N
gôi nhà nằm biệt lập được xây bằng gạch đỏ thẫm. Màu sắc rất giống với màu gọng kính của cảnh sát tuần tra Buddy Everett, màu máu khô, màu nội tạng. Người ta khó lòng nghĩ khác. Dưới tình huống này.
Amelia Sachs ngần ngừ, mắt cô quan sát ánh sáng ấm áp toả ra từ bên trong, nó cứ bập bùng khi các vị khách ở trong đi qua đi lại giữa bóng đèn và cửa sổ. Trông như một cái bóng đèn bị hỏng nhấp nháy liên hồi, căn nhà nhỏ xíu và có quá nhiều khách.
Cái chết gắn kết cả những con người dù họ chỉ có một liên kết mỏng manh.
Ngần ngừ.
Trong những năm làm cảnh sát, Sachs đã báo tin về cái chết cho rất nhiều gia đình. Cô rất thạo việc đó, góp nhặt các câu nói được dạy bởi các nhà tâm lý học ở học viện. (“Tôi lấy làm tiếc với mất mát của anh.” “Chị có ai để dựa vào không?” Với kịch bản kiểu như thế, người ta phải biết đường ứng biến.)
Nhưng tối nay thì khác. Bởi Sachs không thể tin mình từng hiện diện vào đúng thời điểm mà dòng điện trong người nạn nhân rời bỏ các tế bào, hay, nếu người ta có quan điểm khác, thì là thời điểm linh hồn rời bỏ thể xác. Tay cô đã đặt lên cánh tay của Greg Frommer vào khoảnh khắc cái chết ập đến. Và dù cô có không muốn thực hiện chuyến viếng thăm này đến thế nào đi nữa thì cô cũng đã có một lời hứa. Và cô sẽ không nuốt lời.
Cô đẩy bao súng ra hẳn sau lưng, khuất tầm mắt. Đó có vẻ là một hành động đúng đắn, dù cô cũng không biết giải thích thế nào. Trước khi thực hiện sứ mệnh này, cô cũng đã phải tạt qua căn hộ của mình, cũng ở Brooklyn, không quá xa xôi cách trở, để tắm và thay đồ. Chắc phải có luminol và nguồn sáng thay thế1 thì mới tìm được vết máu ở bất kỳ đâu trên người cô.
1 giúp làm xác định vết máu sau khi tương tác với Luminol.
Bước lên bậc thềm và bấm chuông.
Cửa được mở ra bởi một người đàn ông cao ráo mặc sơ mi Hawaii và quần ngắn màu cam. Tầm năm mươi tuổi. Tất nhiên, đây chưa phải là tang lễ, đó là chuyện sau này. Tối nay chỉ là buổi tụ họp của gia đình và bạn hữu vội vã đến động viên, mang thức ăn đến, để vừa xoa dịu nỗi buồn vừa tập trung vào nó.
“Xin chào”, ông ta nói. Mắt ông ta đỏ quạch như vòng hoa choàng quanh cổ con vẹt ở thắt lưng ông ta. Anh trai của Frommer chăng? Sự tương đồng đập ngay vào mắt.
“Tôi là Amelia Sachs. Thuộc NYPD. Liệu bà Frommer có thể dành vài phút nói chuyện với tôi không?” Cô nói một cách tử tế, giọng điệu hoàn toàn không mang vẻ nhân viên công quyền.
“Đương nhiên rồi. Mời cô vào.”
Ngôi nhà không có nhiều đồ đạc, các đồ trang trí cũng không đồng bộ và đều đã sờn cũ. Vài bức tranh lưa thưa trên tường chắc hẳn được mua từ Walmart hoặc Target. Frommer, theo cô tìm hiểu, làm nhân viên bán hàng ở một hiệu giầy trong trung tâm mua sắm, làm việc với mức lương tối thiểu. Tivi nhỏ xíu và bộ truyền hình gói cơ bản nhất. Không có máy chơi game, dù cô đoán được là họ có ít nhất một đứa con – một tấm ván trượt, sứt sẹo và được quấn đầy băng dính nằm tít trong góc. Vài quyển truyện tranh Nhật Bản nằm thành chồng trên sàn cạnh một cái bàn nhỏ mòn vẹt.
“Tôi là Bob, anh họ của Greg.”
“Tôi lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra.” Thỉnh thoảng người ta vẫn bị đi theo lối mòn.
“Chúng tôi vẫn không tài nào tin nổi chuyện đó. Hai vợ chồng tôi sống ở Schenectady. Chúng tôi tới đây nhanh hết mức có thể.” Ông ta nhắc lại, “Chúng tôi vẫn không tài nào tin nổi chuyện đó. Chuyện… đấy, ra đi trong một tai nạn như thế”. Bỏ qua bộ đồ nhiệt đới, Bob dần trở nên nóng nảy hơn. “Phải có ai đó trả giá cho chuyện này chứ. Chuyện đó không bao giờ nên xảy ra hết.”
Vài vị khách khác trong phòng cũng gật đầu chào cô, đánh giá quần áo của cô, dò xét một cách cẩn thận. Váy dài ngang bắp chân màu xanh lục sậm, áo khoác và áo sơ mi đen. Cô ăn mặc để đến dự tang lễ, dù không cố tình. Đây là đồng phục thường nhật của Sachs. Màu tối mang lại một ấn tượng khó hợp tác hơn là màu sáng.
“Để tôi đi gọi Sandy.”
“Cảm ơn.”
Bên kia phòng là một cậu bé tầm mười hai tuổi, được vây giữa một người đàn ông và hai người phụ nữ mà Sachs đoán họ trạc năm mươi tuổi. Khuôn mặt tròn, lốm đốm tàn nhang của cậu bé đỏ quạch vì khóc, tóc tai thì bù xù. Cô tự hỏi có phải thằng bé đã nằm lì trên giường, chết sững trước tin về cái chết của cha mình, trước khi người thân đến thăm hay không.
“Tôi đây, xin chào?”
Sachs quay lại. Người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh có khuôn mặt trắng bệch, một sự đối lập chói mắt đến mức khó chịu giữa màu đỏ của hàng mi với làn da dưới mắt bà ta. Càng thêm kỳ quái là hai tròng mắt màu xanh lục nổi bần bật. Chiếc áo không tay màu xanh dương sẫm của bà ta thật nhăn nhúm và dù hai chiếc giày có kiểu dáng khá tương đồng nhưng chúng vẫn thuộc hai đôi khác nhau.
“Tôi là Amelia Sachs, từ sở cảnh sát.”
Không đưa phù hiệu. Không cần thiết.
Sachs hỏi liệu họ có thể nói chuyện riêng được không.
Thật kỳ cục khi chuyện này còn khó hơn cả việc chĩa khẩu Glock của cô vào một gã tội phạm phê thuốc cũng đang chĩa súng của hắn vào cô cách đó ba chục mét, hoặc hạ từ số bốn xuống số hai trong khi đang vào cua ở tốc độ tám mươi cây số trên giờ, máy đo số vòng quay báo động đỏ, để bảo đảm chắc chắn một tên khốn nạn nào đó không trốn thoát được.
Vững tinh thần nào. Cô có thể làm được.
Bà Sandy Frommer dẫn Sachs ra phía sau nhà và họ đi qua phòng khách bước vào một cái hốc nhỏ xíu mà, cô đã chú ý từ khi họ bước chân vào, là phòng cậu con trai – đầy tranh ảnh và truyện về siêu anh hùng, quần jean và áo len chất đống, cái giường bừa bộn là bằng chứng quan trọng nhất.
Sachs đóng cửa lại. Bà Sandy vẫn đứng nguyên và nhìn vị khách một cách thận trọng.
“Tôi vô tình có mặt ở hiện trường lúc chồng bà mất. Tôi đã ở cạnh ông ấy.”
“Ôi. Trời ơi.” Vẻ mất phương hướng của bà ta chợt phóng đại lên trong giây lát. Rồi bà lại dồn sự chú ý vào Sachs. “Một cảnh sát đã tới để thông báo cho tôi. Một người tử tế. Anh ta không ở trung tâm mua sắm khi chuyện đó xảy ra. Có ai đó đã gọi cho anh ta. Anh ta thuộc đội tuần tra địa phương. Một người châu Á thì phải? Ý tôi là sĩ quan.”
Sachs lắc đầu.
“Nó khủng khiếp lắm phải không?”
“Đúng là thế.” Cô không thể nói giảm về những gì đã xảy ra. Câu chuyện đã lên bản tin. Tình tiết đã được giảm nhẹ nhưng cuối cùng thì bà Sandy sẽ vẫn đọc được báo cáo y khoa và sẽ biết được một cách chính xác những gì ông Greg Frommer đã trải qua trong những giây phút cuối cùng trên đời. “Nhưng tôi chỉ muốn bà biết là tôi đã ở cạnh ông ấy. Tôi đã nắm tay ông ấy và ông ấy đã cầu nguyện. Và ông ấy đã nhờ tôi tới gặp bà và nói với bà là ông ấy yêu bà và con trai của hai người lắm.”
Như thình lình vừa nhận được một sứ mệnh sống còn, Sandy bước về phía bàn học của con trai, ở trên có một chiếc máy tính bàn kiểu cũ. Bên cạnh là hai lon soda, một đã bị nghiền bẹp. Một túi khoai tây chiên đã được ép phẳng. Vị thịt nướng. Bà nhặt hai cái lon lên vứt vào thùng rác. “Tôi đáng ra phải đi gia hạn bằng lái xe của mình. Tôi chỉ có hai ngày. Tôi đã không có thời gian để làm. Tôi làm cho một công ty giúp việc. Lúc nào chúng tôi cũng bận bịu. Bằng lái xe của tôi sẽ hết hạn sau hai ngày nữa.”
Vậy là ngày sinh nhật của bà ta sắp đến.
“Có ai ở đây có thể đưa bà tới Sở Quản Lý Xe Cơ Giới không?”
Bà Sandy tìm ra được thêm một món đồ có dấu vết sử dụng của người khác – một bình trà đá. Nó trống trơn và cũng được quẳng luôn vào thùng rác. “Cô không cần phải tới tận đây. Có nhiều người sẽ không bỏ công đến thế này.” Dường như mọi từ nói ra đều làm bà ta đau đớn. “Cảm ơn cô.” Đôi mắt đờ đẫn lại thoáng nhìn Sachs rồi nhìn xuống sàn. Bà ta quẳng đống áo len vào thùng giặt. Bà thò tay vào túi quần jean và rút một chiếc khăn giấy ra, chấm mũi. Sachs nhận thấy nó là quần jean của hãng Armani, nhưng đã khá bạc màu và cũ mòn – không phải kiểu bạc màu cố tình được tạo ra của đồ mới (Sachs, cựu người mẫu thời trang, không mấy thích thú cái xu hướng vô dụng đó). Hoặc chúng được mua lại từ hàng đồ cũ, hoặc theo Sachs phỏng đoán, được mua từ một giai đoạn mà gia đình này có cuộc sống sung túc hơn nhiều.
Rất có thể là như vậy, cô để ý thấy một bức tranh lồng khung trên bàn học của cậu con trai – cậu bé và cha cậu ta cách đây vài năm, đứng cạnh một chiếc máy bay tư nhân. Trước mặt họ là cần câu cá. Các dãy núi của Canada hoặc Alaska nhấp nhô xa xa. Một bức ảnh khác thì có vẻ là chụp gia đình trong lô ghế riêng trong cuộc đua xe Indy 500.
“Tôi có thể làm gì giúp bà được không?”
“Không cần đâu, sĩ quan. Hay thanh tra? Hay...?”
“Amelia.”
“Amelia. Thật là một cái tên đẹp.”
“Con trai bà đương đầu được chứ?”
“Bryan… Tôi cũng không rõ thằng bé sẽ ra sao nữa. Giờ thì nó đang tức giận, tôi nghĩ thế. Hoặc đang tê liệt. Cả hai chúng tôi đều đang tê liệt.”
“Cậu bé bao nhiêu tuổi? Mười hai à?”
“Đúng thế. Mấy năm vừa qua khá là khó khăn. Mà cái tuổi đấy cũng gay go nữa.” Môi run run. Và rồi thốt ra một câu nói gay gắt: “Ai chịu trách nhiệm cho chuyện đó? Làm sao một chuyện như thế lại có thể xảy ra được chứ?”
“Tôi không biết. Nó sẽ được thành phố điều tra. Họ giỏi lắm.”
“Chúng ta đặt niềm tin vào những thứ như thế. Thang máy, cao ốc, máy bay, tàu điện ngầm! Những người chế tạo ra chúng phải chế tạo một cách an toàn chứ. Làm thế nào chúng ta có thể biết được là chúng nguy hiểm? Chúng ta chỉ biết tin vào chúng!”
Sachs chạm vào vai bà ta, ấn xuống. Tự hỏi liệu người phụ nữ này có bật khóc nức nở ra đấy không. Nhưng bà Sandy nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. “Cảm ơn vì đã tới để chuyển lời cho tôi. Có nhiều người sẽ không bỏ công đến thế này.” Có vẻ như bà ta đã quên là mình vừa mới nói câu ấy rồi.
“Một lần nữa. Nếu bà cần bất kỳ thứ gì.” Sachs đặt một tấm danh thiếp của cô vào bàn tay của bà Sandy. Ở học viện họ không dạy về chuyện này, và nói thật, cô cũng không biết phải làm gì để giúp người phụ nữ này nữa. Sachs chỉ đang làm theo bản năng.
Tấm danh thiếp được đút vào trong túi chiếc quần jean đã từng trị giá ba con số.
“Tôi đi đây.”
“À, vâng. Cảm ơn cô lần nữa.”
Bà Sandy cầm đống bát đũa bẩn của con trai mình lên và đi ra khỏi cửa trước cả Sachs, biến mất tăm trong bếp.
Gần cửa ra vào, Sachs lại tới gần anh họ của Frommer, ông Bob. Cô hỏi, “Ông nghĩ bà ấy sẽ thế nào?”.
“Sẽ ổn cả thôi. Vợ tôi và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Nhưng chúng tôi cũng có ba đứa con. Tôi đang nghĩ là mình có thể sửa lại gara. Tôi khéo tay lắm. Cả con trai cả của tôi cũng thế.”
“Ý ông là gì?”
“Gara của chúng tôi. Nó không có cột đỡ, cô biết đấy. Chứa được hai cái xe ô tô. Hơi nóng vì tôi để bàn gia công ở ngoài đó.”
“Họ sẽ đến sống với nhà ông à?”
“Với ai đó và tôi không biết đó sẽ là ai.”
“Ở Schenectady?”
Bob gật đầu.
“Họ không sở hữu căn nhà này à? Nhà thuê sao?”
“Đúng thế.” Thì thào nói thêm. “Và họ chậm mấy tháng tiền thuê nhà rồi.”
“Ông ấy không có bảo hiểm nhân thọ sao?”
Nhăn mặt. “Không. Cậu ấy đã bỏ nó rồi. Cần tiền. Hiểu không, Greg quyết định là mình muốn trả ơn cuộc sống. Bỏ việc cách đây vài năm và bắt đầu làm rất nhiều công việc từ thiện. Khủng hoảng tuổi trung niên hoặc sao đó. Làm việc bán thời gian ở trung tâm mua sắm để có thể tự do đi tình nguyện ở các bếp ăn từ thiện và các mái ấm tình thương. Tôi đoán là chuyện đó tốt cho Greg. Nhưng rất khó khăn với Sandy và Bry.”
Sachs chào tạm biệt và đi ra cửa.
Ông Bob tiễn cô đi và nói, “Nhưng đừng hiểu nhầm nhé.”
Cô quay lại, nhướn một bên lông mày lên.
“Đừng nghĩ là Sandy hối hận. Cô ấy vẫn ở bên cạnh cậu ta qua tất cả mọi chuyện. Chưa từng than vãn. Trời ơi, họ yêu nhau lắm.”
Mình đang đi bộ về phía căn hộ của mình ở Chelsea, hang ổ của mình. Không gian của mình, một không gian tuyệt vời.
Và tất nhiên, vẫn dè chừng sau lưng.
Không có cảnh sát bám đuôi. Không có Đỏ, ả cảnh sát.
Sau vụ hết hồn ở trung tâm mua sắm, mình đã đi bộ hết dặm này đến dặm khác trong Brooklyn, đi tới một tuyến tàu điện ngầm khác. Mình đã dừng lại thêm một lần nữa để mua một chiếc áo khoác mới và cả mũ mới – vẫn là mũ bóng chày nhưng màu nâu vàng. Tóc mình vàng hoe và cụt lủn, mỏng, nhưng mình nghĩ tốt nhất vẫn nên che chắn nó lại khi đi ra ngoài.
Sao lại để bọn Mua Sắm có thứ để nhìn cơ chứ?
Cuối cùng thì giờ mình cũng đã bình tĩnh lại, tim không còn đập thình thịch mỗi lần nhìn thấy bóng dáng xe cảnh sát nữa.
Dường như đường về nhà dài bất tận. Chelsea rất, rất xa Brooklyn. Tự hỏi vì sao nó lại mang cái tên đó. Chelsea. Mình nghĩ là mình từng nghe nói nó được đặt tên theo một chỗ nào đó ở nước Anh. Nghe cũng Anh lắm. Mình nhớ là có một đội bóng đá ở nước Anh mang cái tên đó. Hoặc có thể chỉ là tên của ai đó.
Đường phố, phố nhà mình, phố 22, ầm ĩ nhưng cửa sổ thì dày. Mình phải nói là cũng ra dáng hang ổ phết. Mái nhà có ban công và mình thích lên trên đó. Không có ai trong tòa nhà này lên đấy hết, hoặc nếu có thì mình cũng chưa thấy bao giờ. Thỉnh thoảng ngồi đó mình lại ước gì mình biết hút thuốc, vì ngồi trên tầng thượng, hút thuốc và ngắm thành phố, dường như là một trải nghiệm phải có của mọi cư dân New York dù cũ dù mới thì phải.
Từ trên mái nhà người ta có thể nhìn thấy mặt sau của khách sạn Chelsea. Có nhiều người nổi tiếng sống tại đó, “sống” theo nghĩa là ở lại đó. Giới nhạc sĩ, diễn viên, và nghệ sĩ. Mình ngồi trong ghế dù, ngắm bồ câu, mây trời, máy bay, phong cảnh và lắng nghe tiếng nhạc từ các nhạc sĩ sống trong khách sạn nhưng mình chưa một lần nghe thấy.
Giờ mình đang ở cửa trước của tòa nhà. Lại liếc nhìn ra sau một cái. Không có cảnh sát. Không có Đỏ.
Đi qua cửa rồi đi vào hành lang tòa nhà nơi mình ở. Màu sơn trên tường là màu xanh sậm và… đầy tính hiếu khách, mình nghĩ như thế về màu sắc ấy. Lời của mình. Vừa nảy ra trong đầu. Lần tới gặp em trai mình sẽ nói với nó điều ấy. Peter sẽ thích thế. (Có quá nhiều rắc rối nghiêm trọng với bọn mình trước đây nên giờ mình học hỏi sự hài hước). Đèn trong hành lang rất tối và tường thì bốc mùi như thể làm bằng thịt ôi. Chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ lại cảm thấy thoải mái trong một chỗ như thế này, sau khi trưởng thành trong vùng ngoại ô trù phú xanh tốt. Căn hộ này vốn chỉ là chỗ trú chân tạm thời nhưng mình ngày càng thích nó. Và mình đã khám phá ra là thành phố này có ích cho mình. Mình không quá bị để ý đến nữa. Việc không bị để ý rất quan trọng với mình. Với mọi chuyện đã xảy ra.
Vậy đấy, Chelsea dễ chịu.
Hang ổ…
Bên trong, mình bật đèn và khóa cửa lại. Mình tìm dấu hiệu đột nhập nhưng không có ai đột nhập hết. Mình bị hoang tưởng, có người sẽ nói thế, nhưng với cuộc đời mình nó đâu phải là sự hoang tưởng, phải không nào? Mình vẩy thịt cá vào bể cá. Thực đơn này lúc nào cũng có vẻ gì đó sai sai. Nhưng mình ăn thịt và còn ăn rất nhiều là đằng khác. Mình cũng chính là thịt. Thế nên có gì khác biệt đâu? Bên cạnh đó, chúng thích thú còn mình thích thú cơn cuồng loạn nho nhỏ đó. Bọn chúng màu vàng, đen, đỏ, và lao vùn vụt cứ như đó là động lực thuần túy nhất của chúng.
Mình vào phòng tắm và tắm táp, rửa sạch nỗi lo lắng từ trung tâm mua sắm. Cả mồ hôi nữa. Kể cả trong một ngày xuân lạnh lẽo như hôm nay thì mình vẫn ướt sũng bởi mồ hôi của cuộc trốn chạy.
Mình bật tin tức lên. Phải, sau cả nghìn đoạn quảng cáo, một mẩu tin xuất hiện trên màn hình nói về tai nạn trong một trung tâm mua sắm ở Brooklyn. Sai sót trong vận hành thang cuốn, người đàn ông bị chết một cách khủng khiếp. Còn tiếng súng! À, thì ra là thế. Một sĩ quan cảnh sát đã cố gắng dừng động cơ lại và cứu nạn nhân bằng cách bắn hỏng động cơ. Không ăn thua. Có phải Đỏ là người đã bắn viên đạn vô dụng đó không? Nếu vậy thì mình phải khen cô ta vì sự khéo léo.
Mình nhìn thấy có tin nhắn trên máy trả lời tự động – phải, lạc hậu.
“Vernon. Xin chào. Phải làm việc muộn mất rồi.”
Bụng mình thắt lại. Cô ta sẽ hủy hẹn sao? Nhưng rồi mình biết là mọi chuyện đều ổn:
“Nên phải gần tám giờ tôi mới tới được. Nếu cậu không phiền.”
Giọng cô ta đều đều, nhưng mà lúc nào chả thế. Cô ta không phải là một người có giọng nói sôi nổi. Mình cũng chưa từng thấy cô ta cười.
“Nếu tôi không nhận được hồi âm của cậu thì tôi vẫn sẽ ghé qua như thường. Nếu quá muộn thì cũng không sao hết. Cứ gọi báo cho tôi biết là được.”
Alicia là như thế. Sợ sẽ có sai sót nếu cô ta gây ra bất cứ xáo trộn nào, sợ hỏi han quá nhiều, sợ tranh cãi dù với mọi người đó chỉ là câu hỏi chứ không phải sự bất đồng ý kiến. Hoặc chỉ băn khoăn.
Mình có thể làm bất cứ chuyện gì với cô ta. Gì cũng được.
Mà phải nói là mình thích thế. Nó khiến mình cảm thấy quyền lực. Khiến mình cảm thấy sung sướng. Người ta đã làm nhiều chuyện chẳng tốt đẹp với mình. Thứ này cũng công bằng thôi.
Mình nhìn ra ngoài cửa sổ để tìm Đỏ hoặc bất cứ một cảnh sát nào. Không có ai.
Hoang tưởng…
Mình mở tủ lạnh và chạn bát xem đồ cho bữa tối. Xúp, trứng cuộn, ớt nhưng không có đậu, nguyên một con gà, bánh ngô. Rất nhiều xốt chấm khác nhau. Phô mai.
Đậu que gầy nhẳng, bò khô hiệu Slim Jim. Đúng thế, chính là mình.
Nhưng mình ăn khoẻ như hùm vậy.
Mình đang nghĩ đến hai cái bánh sandwich mà mình đã ăn ở Starbucks lúc nãy, đặc biệt thích thịt hun khói. Nhớ lại tiếng thét, nhìn ra ngoài. Thấy Đỏ quét mắt vào tiệm cà phê, không quay về hướng tiếng thét phát ra giống như bất cứ một người bình thường nào sẽ làm.
Bọn Mua Sắm… Nhả ra từ đó, ít nhất là trong đầu mình.
Cáu tiết với cô ta.
Vậy nên. Mình cần chút an ủi. Mình nhặt lấy cái ba-lô đang để cạnh cửa trước và mang nó ngang qua phòng. Mình ấn số mở khóa vào phòng Đồ Chơi. Mình đã tự tay lắp đặt bộ khóa đó, một điều mà bình thường không được làm khi ở nhà thuê. Người ta không để bạn làm gì nhiều khi đi thuê nhà. Nhưng mình vẫn trả tiền đúng hạn nên không có ai tới ngó nghiêng gì hết. Bên cạnh đó mình cần phòng Đồ Chơi phải được khóa, nên nó phải được khóa lại. Mọi lúc.
Mình mở một cái chốt chết ra. Và rồi mình đi vào trong. Phòng Đồ Chơi tối lờ mờ, chỉ trừ ngọn đèn halogen sáng treo trên cái bàn cũ mòn chứa các báu vật của mình. Các tia sáng của ngọn đèn phản chiếu lên các gờ và lưỡi kim loại, chủ yếu là thép bóng loáng. Phòng Đồ Chơi im như tờ. Mình đã làm cách âm cho căn phòng rất tốt, cẩn thận cắt và lắp các tấm ván, vật liệu cách âm lên tường và các cánh cửa chớp trên cửa sổ. Người ta có thể gào thét đến khàn cả giọng ở trong này mà ngoài kia vẫn không nghe thấy gì hết.
Mình lấy dụng cụ nghiền xương, tức là búa bi ra khỏi ba-lô, lau chùi và tra dầu cho nó, trả nó về đúng chỗ trên giá đựng dụng cụ. Rồi lấy ra một món đồ mới mua, một cái cưa. Mình mở hộp và dùng ngón tay thử lưỡi cưa. Đưa nhẹ, thật nhẹ… Nó là hàng được làm ở Nhật Bản. Mẹ mình từng bảo với mình là hồi trước, thời bà còn nhỏ, đồ làm ở Nhật đều tồi tệ. Mọi thứ mới thay đổi làm sao. Ôi trời ơi, thiết bị này khá thông minh đấy chứ. Một chiếc cưa được làm từ một lưỡi dao cạo dài thẳng. Mình kiểm tra lại lưỡi cưa và thấy rõ là mình vừa cạo đi một lớp biểu bì.
Thứ này, nó giờ đã trở thành dụng cụ ưa thích mới nhất của mình, được mình đặt ở một vị trí trang trọng trên giá. Mình nảy ra một suy nghĩ kỳ cục là các dụng cụ khác sẽ thấy ghen tị và buồn bã. Mình buồn cười như thế đấy. Nhưng khi cuộc đời bạn đã bị xáo trộn bởi bọn Mua Sắm thì bạn cũng chỉ còn có thể gửi gắm cuộc đời mình những thứ vô tri vô giác. Nhưng điều đó kỳ cục đến vậy thật sao? Chúng còn đáng tin cậy hơn con người.
Mình lại nhìn lưỡi cưa một lần nữa. Ánh đèn phản chiếu làm mình chói mắt và cả căn phòng chao đảo khi đồng tử co rúm lại. Một cảm giác kỳ lạ nhưng không khó chịu.
Mình chợt nảy ra một thôi thúc muốn đưa Alicia vào trong này. Gần như là một nhu cầu cấp thiết. Mình hình dung ra cảnh ánh sáng sẽ phản chiếu từ lưỡi cưa lên da thịt cô ta, như những gì đang diễn ra với mình lúc này. Thật sự thì mình không hiểu rõ cô ta lắm, nhưng mình nghĩ mình sẽ vẫn mang cô ta vào đây thôi. Cái cảm giác thót cả bụng lại mách bảo mình như vậy.
Giờ thì thở gấp hơn rồi.
Mình có nên làm thế không? Vào tối nay?
Cảm giác sôi sục trong bụng bảo mình hãy làm đi. Và mình có thể mường tượng ra cảnh da thịt cô ta phản chiếu lên các đồ vật kim loại trên bàn dụng cụ, bóng như gương.
Mình ngẫm nghĩ: Kiểu gì cũng phải làm cho xong vào một lúc nào đó.
Chẳng thà cứ làm luôn. Cho xong đi…
Có, hay là không?
Mình chết lặng.
Tiếng chuông cửa. Mình rời khỏi phòng Đồ Chơi và tới cửa trước.
Rồi một suy nghĩ khủng khiếp thoáng vụt qua.
Nếu không phải là Alicia mà là Đỏ thì sao?
Không, không. Điều đó có thể xảy ra không? Đỏ có đôi mắt sắc bén, đồng nghĩa với việc cô ta có một đầu óc sắc sảo. Và cô ta cũng đã tìm được mình trong trung tâm mua sắm.
Cầm theo máy nghiền xương từ trên giá và đi ra cửa.
Mình ấn nút bộ đàm. Và ngưng lại. “Chào?”
“Vernon. Tôi đây?” Alicia rất hay kết thúc một câu nói bằng giọng hỏi. Cô ta luôn tràn đầy bất an.
Thoải mái, mình đặt búa xuống và ấn nút mở khóa cửa trước, vài phút sau, mình thấy khuôn mặt của Alicia xuất hiện trong màn hình máy quay, nhìn lên chiếc máy quay an ninh nhỏ xíu trên khung cửa. Cô ta bước vào và chúng mình cùng vào phòng khách. Mình ngửi thấy mùi nước hoa kỳ cục của cô ta, đối với mình thì nó có mùi thoang thoảng như hành ngọt1 vậy. Mình chắc nó không vậy. Nhưng đó là cảm nhận của mình.
1 Hành ngọt - sweet onion: Loại hành tây không có vị hăng.
Cô ta tránh ánh mắt của mình. Mình đứng sừng sững nhìn xuống cô ta, cô ta nhỏ xíu và gầy guộc nhưng chẳng khẳng khiu như mình. “Chào.”
“Chào.”
Chúng mình ôm nhau, một từ khá thú vị vì mình luôn nghĩ người ta phải tự ôm mình để chuẩn bị tinh thần trước khi chạm vào một người mà họ không muốn chạm. Như mẹ mình những ngày cuối đời. Còn cha mình thì lúc nào cũng vậy. Từ đó không có nghĩa như vậy, chắc chắn nhưng mình thì nghĩ thế.
Alicia cởi áo khoác. Tự treo lên. Cô ta không thoải mái khi người khác giúp đỡ. Cô ta tầm bốn mươi, hơn mình vài tuổi. Cô ta mặc váy xanh dương, cổ cao dài tay. Cô ta hiếm khi sơn móng tay. Cô ta thấy thoải mái với hình tượng đó: một giáo viên. Mình không quan tâm. Cách ăn mặc không phải là thứ khiến mình chú ý tới cô ta. Cô ta từng là giáo viên đến khi kết hôn.
“Ăn tối?” Mình hỏi.
“Không mà?” Một lần nữa, lại hỏi khi ý cô ta muốn nói là: Không. Lo lắng rằng chỉ nhầm một từ, nhấn giọng sai một chỗ thôi là làm hỏng cả buổi tối.
“Cô không đói à?”
Cô ta liếc nhìn về phía phòng ngủ thứ hai. “Chỉ là… Có được không? Chúng ta làm tình được không?”
Thật buồn cười là, dù nghe có vẻ như đúng là một câu hỏi, nhưng mình biết là cô ta không hề thắc mắc. Đó là một lời khẳng định. Và từ cô ta, thì đó là một yêu cầu.
Mình nắm tay cô ta và bọn mình đi qua phòng khách, đi về phía bức tường cuối phòng. Bên phải là phòng Đồ chơi. Bên trái, phòng ngủ, cửa ngỏ và chiếc giường gọn gàng nằm dưới một quầng sáng dịu dàng.
Mình dừng lại trong giây lát, mắt nhìn cửa phòng Đồ chơi. Cô ta ngẩng lên nhìn, tò mò, nhưng chẳng bao giờ dám mơ đến việc hỏi ra câu ‘Có gì không ổn à?’.
Mình ra quyết định và quay sang trái, dẫn cô ta đi theo.