phiến đá. Tôi rụt tay lại.
“Ngũ Trưởng lão muốn em tái giá, và em nghĩ mình nên nghe theo. Cuộc hôn nhân của chúng ta chỉ là trò đùa, em biết. Nhưng cuối cùng chúng ta cũng bắt đầu là bạn. Chàng còn nói nếu có thời gian, chúng ta có thể sẽ yêu nhau. Hay những lời đó chỉ là sự tử tế cuối cùng chàng dành cho em?”
Hôm nay tôi đã suýt chết; tôi đón nhận nó, để sự thật đó thấm vào mình. Tay người thú có thể phóng lửa vào tôi. Đáng ra tôi đã chết yểu, như hầu hết những người mang Thánh thạch trước.
Và một khi ý nghĩ đó thấm vào xương tủy, tôi đột nhiên háo hức được nói với Alejandro điều tôi sẽ không thể nói nếu chàng còn sống.
“Chàng là người tốt nhưng là một vị vua tồi. Nhu nhược, đớn hèn, thiếu sáng suốt.” Tôi nuốt xuống cái cảm giác nhớ nhung chàng vẫn thật xa lạ với mình. “À, nhưng giờ em tự hỏi có phải em đã đánh giá chàng quá khắc nghiệt hay không. Em phải nói với chàng, vì em phải nói với ai đó, rằng em… lo lắng lắm. Về việc làm nữ hoàng ấy. Em không chắc đến giờ mình có làm tốt hay chăng. Ximena bảo em là quân vương duy nhất trong lịch sử đồng thời là người mang Thánh thạch. Nhưng em chỉ mới mười sá… mười bảy tuổi. Nếu như em còn tệ hơn chàng thì sao? Có lẽ…”
Thánh thạch lạnh băng. Tôi thở hổn hển khi cảm giác lạnh cóng len lỏi vào huyết quản, khiến ngón tay, ngón chân tôi tê bì. Tôi quay người, tìm kiếm nguồn cơn của nguy hiểm.
Gió thổi ù ù trong lăng mộ. Ngọn đuốc hấp háy rồi tắt hẳn, để lại tôi trong bóng tối.
Theo bản năng, tôi thành tâm liến thoắng cầu nguyện, xin Chúa hãy bảo vệ tôi khỏi bất cứ điều gì phía trước. Thánh thạch đáp lại bằng cảm giác ấm nóng dễ chịu lan khắp bụng, nhưng cũng chỉ đủ để giúp tôi thở dễ dàng hơn, để tôi có thời gian suy nghĩ.
Tôi định la hét gọi người tới giúp. Nhưng như vậy sẽ khiến kẻ thù đang ẩn náu biết chính xác vị trí của tôi.
Tôi cần vũ khí. Tôi hoảng hốt tìm một thứ gì đó, bất cứ thứ gì. Một lá cờ lụa bay phất phơ trong gió. Tôi nắm núm tua và giật nó khỏi quan tài. Bụi bay vẩn lên, và tôi chỉ muốn ho hắng. Lá cờ khá dài, gần gấp đôi người tôi. Những lời cầu nguyện truyền hơi ấm tới tứ chi, trong lúc ấy tôi gấp cờ làm đôi, rồi làm bốn.
Tôi không biết phải làm gì với nó. Mạo hiểm rời hầm mộ chỉ với một lá cờ lụa phòng thân là ý tưởng quá ư nực cười. Và trong thời gian sống ở sa mạc, tôi đã biết là chiến đấu khi chỉ có thể chạy trốn là ngu ngốc.
Hai cỗ quan tài trống không, đợi chủ nhân sẽ yên nghỉ giấc nghìn thu của chúng. Tôi đột nhiên muốn bò vào trong một chiếc, khoanh tay trước ngực và nhắm mắt rời xa thế giới này. Nhưng không, tôi lom khom trốn ra sau chiếc gần nhất và ngồi thụp xuống để kẻ ở cửa không trông thấy mình. Tôi cần trốn tới khi Hector đến tìm tôi.
Gì đó di chuyển trong bóng tối.
Bụng tôi như rớt xuống tận chân. Có người ở đây, trong lăng mộ này, ngay từ đầu.
Tôi định chạy, nhưng người quá lạnh, bước chân quá chậm chạp.
Ánh sáng lóe lên trên lưỡi thép. Tôi giơ lá cờ che ánh sáng khó chịu.
Gì đó chém rách tấm lụa, vào cẳng tay tôi. Cảm giác đau buốt lên tận vai.
Tôi buông lá cờ, vội lùi ra sau như cua bò, nhưng va phải một cái bục. Vũ khí lại vung lên.
Tôi thét lớn khi nó sượt qua Thánh thạch, đâm vào bụng tôi như thể cơ thể tôi được nặn từ bơ.
Cảm giác đau đớn ấy không hề giống bất cứ điều gì tôi từng nếm trải. Tôi biết mình thế là xong.
Dòng máu nóng chảy ứa ra khắp bụng, xuống bắp chân. Vũ khí được rút khỏi người tôi, và tôi đổ gục xuống nền đá. Má tôi áp vào chính vũng máu của mình.
Suy nghĩ cuối cùng của tôi là Alejandro, và chàng hẳn sẽ ngạc nhiên thế nào khi được gặp lại tôi.