S
áng hôm sau, thỏ con được hỏa táng.
Địa điểm ở ngay cạnh đài thiên táng trước đây. Đã nhiều năm rồi thôn Cơ không tổ chức thiên táng. Thiên táng là lần bố thí cuối cùng cho thế giới này của một người bằng thể xác, nó còn bao hàm nguyện vọng mạnh mẽ là mượn sải cánh của chim ưng đưa linh hồn lên trời. Bất kể là bố thí hay lên trời, đều mang đậm màu sắc tôn giáo. Còn hôm nay, chùa chiền hoang phế, cửa nhà thờ đóng chặt, ngày tháng tối tăm. Thâm tâm mọi người đã không còn tin bên ngoài thế giới này vẫn còn những điều tốt đẹp nữa rồi.
Phong tục thiên táng cũng lặng lẽ biến mất.
Phong tục thổ táng của người Hán du nhập vào, tuy mọi người đều sợ sau khi chết đi bị chôn dưới lòng đất tối tăm và lạnh lẽo, trở thành thức ăn của loài dòi bọ nhưng ngay cả thầy cúng thiên táng cũng bị chôn xuống đất, thì người khác chẳng còn gì để nói nữa. Hỏa táng chỉ là cách làm qua quýt. Chỉ có những người chết không rõ nguyên nhân như thỏ con mới đưa đi hỏa táng. So với đống củi chất cao ngất, thi thể của thỏ con quả thật quá nhỏ bé.
Trời tờ mờ sáng, cánh đàn ông tham gia lễ hỏa táng đã về đến thôn. Lúc ngồi xuống cạnh lò sưởi, Ân Ba thấy bầu không khí nặng nề trong nhà đã nhẹ nhõm hơn. Sắc mặt cậu và mẹ hắn đã bình thản. Lặc Nhĩ Kim Thố thậm chí còn cười nhạt với hắn một cái. Hắn lấy từ trong người ra chiếc lọ sành mang đến nơi hỏa táng, đó vốn là lọ đựng muối trong nhà.
Lặc Nhĩ Kim Thố chỉ vào chiếc lọ, hỏi nhỏ: “Nó, cũng về rồi sao?”, đối với người đã mất, cách gọi cũng thay đổi, gọi là nó chứ không phải là thỏ con nữa.
Ân Ba có cảm giác mình cũng cười nhạt một cái, nói: “Không, không về, tôi vốn định đưa nó về.”
Cống Bố thôn Giang bình thường rất kiệm lời nói: “Thực ra, như thế tốt nhất.”
Không có thỏ con, cả nhà không có ai cần chăm sóc đặc biệt, đều bình thản ngồi ở đó. Nghe Ân Ba kể lại ngọn lửa cháy rừng rực làm sao nuốt chửng cái cơ thể nhỏ bé trên đống củi cao ngất. Hắn nói, cái cảm giác đó không phải là thân xác một người đang bị hỏa thiêu, mà là được ngọn lửa cháy bập bùng nâng lên. Lửa cháy rừng rực một chập, cái cơ thể tội nghiệp đó lại ngót đi một chút, giống như một người bị lột từng chiếc áo vậy. Cuối cùng, đống củi khổng lồ đó cháy đỏ rực, sập xuống, thân xác đó cũng biến mất.
Bọn họ đợi cho đến khi đống lửa tắt hẳn. Theo thông lệ, người ta sẽ nhặt vài mẩu xương vụn trong đống tro. Nhưng khi đống tro đó sắp nguội thì một trận gió ào tới, thổi tro bay lên rải khắp cánh đồng, thổi hết chỗ tro đó, gió cũng lặng. Kết quả là, ngoài đất sét bị đốt thành màu đỏ quạch cứng đanh ra, trên nền đất không còn lại thứ gì.
“Thật kỳ diệu!” Ân Ba kết thúc câu chuyện của mình bằng câu cảm thán.
“Ông trời đã đưa nó đi rồi.”
“Nó hiền lành, yếu đuối, nhạy cảm là vậy, vốn không thuộc về nơi trần thế.”
“Nó muốn chúng ta quên nó đi”, Cống Bố thôn Giang nói, “vậy thì chúng ta quên nó đi thôi.”
Bà Ngạch Tịch Giang lại đựng muối vào cái lọ sành vốn định để tro cốt, muối vừa đổ ra vẫn chưa tìm được thứ gì để đựng, để cả đống trên tờ báo không ai biết lấy một chữ. Muối đổ vào lọ rào rào, bà Ngạch Tịch Giang xoa xoa tay nói: “Được rồi, ông trời đã đòi lại người trời rồi. Nhà chúng ta sẽ lại sinh những đứa trẻ khỏe mạnh.” Trong cái ngữ khí cố làm ra vẻ nhẹ nhõm thật ra cũng có chút nhẹ nhõm thật.
Lặc Nhĩ Kim Thố nhìn Ân Ba một cái đầy ẩn ý, nét mặt cũng đã tươi tỉnh hơn bình thường.
Cống Bố thôn Giang lại nói: “Nếu muốn những ngày tháng khó khăn này sống được dễ chịu hơn, thì phải quên cái người ném quả pháo đó đi mới được.”
“Không.”
“Không đời nào.”
Cống Bố thôn Giang còn chưa nói hết lời, Ân Ba và Lặc Nhĩ Kim Thố đều nói một cách quả quyết. Nói xong, hai người họ nhìn nhau một cách ăn ý, ánh mắt vô cùng kiên định. Người đàn ông và người đàn bà này cùng ngủ trên một chiếc giường, đã lâu lắm hai người không nhìn nhau một cái như vậy rồi. Nỗi đau mất con tiêu tan nhanh hơn dự tính, nhưng mầm mống của thù hận một khi khắc sâu trong tim thì khó mà dứt ra được. Hồi còn ở chùa, Cống Bố thôn Giang nghiên cứu rất nhiều kinh điển Phật giáo, đều khuyên răn con người ta hướng thiện, nhưng giờ ông biết rằng, một khi mầm mống thù hận đã chôn chặt trong tim, thì những lời dạy đó chỉ còn là lời nói suông mà thôi.
Cống Bố thôn Giang không vì những lời răn dạy hướng thiện mất đi sức mạnh mà đau lòng quá lâu. Thời buổi này, những lời răn dạy đó đang bị xã hội mới loại bỏ tận gốc, nghiên cứu hữu lực và vô lực vốn có của lời răn dạy còn có ý nghĩa gì chứ. Vị cựu Lạt-ma lắc lắc đầu để giải thoát cho chính mình.
Do trong nhà có người chết, đội sản xuất cử người đến chuyển lời, cho họ nghỉ vài ngày, lấy lại sức rồi đi làm.
“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.” Cống Bố thôn Giang đi ra ngoài, một lát sau, người ngồi trong nhà đã nghe thấy tiếng ông lùa cừu qua quảng trường, trong tiếng bước chân lộn xộn vọng lại tiếng kêu be be của lũ cừu nghe cứ thấy xót xa.
Lặc Nhĩ Kim Thố nói khẽ: “Tôi mệt rồi, đội sản xuất cho nghỉ không phải ra đồng gieo mạ, tôi muốn ngủ một lát.” Nói rồi, ngả người gối đầu vào đùi chồng.
Ân Ba nói: “Họ cũng cho tôi nghỉ không phải lên núi chặt cây, mình cứ dựa vào tôi mà ngủ một giấc đi.”
Bà Ngạch Tịch Giang thấy đôi vợ chồng nhiều năm nay cứ như người xa lạ lại quấn lấy nhau. Hai tay chắp trước ngực, bà làm động tác cám ơn thần linh người trần mắt thịt không nhìn thấy, nói: “Hai vợ chồng nghỉ đi, mẹ ra ngoài dạo.”
Bà về phòng mình thay bộ quần áo sạch sẽ tươm tất.
Lúc ra khỏi nhà, bà Ngạch Tịch Giang nhìn thấy đàn cừu ông Cống Bố chăn thả đã tản mát trên sườn núi. Bà nói: “Ôi, cậu em tội nghiệp của tôi.”
Ra khỏi thôn, bà chậm rãi đi về chỗ hỏa táng thỏ con. Bà biết, có một người đi theo sau bà như một bóng ma. Bà biết người đó là ai. Nhưng bà không còn tâm trí để ý đến nữa. Người này tuy vẫn sống trong thôn, nhưng từ nay, không còn quan hệ gì với họ nữa rồi. Cũng chỉ vì trong nhà có người mới, mà người này mới bước vào cuộc sống của họ. Giờ thì cái người kia đã lên trời rồi. Thằng bé hoang dã này không còn quan hệ gì với họ rồi. Đi được một đoạn, bà cảm nhận được người đó vẫn ở đằng sau mình, hạ giọng nói: “Chó phải theo người có xương, chạy theo sau bà lão vô dụng thì có ích gì chứ?”
Bà nghe thấy Cách Lạp giọng khản đặc gọi bà ở đằng sau. Nhưng bà không quay lại, bà nói với chính mình không nghe thấy gì hết. Lúc không muốn nghe, bà là người nặng tai. Hôm đó, bà chỉ ngồi ở chỗ vừa hỏa táng một người, nhìn khoảnh đất khô cằn bị đốt thành một vừng đỏ thẫm. Xung quanh khoảnh đất đó là vạt cỏ bị đốt cháy. Xung quanh vạt cỏ này là đồng cỏ xanh mướt. Bà Ngạch Tịch Giang ngồi trên thảm cỏ xanh, nhìn khoảnh đất sét màu đỏ đó, bên trên, đúng như Ân Ba nói, không còn lấy một chút tro tàn, bất kể là tro của củi hay tro của thể xác.
Bà không nén được tiếng thở dài: “Đúng là cháy sạch sành sanh!”
Bà Ngạch Tịch Giang ngồi ngay ngắn ở đó, thẫn thờ trong chốc lát, rồi lại khen: “Đi đúng là sạch thật!”
Bà nhìn lên trời rồi lại nhìn ngôi làng lờ mờ dưới chân núi, mỗi ngày qua đi ở đó cũng phủ đầy bụi bặm, bà chợt nảy ra một ý nghĩ, không muốn quay lại những ngày tháng đó nữa. Vách núi nhô ra phía sau lưng bà trước đây là chỗ thiên táng. Xã hội mới còn chưa ra đời, chồng bà đã rời khỏi ngôi làng này rồi, cũng giống như đứa cháu mà ông chưa từng biết mặt, đi một cách sạch sẽ, không để lại chút gì dù chỉ là hạt bụi. Bà vốn muốn nói với người này điều gì đó, nhưng người này đã ra đi hơn chục năm rồi, ngay cả hình dáng của người này bà cũng không nhớ nổi nữa rồi. Nói chuyện với một người mà ngay cả bộ dạng của người ta cũng không nhớ rõ thì đúng là không tưởng.
Vậy thì bà không nói gì hết.
Lúc rời khỏi nhà, bà thay bộ quần áo tươm tất sạch sẽ, là vì đến những nơi thế này, phải thể hiện sự kính trọng với linh hồn người đã khuất. Nhưng bây giờ bà lại không muốn quay về, bà cũng muốn đi. Biết trước thế này, bà đã đeo thêm đồ trang sức cất trong rương nhiều năm. Nhưng không đeo cũng chẳng sao. Cũng may, bà còn mang theo một chiếc lược gỗ. Bà vốn nghĩ rằng, không còn phải chăm sóc đứa cháu đau yếu nữa rồi, phải tìm một nơi thanh tịnh ngồi gỡ tóc chải đầu mới được.
Các cụ trong thôn đều đầu tóc bù xù, cứ như thể người cao tuổi là phải như vậy. Lúc này, bà cảm nhận được đứa trẻ đó đang ở sau lưng mình. Bà nói: “Cháu lại đây, ngồi xuống đi.”
Từ chỗ đang đứng nấp, Cách Lạp đi đến trước mặt bà.
`“Ngồi xuống đi.”
Cách Lạp ngồi xuống: “Bà ơi, bà biết, không phải...”
Bà Ngạch Tịch Giang giơ một ngón tay lên, suỵt một cái, nói: “Cháu nhìn xem, nó đã đi rồi, đi một cách sạch sẽ. Cháu không cần phải nói thêm nữa.”
Cách Lạp òa khóc: “Bà cũng không tin cháu.”
Bà nói: “Thỏ con đã chịu hết nỗi khổ của nó, nhưng cháu thì chưa. Nói những điều này cũng vô ích. Thỏ con nói không phải cháu còn không nhằm nhò gì, bà nói thì có ích gì chứ.”
Cách Lạp nói: “Vậy cháu phải làm sao đây!”
“Nào, chải đầu cho ta vậy, ta chẳng còn sức để giơ tay lên lâu như vậy nữa rồi.”
Cách Lạp chải đầu cho bà, cứ mỗi lần chải là lại làm đứt vài sợi tóc trắng. Bà gom chỗ tóc trắng lại, quấn quanh một ngón tay, quấn hết một ngón lại chuyển sang ngón khác. Tóc rối từ từ được gỡ ra, suôn mượt. Lấp lánh như sợi tơ dưới ánh mặt trời. Bà nói: “Hồi trẻ, tóc ta rất đẹp. Cánh đàn ông chỉ cần nhìn thấy mái tóc bóng mượt như sa tanh, suôn dài như thác đổ của ta thì phải lòng ngay.”
Cách Lạp nói: “Ồ.”
“Bọn họ còn sáng tác cả bài hát về mái tóc của ta.”
Cách Lạp lại vẫn nói: “Ồ.”
Bà có vẻ hơi cáu: “Ồ, ồ, cháu chỉ biết nói hai chữ mà những đứa câm hay nói sao? Ồ, lạ thật, ta cũng nói chữ này, không trách cháu được, con người bây giờ đã không còn biết khen ngợi và ca tụng những sự vật trước mắt rồi. Ta đã là người sắp sang thế giới bên kia rồi, còn nổi nóng với cháu làm gì chứ? Cách Lạp tội nghiệp, ta không nổi cáu với cháu nữa.”
“Bà ơi, vì sao cháu không muốn làm ai giận, nhưng người ta lại giận cháu chứ?”
“Bà không biết.”
“Vì sao cháu không làm việc xấu, nhưng việc xấu lại cứ đổ lên đầu cháu vậy?”
“Ta mệt rồi, cháu ơi, không muốn nhọc đầu óc nữa. Thỏ con, ông nội thỏ con đều ra đi một cách sạch sẽ, cháu chải đầu cho ta, ta cũng phải đi một cách sạch sẽ.”
Cách Lạp nói: “Cháu cũng không muốn ở lại thôn Cơ, nhưng cháu không thể đi được, đi rồi lại bị người ta đuổi về, hơn nữa còn có mẹ cháu, nếu không có mẹ, cháu cũng muốn đi thật.”
Bà Ngạch Tịch Giang cười khà khà, không nói gì. Ý của bà và Cách Lạp hoàn toàn khác nhau. Năm đó, Ân Ba đi tìm mẹ con Cách Lạp, vài ngày sau, hắn nhếch nhác trở về, nói chỗ nào cũng có người chốt ở các giao lộ và đầu cầu, nếu không có lá bùa giấy thì không cho phép đi chỗ khác, bà cứ nghĩ con trai bịa ra câu chuyện này, kiếm cớ để khỏi bị mất mặt, hôm nay nghe Cách Lạp nói vậy bà mới vỡ lẽ. Ông trời thương xót, trước khi đi, mối khúc mắc trong lòng cũng được giải tỏa.
“Vì sao họ không để người ta muốn đi đâu thì đi chứ?” “Ta nghĩ những người đứng chốt ở đầu đường họ cũng không biết.”
“Những con người tội nghiệp.”
“Nhưng khi ra tay đánh người họ cũng tàn nhẫn chẳng kém ai đâu!”
“Những con người đáng thương thường hay giày vò lẫn nhau.” Hai người cùng lặng thinh, chiếc lược vẫn được đưa lên đưa xuống đều đặn, răng lược lướt trên tóc, mọi rắc rối đều được giải quyết, mọi vướng mắc đều được tháo gỡ. Bà thở dài, “Cách Lạp tội nghiệp. Cháu phải trưởng thành nên người nhé.”
“Bà ơi, cháu sẽ trưởng thành, đợi cháu lớn rồi, cháu sẽ xử tội một số đứa.”
“Cháu ơi, đợi cháu khôn lớn rồi, có lẽ cháu sẽ không nghĩ như vậy nữa.”
Cách Lạp chau mày lại, khuôn mặt trông rất già dặn, “Là bọn chúng ép cháu nghĩ như vậy. Bọn chúng sẽ không bỏ qua cho cháu đâu, cháu cũng không bỏ qua cho chúng nó. Giờ cháu vẫn còn nhỏ, cháu còn phải chăm sóc mẹ cháu nữa.”
Đầu tóc đã chải xong. Cách Lạp không ngờ chải rụng nhiều tóc đến thế, tóc bà vẫn rất dày, cậu vốn cứ nghĩ chải xong đầu cho bà thì chẳng còn sợi tóc nào. Cách Lạp nói: “Bà kể hồi trẻ tóc bà rất đẹp, giờ thì cháu tin rồi.”
Bà nói: “Tiếc là không có gương.”
Cách Lạp nói: “Bà về nhà soi gương cũng được mà.”
Bà Ngạch Tịch Giang nhìn lên trời, giơ ngón tay quấn đầy tóc bạc ra, những sợi tóc bạc đó lấp lánh như sa tanh dưới ánh mặt trời. Bà cười khà khà, nói: “Cháu xem, những sợi tóc này vẫn còn rất khỏe. Chủ nhân của nó có thể sống tiếp, nhưng bà ấy không muốn sống nữa. Xã hội này chẳng còn thứ gì có thể mong đợi nữa rồi.”
Cách Lạp nói: “Bà đợi cháu nhé, cháu chạy xuống núi lấy gương cho bà.”
Bà nói: “Cháu ngồi xuống đi. Ngồi trước mặt bà.”
Nhìn đứa trẻ hoang dã ngoan ngoãn ngồi xuống trước mặt mình, bà Ngạch Tịch Giang mỉm cười hài lòng. Bà xoa xoa mái tóc bóng mượt, ngồi thẳng lưng, giắt vạt áo xòe ra xuống dưới đùi, nói: “Bà có lời này muốn nói với cháu. Bà sắp đi rồi, bà đi rồi sẽ không còn ai nói với cháu những điều này.”
Bây giờ Cách Lạp đã láng máng hiểu ra hàm ý trong câu nói này của bà, những giọt nước mắt to tròn lăn dài xuống má.
Bà dặn dò một thôi một hồi. Sau đó bảo cậu về, cậu liền xuống núi.
Đi được nửa đường cậu dừng lại, cậu nghĩ, giờ này chắc bà Ngạch Tịch Giang không muốn quay lại những ngày tháng khốn khó ở thôn Cơ đã đi rồi.
Cậu nhớ như in những lời dặn dò cuối cùng của bà, không được nói với bất cứ ai, bọn họ sẽ tự hiểu. Cách Lạp không nói với một ai. Cậu còn nhớ bà nói: “Nếu sau này còn có người thù hằn cháu vì việc của thỏ con, thì cháu cũng đừng nghĩ là quá oan uổng. Chí ít, như Ân Ba nhà chúng ta, trong thâm tâm hắn cũng rất buồn.” Nói xong, bà lại cười, Cách Lạp thấy nụ cười của bà lúc này rất giống nụ cười ngây dại đặc trưng của Tang Đan. Nhưng những gì bà nói thì tỉnh táo hơn bao giờ hết, bà nói: “Thỏ con không phải tự dưng đến với thế giới này, nó đến thu nợ, trước kia chúng ta nợ nó, ta đã trả hết rồi, cháu, Ân Ba, còn chưa trả hết. Còn có người đang mắc phải nợ mới.”