A
, Amelia”, Thom nói khi cô đi vào trong phòng khách. “Rượu vang không?”
“Phải làm việc.”
“Cô chắc chứ?”
“Chắc.” Cô để ý thấy cả Rhyme và Archer đều có rượu whiskey trong chỗ đựng cốc của họ. “Ý tôi là, không. Ý tôi là, chậc, cho tôi xin một cốc.”
Một lát sau viên phụ tá quay lại. Anh ta liếc nhìn chai scotch gần đó. “Chờ đã.”
“Chờ đã”, Rhyme nói, cố gắng cản trở. “Điều đó có nghĩa là gì? Tôi rất ghét những lúc mọi người nói thế. ‘Chờ’. Chờ cái gì? Ngừng di chuyển à? Ngừng thở à? Ngừng vận động tinh thần à?”
“Được rồi, ‘chờ đã’ có nghĩa là có người đã có một hành vi không thể chấp nhận nổi, một hành vi mà tôi chỉ mới vừa biết và tôi chuẩn bị kháng nghị đây. Anh đã đột kích chai rượu.”
Archer cười. “Anh ấy đã ra lệnh cho tôi phải đứng dậy, đi tới đó và rót rượu ra. Không, Lincoln, tôi sẽ không nhận tội hộ anh đâu. Tôi chỉ là một thực tập sinh thấp cổ bé họng, nhớ chứ?”
Rhyme gầm gừ, “Nếu ngay từ đầu cậu rót cho tôi một lượng đủ thì đã chẳng có vấn đề gì”.
Thom giật lấy cái chai và rời khỏi phòng khách.
“Chờ đấy!” Rhyme gọi vọng theo. “Mà đấy mới là cách dùng chuẩn nhé.”
Sachs mỉm cười trước màn đấu khẩu đó và quay về với các bằng chứng, đi đi lại lại trong lúc quan sát các túi đồ và nghiên cứu các tấm bảng. Cô rất hay đi đi lại lại như thế này để giải phóng năng lượng. Khi còn khả năng thì Lincoln Rhyme cũng làm y hệt như vậy khi phải cân nhắc một rắc rối cứng đầu trong một vụ án.
Chuông cửa reo lên và Rhyme nghe tiếng bước chân của Thom ra mở cửa. Tiếng chào hỏi nhỏ nhẹ của vị khách báo cho Rhyme biết ai vừa ghé qua.
“Đến giờ làm việc rồi”, Rhyme nói.
Sachs gật đầu chào Mel Cooper, người vừa bước vào phòng khách vừa cởi áo khoác ra. Anh đã nghe tin về Alicia Morgan và giờ Rhyme đang giải thích cho anh ta về việc cô ta hủy hoại bằng chứng như thế nào. Kỹ thuật viên nhún vai. “Chúng ta từng phải đương đầu với nhiều thứ tệ hơn nhiều.” Anh ta xem xét các bằng chứng từ căn hộ của Griffith và Morgan. “Được đấy. Chúng ta sẽ tìm được vài câu trả lời ở đây.”
Rhyme hài lòng khi thấy mắt Cooper sáng lên mãnh liệt như một người thợ mỏ phát hiện ra một cục vàng to bằng ngón tay cái.
Sachs đang lôi găng tay cao su ra khỏi túi thì điện thoại rung lên. Một tin nhắn mới đến.
Cô đọc tin nhắn. Cô gửi tin trả lời rồi đi về phía máy tính. Một lát sau cô mở một thư điện tử ra. Rhyme nhìn thấy tiêu đề chính thức. Đó là hồ sơ bằng chứng từ trụ sở phòng Điều Tra Hiện Trường của NYPD.
“Họ đã tìm ra thứ mà em vừa cố gắng nhớ lại – từ một vụ án trước đó.” Cô giơ chiếc xe moóc mà Vernon Griffith đã chế tạo ra lên. Bánh xe giống y xì đúc với cặp bánh được vẽ lại trong bức tranh mà cô vừa nhận được từ Đội Điều Tra Hiện Trường.
Cô nói, “Alicia nói là cô ta đã gặp Vernon khi hắn giết một kẻ cà khịa hắn”.
“Đúng thế.”
“Em nghĩ nạn nhân là Echi Rinaldo, tay buôn thuốc phiện và vận chuyển – vụ giết người mà em chưa có tiến triển nào.”
Archer nói, “Đúng, hai bánh xe giống hệt nhau, bánh xe đồ chơi”.
“Đúng thế. Và Rinaldo cũng đã bị đâm chết với một thứ có vẻ là nằm trong đây.”
Cô hất đầu về phía những chiếc cưa và dao mà họ thu được trong căn hộ của Griffith.
“Được rồi, tốt”, Rhyme nói. “Một hiện trường khác liên quan đến Griffith. Có thông tin gì trong vụ án đó có thể cho chúng ta manh mối về nơi hắn đang lẩn trốn không?” Anh và Sachs đã cùng nhau xử lý vụ án đó một thời gian ngắn nhưng sau đó Rhyme đã nghỉ hưu trước khi họ tiến triển được nhiều.
Cô điểm lại những gì mình biết, kết luận: “Chỉ biết hắn đã nhảy vào một chiếc tắc-xi dù và đi tới một địa điểm nào đó ở Village. Không biết cụ thể hơn”.
“À”, Rhyme nói nhẹ nhàng, nhìn chằm chằm vào bảng. “Điều đó đưa chúng ta đến một vị thế hơi khác đấy.”
“Nhưng khu Village”, Archer nói, “rộng mênh mông. Nếu có cách để thu hẹp phạm vi…”
“Nhớ luôn tự vấn lại các giả thiết của mình.”
Sachs: “Rất sẵn lòng. Cái nào?”
“Việc Vernon ám chỉ Greenwich Village.”
“Thế còn Village nào nữa?”
“Middle Village.” Anh liếc nhìn Archer. “Một khu vực trong Queens.”
Cô gật đầu. “Nơi anh đã điểm tên – vì đất mùn và các dấu vết khác. Còn tôi thì giữ thái độ hoài nghi.”
“Chính xác.”
“Tôi đoán là sau rốt chúng ta không cần hai dấu hỏi nữa.”
Sachs đang xem xét bản đồ Middle Village trên mạng. Khu vực đó cũng không nhỏ. “Có biết chính xác hắn có thể ở đâu không?”
“Anh biết”, Rhyme nói, tự mình xem xét bản đồ, nghe Juliette Archer nói.
Câu trả lời cho mọi câu đố luôn đơn giản…
“Tôi có thể thu hẹp phạm vi.”
“Còn bao nhiêu?” Cooper hỏi.
“Khoảng hai mét.”
Nghĩa trang St. John ở Queens là nơi an nghỉ vĩnh viễn của một cơ số nhân sĩ.
Trong đó có những nhân vật như: Mario Cuomo, Geraldine Ferraro, Robert Mapplethorpe và, không kém phần quan trọng, Charles Atlas. Nhưng Amelia Sachs chỉ biết điều đó nhờ một mối quan hệ trong công việc, có thể nói là vậy. Nghĩa trang Công giáo có xác của hàng tá tay găng-xtơ nổi tiếng nhất lịch sử. Joe Colombo, Carmine Galante, Carlo Gambino, Vito Genovese, John Gotti, và Bố già vĩ đại, Lucky Luciano.
Sachs đang đỗ chiếc xe Torino của mình trước cổng nghĩa trang ở đại lộ Metropolitan, Middle Village, đậm chất thôn quê theo định nghĩa của New York. Tòa nhà chính là một kiến trúc mà cả những người nông dân ở Bavaria và thời Elizabeth đệ nhất sẽ thấy thân thương. Dốc, có tháp canh, cửa sổ mái và tường gạch viền trắng.
Cô bước xuống xe và, theo thói quen, cởi khuy áo rồi chạm vào tay cầm của khẩu Glock với bàn tay xòe rộng quay nó thẳng lên. Nếu một giây sau có người hỏi có phải cô vừa làm vậy không thì cô cũng chịu.
Có hai chiếc xe không có dấu hiệu đỗ gần đó, thuộc đội tuần tra khu vực. Chúng, như cô hài lòng nhận thấy, hoàn toàn không có dấu hiệu gì của cảnh sát. Không có ăng-ten vụt qua vụt lại hoặc máy tính choán hết khe giữa ghế trước. Biển số xe thật chứ không phải biển của chính phủ.
Một sĩ quan tuần tra trẻ tuổi, tên Keller theo bảng tên, chào cô từ vị trí thuận lợi đang đứng gần cổng.
“Chúng ta đi bộ được không?” cô hỏi.
“Có, như thế hay hơn.”
Cô hiểu ý anh ta là bất kỳ một chiếc xe ô tô nào cũng chỉ gợi lên sự chú ý trong một nghĩa trang hầu như không có tường bao quanh.
“Dù vậy chúng ta nên di chuyển thật nhanh. Trời sẽ sớm tối mịt. Chúng tôi đã giám sát lối vào nhưng…”
Họ rảo bước một cách im lặng, đi qua cổng rồi đi lên con đường rải nhựa đường. Buổi tối mùa xuân nhẹ nhàng như một tấm thiệp chào mừng và có vài người ở trong nghĩa trang, để hoa lại. Có vài người đi một mình, chắc là những người góa chồng góa vợ. Chủ yếu là người cao tuổi. Có cả vài cặp đôi, đặt hoa lên mộ cha mẹ hoặc có thể là con cái họ.
Sau hai phút họ tới một khu vực hẻo lánh trong nghĩa trang. Hai sĩ quan đội Phản Ứng Khẩn Cấp, hai người đàn ông tóc cắt đầu đinh gọn gàng mặc đồ tác chiến, ngẩng lên nhìn họ. Họ đang nấp sau một bia mộ.
Cô gật đầu. Một cảnh sát tác chiến nói, “Hắn đã tới đây cách đây nửa tiếng và chưa hề nhúc nhích kể từ lúc ấy. Chúng tôi đã cho cảnh sát ngầm sơ tán mọi người đi rồi. Báo với họ là lát nữa sẽ có một đám tang của liên bang và chúng tôi muốn khu vực này trở nên vắng vẻ để đảm bảo an ninh”.
Sachs nhìn về phía một ngôi mộ cách họ khoảng mười lăm mét, nhìn bóng lưng một người đàn ông đang ngồi trên một băng ghế gần bia mộ.
“Nếu hắn lỉnh đi”, cô hỏi, “thì có các đội khác sẵn sàng chứ?”
“Chúng tôi đã chặn đường hết rồi. Cả ở kia, ở kia, và ở kia”, Keller nói, chỉ tay. “Hắn không đi đâu được đâu.”
“Không có ô tô à?”
“Không có phương tiện nào hết, thanh tra.”
“Vũ khí?”
“Không thấy dấu hiệu.” Câu này do một sĩ quan tác chiến nói. Cộng sự của anh ta cũng lắc đầu. Nói thêm, “Nhưng có một chiếc ba lô cạnh ghế. Trong tầm tay”.
“Hắn vừa lấy một thứ gì đó ra khỏi ba lô. Đặt nó lên bia mộ, kia kìa, thấy chứ? Tôi đã dùng ống nhòm quan sát. Có vẻ là một món đồ chơi. Tàu hoặc gì đó. Một con thuyền”.
“Nó là một mô hình thu nhỏ”, Sachs nói mà không cần nhìn kỹ. “Không hẳn là đồ chơi đâu. Yểm trợ cho tôi nhé. Tôi sẽ tới bắt hắn.”
Vernon Griffith không chống cự.
Hắn sẽ là một đối thủ khó xơi, cực kỳ gầy nhưng cô có thể nhìn thấy cơ bắp bên dưới chiếc áo sơ mi vừa in và hắn rất cao, có tầm tay cực kỳ dài. Và ba lô biết đâu lại đựng một chiếc búa bi chết người khác hoặc cưa hoặc lưỡi dao như chiếc cô tìm thấy ở Chelsea.
Nụ hôn lạnh lẽo…
Rõ ràng là hắn đã hết sức ngạc nhiên trước sự hiện diện bất ngờ của các sĩ quan và, sau khi nhỏm dậy, hắn lại ngồi phịch xuống ghế, giơ hai bàn tay dài ngoằng của mình thẳng lên trong không trung. Keller ra hiệu cho hắn quỳ gối xuống trên mặt đất, nơi anh ta còng tay hắn lại và soát người. Lục soát ba lô. Không súng, không búa, không có thứ gì có thể dùng làm vũ khí.
Sachs đoán là hắn đã chìm đắm trong suy nghĩ về em trai, Peter, người mà hắn vừa ngồi trước mộ. Hoặc, nếu hắn tin vào chuyện ma quỷ thì biết đâu Griffith vừa nghĩ họ đang nói chuyện với nhau.
Mặt khác, có khi đơn giản chỉ là hắn đang cân nhắc những rắc rối phàm tục. Tiếp theo phải làm gì? Sau các sự kiện trong vài ngày vừa qua thì hắn cũng cần phải cân nhắc nhiều đấy.
Sau đó, được nâng dậy và kẹp giữa hai sĩ quan đội Phản Ứng Khẩn Cấp, hắn và Sachs đi tới trước văn phòng nghĩa trang. Griffith được cho ngồi xuống một cái ghế băng có một con chim bồ câu xanh rì trang trí. Họ chờ xe chở tù nhân, Griffith sẽ thấy rất chật chội trong băng ghế sau của một chiếc xe thường bên ngoài. Bên cạnh đó, hắn đã hại người theo những cách quỷ quyệt và không mấy dễ chịu nên chẳng ai muốn ngồi cạnh hắn trong một cái xe tuần tra hết, chưa kể đến một chiếc Ford Torino, dù đã bị còng tay đi nữa.
Sachs ngồi cạnh hắn ta. Cô rút máy ghi âm ra, bật nó lên, rồi trích dẫn quyền Miranda của hắn. Hỏi hắn đã hiểu chưa.
“Tôi hiểu. Đương nhiên.”
Griffith cũng có các ngón tay dài, tương đồng với các ngón chân mà họ đã biết kích cỡ, đương nhiên. Mặt hắn cũng dài nhưng trắng bệch, nét mặt không có râu không có gì đáng chú ý. Mắt màu nâu vàng nhạt.
Cô tiếp tục, “Chúng tôi biết là Alicia Morgan đã dùng anh để giết một số cá nhân nhất định có liên quan tới chiếc xe U.S. Auto gặp trục trặc và giết chết chồng cô ta. Nhưng chúng tôi muốn biết thêm thông tin. Anh chịu nói chuyện với chúng tôi chứ?”
Hắn gật đầu.
“Anh có thể nói được thành tiếng không?”
“À, xin lỗi. Được.”
“Hãy dùng chính lời của anh để kể lại cho tôi những gì đã xảy ra. Cô ta đã kể lại một số chuyện cho cộng sự của tôi nhưng chưa kể toàn bộ câu chuyện. Tôi muốn nghe từ phía anh.”
Hắn gật đầu và không chút ngập ngừng thuật lại cách Alicia tiếp cận hắn, sau khi chứng kiến cảnh hắn giết người trên đường phố. “Một kẻ đã tấn công tôi”, hắn nói thêm một cách mạnh mẽ.
Cô nhớ Rhyme đã kể rằng chính Griffith đã dụ Rinaldo tấn công hắn. Nhưng cô vẫn gật đầu khuyến khích.
“Cô vừa bảo cô ta đã dùng tôi để giết bọn Mua Sắm đã chế tạo và bán chiếc xe đã giết chồng cô ta.”
Bọn Mua Sắm? Cô tự hỏi đó là gì.
“Nhưng tôi làm vậy là bởi muốn giúp cô ta. Cô ta bị bỏng, bị thương và, cô biết đấy, mãi mãi thay đổi bởi sự kiện đã xảy ra. Tôi đã đồng ý.”
“Cô ta muốn những người mà cô ta cảm thấy có lỗi phải bị giết bởi một sản phẩm à?”
“Đồ vật, đúng thế. Vì đó là thứ đã giết chồng cô ta và làm cô ta bị thương.”
“Kể cho tôi về Todd Williams đi.”
Hắn xác nhận lại những gì họ đã suy đoán. Williams đó, một nhà hoạt động công nghệ, là hacker thiên tài, và đã dạy Griffith cách phá DataWise 5000. Và, giả vờ làm việc cho một đại lý quảng cáo, anh ta đã mua dữ liệu về các sản phẩm có tích hợp bộ điều khiển và những người hoặc công ty đã mua các sản phẩm cụ thể gì.
Griffith còn bổ sung việc hắn cùng Alicia đã tìm trong danh sách xem có ai làm việc cho U.S. Auto, công ty chế tạo ống dẫn nhiên liệu, đại lý tạo quảng cáo hoặc các luật sư biện hộ cho họ. “Greg Frommer, Benkoff, Joe Heady. Nữ luật sư bảo hiểm ở Westchester.”
“Sau đó, anh và Alicia định đi đâu?”
“Chưa biết. Có thể là về vùng nông thôn. Canada thì tốt hơn. Tất cả mọi chuyện đã diễn ra quá nhanh. Chưa vạch ra một kế hoạch nào cả. Làm sao cô tìm được tới đây?” hắn hỏi. “Tôi chưa bao giờ kể cho Alicia về em trai tôi.”
Sachs giải thích, “Một vụ án cách đây đã lâu. Nạn nhân anh giết có tên là Echi Rinaldo”.
“Kẻ Mua Sắm.”
Lại là từ đấy.
“Gã là kẻ buôn thuốc phiện”, Sachs nói.
“Tôi biết. Sau đó tôi đã đọc tin. Vẫn không hiểu bằng cách nào?”
“Vụ án đó thuộc thẩm quyền của tôi. Một trong các bằng chứng ở hiện trường anh giết gã là một bánh xe đồ chơi. Anh có một cái xe moóc ở trong căn hộ ở Chelsea. Nó có cùng loại bánh xe.”
Griffith gật đầu. “Tôi đã làm một chiếc xe moóc cho Peter.” Hất đầu về phía mộ của em trai. “Tôi đã mang nó theo đi ăn tối hôm đó. Tôi đã rời khỏi nhà hàng và định đến đây để đặt nó lên mộ em trai.” Hắn rùng mình vì ghê tởm hoặc giận dữ. “Hắn đã phá hỏng nó.”
“Rinaldo à?”
Gật đầu. “Hắn đang đi bộ về xe tải nhưng lại không chịu nhìn đường. Va vào tôi và nó bị nghiền nát, cái xe ý. Tôi đã mắng nhiếc hắn và hắn tấn công tôi. Tôi đã giết hắn.” Griffith lắc đầu. “Nhưng chỗ này, làm sao cô đoán ra chỗ này?”
Sachs giải thích là sau khi họ liên kết Vernon và Rinaldo, Rhyme thì khám phá ra bước nhảy vọt Middle Village, họ chẳng cần tốn nhiều công sức để suy luận rằng bằng chứng từ các hiện trường khác nhau – đất mùn, lượng lớn phân bón và thuốc trừ sâu hoặc diệt cỏ, cùng với phenol, một thành phần của dầu hương – cho thấy hắn đã đến thăm nghĩa trang nổi tiếng ở nơi này.
Còn khoảng hai mét…
Họ gọi điện thoại hỏi thăm thông tin thì phát hiện ra Peter Griffith, em trai của Vernon, được chôn cất ở đây. Sachs đã gọi điện cho quản lý nghĩa trang và hỏi xem họ có ghi chép gì về việc Vernon tới thăm mộ không. Ông ta nói không biết gì về các chuyến viếng thăm nhưng có vài sự việc kỳ lạ xảy ra quanh khu đất của Griffith: Có người bỏ lại các đồ đạc hoặc đồ chơi thu nhỏ ở mộ. Quản lý bảo cô là các món đồ được làm cực kỳ tinh xảo. Ông ta nghĩ rằng có vài vị khách tới nghĩa trang đã lấy chúng đi. Những món còn sót lại được ông ta cất trong văn phòng, chờ người tới nhận. Một sự kết hợp có đầy đủ phẩm chất của một huyền thoại đô thị: mô hình thu nhỏ và nghĩa trang.
“Hồi còn sống Peter luôn thích những thứ tôi làm cho nó. Tất nhiên là đồ con trai. Vũ khí trung cổ, bàn và ngai vàng cho các lâu đài. Máy bắn đá và các tháp canh. Đại bác và xe moóc. Nó cũng sẽ thích con thuyền đó cho xem, thuyền Warren. Trên mộ nó. Con thuyền đâu rồi?”
“Trong một túi đựng bằng chứng.” Cô cảm thấy buộc phải nói thêm, “Nó sẽ được xử lý cẩn thận”.
“Cảnh sát mấy người đã theo dõi ngôi mộ à?”
“Đúng thế.”
Sachs để ý thấy em trai hắn chỉ mới hai mươi khi qua đời. Cô nói ra nhận xét này. Rồi hỏi thăm, “Chuyện gì đã xảy ra với cậu ta vậy?”
“Bọn Mua Sắm.”
“Anh vẫn dùng từ đó. Nó có nghĩa là gì?”
Griffith nhìn ba lô của mình. “Trong đó có một quyển nhật ký đúng không? Nhật ký của em trai tôi. Nó đã nói vào một chiếc máy MP3. Tôi đang chép nó ra sổ, nghĩ rằng một ngày nào đó tôi sẽ xuất bản nó. Peter đã nói vài điều khá phi thường đấy. Về cuộc sống, về các mối quan hệ, về con người.”
Sachs tìm quyển sổ da. Nó dễ phải có đến năm trăm trang.
Griffith tiếp tục, “Ở trung học, Manhasset, vài đứa nhóc nổi tiếng đã kết bạn với nó. Nó tưởng chúng thật lòng. Nhưng không không, chúng chỉ lợi dụng nó để trả đũa một con bé không chịu ngủ với chúng. Chúng chuốc thuốc con bé, thuyết phục Peter đó là một đứa khác rồi chụp ảnh của nó với con bé kia trên giường. Cô biết đấy, cô có thể hình dung ra.”
“Chúng đã đăng lên mạng à?”
“Không, chuyện này diễn ra trước thời có máy ảnh trên điện thoại. Chúng chụp ảnh Polaroid và chuyền tay nhau trong trường.” Hắn hất đầu về phía quyển sổ bìa da tả tơi. “Trang cuối cùng. Đoạn cuối cùng.”
Sachs lật ra.
Có những chuyện sẽ không bao giờ biến mất. Không bao giờ. Mìnhcứ tưởng vậy. Thật sự tin vậy. Tự nhủ mình không cần lũ bạn như Sam và Frank. Chúng là lũ ốc sên, vô dụng. Rác rưởi. Cũng xấu xa như Dano hay Butler. Thật sự thì còn xấu xa hơn vì chúng nói một đằng làm một nẻo. Tự nhủ chúng không đáng nghĩ đến. Nhưng không có tác dụng.
Chẳng ai tin chuyện mình không biết đó là Cindy. Tất cả mọi người trong trường, cảnh sát, tất cả mọi người, đều nghĩ mình đã lên kế hoạch đó.
Không có án phạt nhưng chẳng quan trọng nữa. Chỉ củng cố việc mình là một đứa lập dị ghê tởm.
Anh Vern điên lên, muốn giết chết chúng. Anh trai mình lúc nào cũng nóng nảy như thế, lúc nào cũng muốn trả đũa những kẻ ăn hiếp anh ấy hoặc mình. Cha mẹ lúc nào cũng phải để mắt trông chừng anh. Bọn Mua Sắm của anh ấy, muốn giết bọn Mua Sắm.
Những gì đã xảy ra với Frank, Sam, và Cindy, tất cả mọi chuyện – mình không điên lên như Vern. Mình chỉ thấy mệt mỏi. Mệt mỏi với những ánh mắt, những tờ giấy nhét vào ngăn tủ của mình. Bạn bè Cindy nhổ nước bọt vào mình. Cô ta thì bỏ đi. Cô ta và gia đình đã chuyển đi.
Mệt mỏi quá.
Mình cần ngủ. Đó là điều mình cần, đi ngủ.
“Cậu ta đã tự tử à?”
“Không hẳn. Nếu nó làm vậy thì đã chẳng được chôn ở đây. Đây là nghĩa trang Công giáo. Nhưng nó đã uống rượu đến choáng váng và lái xe trên đường 25. Một trăm sáu mươi cây số một giờ. Mới có hai mươi tuổi.”
“Thế ‘Bọn Mua Sắm’ là gì? Điều đó có nghĩa là gì?”
“Peter và tôi ấy mà? Chúng tôi có tạng người khác thường, trông cũng khác thường. Do hội chứng Marfan.”
Sachs không có hiểu biết về hội chứng nó. Cô cho rằng chính hội chứng ấy mang đến chiều cao cùng cân nặng mất cân xứng và đôi bàn tay bàn chân dài của hắn ta. Đối với cô thì tình trạng này không có gì quá kỳ cục mà chỉ đơn giản là một loại hình thể mà thôi. Nhưng lũ du côn ở trường sao? Chúng cần gì lý lẽ.
Griffith tiếp tục, “Chúng tôi toàn bị châm chọc. Cả hai bọn tôi. Trẻ con tàn nhẫn lắm. Cô rất xinh đẹp. Cô làm sao biết được điều đó”.
Cô biết chứ. Hồi dậy thì, Sachs còn nam tính hơn phần lớn bọn con trai, háo thắng hơn bất kỳ thằng con trai nào, chắc chắn đã bị ăn hiếp. Rồi cũng đã bị ăn hiếp trong ngành công nghiệp thời trang vì cô là phụ nữ. Cũng gặp lại tình trạng tương tự như vậy khi vào ngành… vì một lý do tương tự.
Hắn nói, “Phần lớn bọn con trai bị ăn hiếp trong lớp thể dục. Nhưng với tôi thì là lớp nghệ thuật cơ khí – phân xưởng. Nó bắt đầu khi tôi thích một cô bé năm lớp tám. Tôi nghe nói cô ta có một căn nhà búp bê gọn gàng. Nên khi thực hành, trong lúc tất cả bọn con trai làm giá sách và máy chùi chân thì tôi làm một chiếc bàn Chippendale cho cô ta. Cao mười lăm phân. Hoàn hảo”. Đôi mắt màu sáng của hắn sáng lên. “Nó hoàn hảo. Bọn con trai thì châm chọc tôi về nó. ‘Đậu Que’ có một căn nhà búp bê kìa. Slim Jim là con gái kìa.” Hắn lắc đầu. “Tôi vẫn hoàn thiện nó. Tặng cho Sarah và mặt cô ta trông rất buồn cười, cô biết đấy. Khi cô làm một việc cực kỳ tử tế cho một người nhưng nó lại vượt quá mong muốn của họ. Hoặc là họ hoàn toàn không muốn nhận điều đó. Khiến họ cảm thấy không thoải mái. Cô ta đã nói, ‘Cảm ơn’, như cảm ơn một nữ bồi bàn. Tôi không bao giờ nói chuyện với cô ta nữa.”
Ra là vậy. Không phải “Bọn Mua Sắm” để chỉ những người mua hàng hóa. Mà là chỉ những người học nghề trong phân xưởng.
“Và những kẻ phải chịu trách nhiệm cho chiếc xe khiếm khuyết mà Alicia và gia đình cô ta lái, anh xem họ là bọn Học Nghề.”
“Đúng thế. Bắt nạt, vênh váo. Chỉ nghĩ đến bản thân mình. Bán xe ô tô có khiếm khuyết khi đã biết rõ là chúng nguy hiểm. Kiếm tiền. Đó là tất cả những gì quan trọng đối với chúng.”
“Anh hẳn đã vô cùng yêu thương em trai mình.”
“Tôi vẫn giữ chiếc điện thoại cũ có tin nhắn thoại của nó. Tôi vẫn thường mở ra nghe. Cũng cảm thấy chút an ủi.” Hắn quay sang cô. “Mọi niềm an ủi trong cuộc sống này đều đáng quý cả, cô có đồng ý không?”
Sachs tin rằng mình đã biết câu trả lời cho câu hỏi tiếp theo của mình. “Những kẻ đã chụp ảnh em trai anh và cô gái đó. Chuyện gì đã xảy ra với họ?”
“À, đó là lý do tôi chuyển vào sống trong căn hộ ở Chelsea. Tôi dễ làm việc mà tôi đã quyết định hơn – tìm ra chúng rồi giết chúng, chúng làm việc trong thành phố. Một kẻ đã bị tôi chém chết. Sam. Còn kẻ còn lại, Frank à? Đã đánh hắn đến chết. Xác nằm trong một cái hồ gần Newark. Tôi có thể nói thêm cho cô nghe về chuyện đó nếu cô muốn. Cô ta định giết tôi phải không? Alicia ấy.”
Sachs do dự.
Câu chuyện này sẽ đến tai hắn ta thôi, không sớm thì muộn. “Đúng thế, Vernon. Tôi rất tiếc.”
Mặt hắn đầy vẻ cam chịu. “Tôi biết. Ý tôi là, sâu thẳm bên trong, tôi biết cô ta chỉ đang lợi dụng tôi. Bất kỳ ai muốn cô giết người rồi thẳng thắn nhờ vả cô sau khi đã ngủ với nhau.” Nhún vai. “Tôi đã mong đợi điều gì cơ chứ? Nhưng thỉnh thoảng cô để mình bị lợi dụng vì… chà, chỉ vì cô cô đơn, hoặc sao đó. Chúng ta đều phải trả giá cho tình yêu, không cách này thì cách khác.” Hắn nhìn cô tìm tòi. “Cô rất tử tế với tôi. Kể cả sau khi tôi cố giết mẹ cô. Tôi nghĩ cô hoàn toàn không phải là một kẻ Học Nghề. Tôi tưởng là vậy. Nhưng cô không phải.” Một giây sau anh tiếp tục, “Tôi có thể tặng cô một thứ không?”
“Gì vậy?”
“Trong ba lô. Còn một quyển sách khác.”
Cô nhìn vào bên trong. Thấy một quyển sách mỏng. “Thứ này à?”
“Đúng thế.”
Nghiên Cứu Sơ Lược Về Những Án Mạng Không Có Lời Giải.
Cô đọc lướt qua, nghiên cứu hình ảnh về các mô hình hiện trường gây án thu nhỏ. Sachs chưa từng nhìn thấy một thứ gì thế này. Frances Glessner Lee là người sáng tạo ra kiểu bố trí lập thể này. Sachs cười nhẹ, nhìn một con búp bê nhỏ xíu, một cái xác, nằm trong một căn bếp.
“Cô có thể giữ nó. Tôi muốn vậy.”
“Chúng tôi không được phép. Anh hiểu chứ.”
“À. Sao lại không?”
Cô mỉm cười. “Tôi không rõ. Quy định của ngành cảnh sát. Nhưng chúng tôi không được phép.”
“Vậy thôi. Cô có thể mua một quyển vì giờ cô đã biết về nó rồi.”
“Nhất định tôi sẽ mua, Vernon.”
Hai sĩ quan không mặc đồng phục tiến lại gần. “Thanh tra.”
“Tom”, cô chào người cao hơn trong hai người.
“Xe đến rồi.”
Cô nói với Griffith, “Chúng tôi sẽ dẫn anh đi lấy thông tin. Anh sẽ không gây rắc rối đâu, phải không?”
“Không.”
Sachs tin hắn.