Đ
a Cát nhảy lên mỏm núi khổng lồ, miệng huýt sáo dài, ngay lập tức, núi rừng và cây cối, còn có dòng suối chảy dưới lớp băng liền im phăng phắc.
Mỏm núi nằm trong thung lũng giữa sườn Nam và sườn Bắc của trái núi này. Đa Cát đứng lên đỉnh bằng phẳng của mỏm núi, sau lưng hắn là khu rừng rậm cùng các loài cây cao to như tùng, sam, bạch dương, sồi, phía dưới cánh rừng rậm xanh rì, tuyết óng ánh phủ lên lớp rêu xanh. Phía trước mỏm núi là dòng suối đã đóng băng. Sau khi đóng băng, dòng chảy bị tắc nghẽn, nước chảy tràn ra khắp con rạch, rồi lại đóng thành băng, phủ kín cả con rạch rộng lớn, bằng phẳng. Đối diện con rạch, là sườn núi Hướng Dương không có cây cổ thụ, với những thảm cỏ vàng úa mọc đầy những bụi cây đen thui, phía trên triền cỏ là dãy núi tuyết phủ uốn lượn dưới bầu trời trong xanh.
Đa Cát giơ hai lá cờ nhỏ một xanh một đỏ lên, gió mở luôn lá cờ ra, nhờ đó có thể nhận biết hướng gió. Lúc này đã qua trưa một chút, ánh nắng chói chang, gió thổi mạnh, từ thấp lên cao, từ trên xuống dưới, thổi lá cờ tam giác về hướng thảm cỏ và dãy núi tuyết phủ.
Đa Cát vẫy mạnh lá cờ, đám người tản mát ven con rạch bèn tập trung về phía hắn.
Tư thế đứng vẫy cờ của hắn giống một vị tướng quân dũng mãnh. Có một điểm khác là, tướng quân khi phát hiệu lệnh bao giờ cũng rành mạch rõ ràng, còn hắn, lúc đọc lời cầu nguyện thì lầm rầm không rõ. Cũng không ai cho rằng cần phải nghe rõ từng chữ, vì họ đều biết nội dung của những lời cầu nguyện này.
Đa Cát đang gọi tên thần lửa và thần gió, gọi tên vị thần cai quản quả núi này. Hắn còn gọi tên đôi vịt vàng Sắc Mô Thố Lí. Hắn cảm nhận được các vị thần đã nghe thấy tiếng gọi của hắn, đã đến vùng trời trên đầu hắn, vịt vàng đang bay lượn vòng quanh, các vị thần khác thì tĩnh tọa giữa bầu trời bao la. Nụ cười nhạt lướt qua khuôn mặt hắn.
Hắn nhủ thầm trong lòng: “Mọi người đều nói giờ là thời đại mới, thời thế mới đón thần mới đến, thần mới dạy chúng ta họp hành, thần mới dạy chúng ta đọc báo, nhưng tất cả các vị thần cũ phù hộ cho thôn Cơ, con biết các ngài vẫn chưa đi, các ngài trông thấy đồng cỏ chăn thả đã hoang vu vì những lùm cây dại mọc um tùm, các ngài biết, đã đến lúc cho một mồi lửa đốt sạch những lùm cây đó rồi.”
Các vị thần hình như có chút oán trách.
Thật vậy, các vị thần cũ bị ghẻ lạnh trong thời đại mới, khiến bà con thôn Cơ phải giả vờ đã quên họ từ lâu lắm rồi.
Đa Cát nói: “Các vị thần mới chỉ phụ trách dạy chúng ta hiểu những thứ chúng ta không hiểu, chứ không phụ trách việc cây dại mọc um tùm khiến cỏ chăn nuôi không có chỗ để mọc, khiến đàn bò đàn cừu của chúng ta không có cỏ để ăn.”
Hắn thở dài, hình như nghe thấy trên trời có âm thanh huyền bí đáp lại lời than thở của hắn, thế là, hắn lại thở than: “Vì thế, lần thứ hai con thay mặt bà con cầu xin các ngài phù hộ.” Hắn nghiêng tai lắng nghe, hình như nghe thấy tiếng trả lời, chí ít thì bà con đang vây quanh bên dưới mỏm đá nhìn lên có thể trông thấy từ nét mặt của hắn, hình như hắn đã có câu trả lời của các vị thần. Ở thôn Cơ, chỉ có hắn mới có được câu trả lời của thần. Bởi vì, nhà Đa Cát, nhiều đời làm thầy mo ở thôn Cơ, là ông đồng giữa thần linh đất này với người dân thôn Cơ. Ngày thường, hắn chỉ là một nông dân tầm thường. Nhưng lúc này đây, cái lưng gù của hắn căng ra, cơ thể trở nên mạnh mẽ. Ánh mắt đục ngầu của hắn phóng ra tia sáng thiêu đốt, bộ râu quai nón lởm chởm như gai.
“Nếu phát đầu tiên dao đánh lửa bắn ra tia lửa,” Đa Cát nói to hơn, “có nghĩa là các ngài đã đồng ý!”. Nói hết câu, hắn quỳ xuống, cầm con dao đánh lửa đã chuẩn bị sẵn, phủ một lớp bùi nhùi rơm lên nhũ đá thạch anh non óng ánh, sau đó quỳ sụp xuống vái lạy.
Hỡi các vị thần linh!
Hãy để sắt và đá va vào nhau,
Hãy để sắt và đá tạo ra đốm lửa giống ánh sao,
Hãy để đốm lửa cháy lan ra đồng cỏ,
Hãy để lửa bùng cháy theo gió,
Hãy để gió thổi bay những bụi gai và lùm cây mà thần cây chán ghét,
Hãy để những gốc cây cao to của thần cây đứng vững mãi mãi,
Hỡi thần núi! Hỡi thần suối!
Hãy phù hộ cho năm tới sau khi khai hoang, gia súc đầy đàn, mùa màng bội thu!
Bài cúng tế còn chưa dứt, con dao đánh lửa trong tay hắn đã đập mạnh vào đá thạch anh. Một chuỗi tia lửa bắn ra, bùi nhùi bén lửa, giống thần núi rít nhẹ tẩu thuốc, làn khói xanh lượn lờ bốc lên từ nhúm bùi nhùi, Đa Cát dè dặt nâng lên, thổi nhẹ nhưng dài hơi vào nhúm bùi nhùi, một ngọn lửa xanh bùng lên từ trong làn khói. Hắn giơ nắm lửa về phía mọi người, mọi người đồng thanh reo lên tán thưởng. Hắn nâng ngọn lửa lên, thân thể kết nối với thần linh nhẹ nhàng nhảy xuống đất từ đỉnh mỏm núi cao hơn một trượng, nhóm lửa đống củi đã được chuẩn bị sẵn.
Đầu tiên là vỏ cây bạch dương đỏ, bạch dương trắng khô, sau đó là rêu và sương đọng trên cành cây, cuối cùng là cành tùng và cành sam bén lửa. Trong nháy mắt, đống lửa khổng lồ bùng cháy. Tiếng gió phần phật theo ngọn lửa bập bùng.
Hàng chục bó đuốc trong tay những người mang nét mặt nghiêm trang hướng về phía đống lửa, châm lửa xong họ lại giơ bó đuốc lên cao. Đa Cát tỉ mỉ quan sát, ngọn lửa ngả sang một bên, chứng tỏ hướng gió vẫn thổi về phía mặt trời và đồng cỏ hoang vu vì cây dại và bụi gai mọc um tùm, hắn nhìn đám người đang nhìn vào hắn, gật đầu, nói: “Bắt đầu đi.”
Những người cầm bó đuốc chạy xuống phía dưới men theo thung lũng đã đóng băng.
Mỗi người chạy một đoạn, châm bó đuốc vào bụi cỏ, lùm cây khô cong từ lúc giao mùa thu đông, khói bốc lên nghi ngút, sau đó, gió thổi lướt qua, ngọn lửa bắt đầu bốc lên từ bên dưới triền cỏ, từ chỗ dòng suối đóng băng. Những người còn lại đều cầm dụng cụ dập lửa, đề phòng gió, sợ nó đột ngột chuyển hướng, tạt lửa sang cánh rừng phía bắc. Tuy lửa rất khó vượt qua dải băng tuyết rộng hình thành bởi dòng suối đóng băng ở dưới thung lũng, nhưng họ vẫn đề cao cảnh giác. Mọi người đều biết, nhỡ lửa bén sang khu rừng trên sườn núi phía bắc, thì sau khi Đa Cát vào tù có lẽ phải nhiều năm nữa mới được ra.
Cũng chỉ vì châm lửa trên núi mà Đa Cát đã phải vào tù hai lần.
Hôm nay, lúc lên núi, hắn đã mang theo áo da và chăn len. Có hai thứ này, cho dù có ở trong tù, hắn vẫn có thể ngủ yên giấc, rất ấm áp. Gió thổi từ chân thung lũng lên trên, bén vào cỏ khô, bén vào bụi cây nhiều gai cứng làm hoang hóa cả cánh đồng cỏ trên núi cao, cháy rừng rực men theo hướng mà mọi người hy vọng nó cháy. Sang năm, cả triền núi nhiều cỏ dại đã bị thiêu rụi này sẽ mọc đầy cỏ xanh tươi mơn mởn.
Khói đốt cây dại bốc lên ngùn ngụt, cứ đà này thì đứng ở trụ sở công xã cách đó hơn 20 cây số cũng nhìn thấy được. Chỉ sau vài canh giờ, xe cảnh sát đã xuất hiện ở thôn Cơ, đến bắt Đa Cát đi.
Kết cục này Đa Cát biết, tất cả bà con trong thôn đều biết.
Giờ thì ngọn lửa đang theo gió cháy lên phía trên đồi cỏ, một vạt cây dại bị lửa liếm cháy xém, ngọn lửa bùng cháy cao hơn, như lá cờ căng phần phật trước trận gió mạnh. Những lùm cây dại héo khô nhiều dầu cháy rất nhanh, chỉ vài phút ngọn lửa đã thấp dần, thấp dần, lan dần theo cỏ khô bám trên đất, cuối cùng lại bén sang một vạt cây dại khác, ngọn lửa lại bùng lên hừng hực. Mọi người tản ra thành một đường thẳng tiến về phía đỉnh sườn núi theo hướng lửa cháy. Dùng cành cây sam còn tươi dập những tàn lửa còn sót lại, đề phòng đến tối, sau khi gió đổi hướng, thổi những tàn lửa này vào khu rừng trên sườn núi đối diện.
Một mình Đa Cát ở lại hẻm núi, hắn ngồi ngay ngắn ở đó, bình rượu trước mặt đã uống hết già nửa. Hắn không say, nhưng đôi mắt đỏ ngầu lộ vẻ dữ dằn. Mọi người tiến đến nơi có tuyết trên sườn núi theo vết lửa cháy, chẳng mấy chốc, lửa ở nhiều chỗ đã cháy đến nơi có tuyết rồi tự tắt. Những chỗ đang cháy cũng đã áp sát nơi có tuyết. Những người đi theo ngòi lửa đến nơi có tuyết đã hoàn thành nhiệm vụ lũ lượt quay lại khe núi. Sau khi về đến nơi, họ đều im lặng vây xung quanh hắn. Hắn tiếp tục uống, ánh mắt lại trở nên dịu dàng.
Một trận cháy rừng do cố tình châm lửa đốt cuối cùng cũng cháy xong khi ông mặt trời sắp xuống núi. Mọi người đều xuống hẻm núi, lặng lẽ ngồi xung quanh Đa Cát. Đa Cát uống giọt rượu cuối cùng. Hắn ghé sát bình rượu vào tai lắc lắc, chỉ nghe thấy gió núi gào rít ở miệng bình, nghe như tiếng tu huýt. Đa Cát đứng dậy, nhìn quanh một lượt bà con đang vây quanh hắn. Mọi người nhìn hắn, ánh mắt lộ vẻ cung kính và thương xót, ngay cả cán bộ đại đội và đám thanh niên lêu lổng trong thôn cũng vậy. Hắn cười hài lòng. Bất kể thời thế có ra sao, sẽ có một ngày, ông thầy mo phân biệt được hướng gió, có thể gọi các vị thần đến hỗ trợ, phù hộ người dân thôn Cơ đốt cây khai hoang để có được đồng cỏ chăn nuôi tốt tươi này sẽ là vua của thôn Cơ.
Hắn chậm rãi đứng dậy, lập tức có người đặt chiếc tay nải bọc cái áo da và chăn len của hắn lên lưng lừa, hắn nói: “Công an chưa đến sao?”
Mọi người đều nhìn xuống núi, rồi cùng lắc đầu, nói: “Chưa đến!”
“Bọn họ chắc chắn sẽ đến, tôi tự đi đón đường họ vậy.” Sau đó, hắn vỗ vào mông con lừa, nó và chủ nhân cùng xuống núi.
Mọi người cùng nhau đi theo sau hắn một đoạn.
Đa Cát dừng chân, xòe bàn tay trong gió, hắn chun chun cánh mũi to ngửi mùi của gió: “Mọi người xin dừng bước, nếu muốn tôi được về sớm thì hãy ở trên núi, đợi trăng lên rồi mới về nhà.” Sau đó, ánh mắt hắn lộ vẻ khiêu khích, nói, “Nếu muốn tiễn, thì để Sách Ba tiễn tôi.” Sách Ba là thanh niên đang nổi như cồn, được bổ nhiệm làm trung đội trưởng dân quân cũng được một thời gian rồi, “Nếu sợ tôi bỏ chạy, cậu ta có thể thay chính quyền nổ súng. Đương nhiên tôi sẽ không chạy, nếu không sau này đồng cỏ hoang vu sẽ không có ai nhận thay tội phóng hỏa đâu.”
Bản tính ngạo nghễ của hắn lại nổi lên, khiến trung đội trưởng dân quân Sách Ba sa sầm nét mặt. Dẫu biết rằng cánh cửa nhà lao lạnh lẽo đã rộng mở với hắn, nhưng được làm vua một ngày, tâm trạng của Đa Cát vô cùng phấn chấn, hắn nói với Sách Ba đang mặt lạnh như tiền, “Này anh bạn, đừng giận nữa, cũng nhờ có ngày hôm nay mới đến lượt tôi nói đùa, tôi sẽ không chạy đâu, là tôi nghĩ cho cậu, công an đến bắt tôi, trung đội trưởng dân quân áp giải tôi đến trước mặt họ, chẳng phải là việc khiến cậu mở mày mở mặt sao? Sau đó, cậu dắt con lừa này của tôi về nuôi là xong.”
Bà con có hai quan điểm trước thái độ của Đa Cát lúc đó.
Có người nói, Đa Cát không nên chỉ vì mắc tội do đã lấy lại sức sống cho đồng cỏ chăn nuôi mà vênh váo thế được.
Nhưng đa phần thì cho rằng, Sách Ba là đứa thích dựa hơi để đổi đời, quanh năm lúc nào cũng dương dương tự đắc, thế mà cũng không chịu để Đa Cát được đắc ý một ngày. Nhưng cũng chỉ toàn những lời lẽ vuốt đuôi.
Cũng có người nói, lúc đó Sách Ba đứng lại, vênh mặt lên nói: “Cái gì?! Tôi đồng ý dắt cho anh con lừa này về đã là tốt lắm rồi, lại còn muốn tôi nuôi nó!”
Sách Ba vừa nói dứt lời, tiếng oán trách của mọi người như con gió nhẹ nhưng đầy sức mạnh thổi qua cánh rừng già: “Ôi... Sách Ba...”
Nhưng Sách Ba rướn cái cổ dài nhẳng lên, ngồi bệt dưới đất, ngửa mặt lên trời, không nhúc nhích.
“Ôi...” Tiếng oán trách lại như gió thổi qua cách rừng u ám.
Đa Cát biết, mình chìm trong bầu không khí thiêng liêng vẫy cờ lệnh, mời gọi các vị thần và châm mồi lửa đã quá lâu rồi. Giờ đây, ngọn lửa mãnh liệt đó cũng đã cháy, cả triền núi cháy đen thui, là bằng chứng phạm tội trần trụi mà rộng khắp giữa ban ngày ban mặt, chỗ này chỗ kia còn bốc lên từng làn khói xanh còn vương vất. Cuối cùng thì Đa Cát cũng hiểu, tuy trình tự và mục đích phóng hỏa là khác nhau, nhưng trong thời đại mới này nó chắc chắn là chung một tội.
Hắn thở dài, tháo cái tay nải trên lưng lừa, khoác lên vai, cúi gập người trước mọi người, đi một mình xuống núi.
Lúc này, xe cảnh sát bật đèn chớp loang loáng tiến vào thôn. Mọi người nhìn thấy Đa Cát đã đi rất xa vẫy tay về phía xe cảnh sát đang định lên núi, hét về phía họ, nói mình sẽ xuống núi nhận tội, họ không phải lên núi cho vất vả. Vài viên cảnh sát ngồi dựa vào cửa sổ xe jeep nhìn hắn thong thả xuống núi.
Đa Cát xuống đến chân núi, công an đeo còng số tám vào tay hắn, để tay nải lên xe, lái xe đi.
Đại đội trưởng Cách Tang Vượng Đôi nói: “Hôm nay về, viết cái giấy chứng nhận, mọi người ký vào, rồi bảo lãnh hắn ra.”
Cách Tang Vượng Đôi lại nói: “Mẹ kiếp, đi nộp giấy bảo lãnh sẽ không có xe đến đón đâu, tôi đành đi bộ vậy.”
Có một thanh niên nói đùa: “Thế thì chú cưỡi con lừa của Đa Cát đi vậy.”
Kết quả là cậu thanh niên đó bị bố vả cho một cái nảy đom đóm mắt. Cậu thanh niên đó học trường trung cấp nông nghiệp trên huyện. Hiện trường đang cho nghỉ học, các thầy cô giáo đang đóng cửa học tập phê bình nên học sinh đều quay về thôn tham gia sản xuất. Cậu thanh niên rướn cổ lên, định bật lại, nhưng đã bị trấn áp bởi rất nhiều ánh mắt. Gió thổi tro bụi đen trên sườn núi bay khắp nơi. Hoàng hôn lặng lẽ buông xuống trong gió.
Trời tối cũng là lúc quan sát trên núi còn tàn lửa hay không. Nhưng trong màn đêm tối mò, không ai nhìn thấy tàn lửa lập lòe hay bay lên. Từng ngôi sao xuất hiện trên bầu trời, sau đó là mặt trăng, đỉnh núi, sườn núi đã được phác thảo nên những nét tuyệt đẹp bằng lớp băng tuyết lấp lánh, thậm chí cả bìa rừng nằm sâu trong sắc màu u ám cũng tỏa ra ánh sáng xanh óng ánh. Những chỗ đã được đốt khai hoang còn đen hơn, u ám hơn cả màn đêm, chẳng khác gì vực sâu không đáy bất ngờ xuất hiện giữa thế giới này.
Nhìn cả một vùng đen ngòm không chút ánh sáng, cả một vùng đất bị ngọn lửa rừng rực đốt cháy đã nguội lạnh hoàn toàn trong đêm đông giá rét, gió không thổi bay tàn lửa, không thiêu rụi cánh rừng khác thành ra thế này nữa thì mọi người mới yên tâm xuống núi về nhà. Chỉ đợi sang năm, đồng cỏ chăn nuôi đã đốt sạch cây dại sẽ mọc đầy cỏ xanh mơn mởn.
Đa Cát đã bị đưa về đến công xã, trưởng đồn công an, lão Ngụy gọi người mở còng tay, bảo hắn ngồi trước bàn của mình. Còn gọi người mang một cốc nước nóng vào.
Lão Ngụy thở dài: “Lại đến rồi à.”
Đa Cát cười ngượng: “Nếu tôi không đến, những thứ cây dại bỏ đi ấy sẽ mọc kín đồng cỏ, bò cừu ăn không được no, trà không có sữa, bánh không có dầu, cuộc sống chật vật, kham khổ!”
“Nói vậy, anh thành anh hùng rồi.”
Đa Cát cười, nói: “Những việc này, làm rồi không thành anh hùng, còn nếu không làm, mọi người sẽ nói thầy mo không làm tròn bổn phận.”
“Anh có thể không làm thầy mo.”
“Số tôi thế rồi, bố tôi là thầy mo nên tôi cũng là thầy mo.”
“Thế thì con trai anh cũng là thầy mo rồi.”
“Bây giờ không ai chịu lấy thầy mo, tôi không có con trai, sau này, đồng cỏ chăn nuôi bị hoang hóa thì mọi người phải tự lo thôi.” Hắn còn bồi thêm một câu mà sau này lại chính là bằng chứng chống lại hắn, hắn nói: “Cái gì các ông cũng cải tạo, hay là để bò, cừu đổi sang ăn lá cây đi?”. Khi cuốn tiểu thuyết này sắp miêu tả đám cháy bốc lên, chính câu nói này, không chỉ sẽ khiến lão Ngụy không được làm công an, mà còn khiến hắn bị mang vạ, đến cả hắn lúc đó cũng không thể tưởng tượng nổi.
Hắn vừa nói dứt lời, thì có một viên cảnh sát trẻ lạnh lùng nói: “Phản động!”
Nhưng lão Ngụy im lặng hồi lâu, nói: “Anh nói thật đi, không châm mồi lửa này không được sao?”
Đa Cát đáp rất nhanh: “Giống như ông không bắt tôi không được.”
Lão Ngụy khoát tay, nói: “Dẫn xuống đi, đừng để anh ta chết cóng đấy, sáng sớm mai sẽ đưa lên huyện.”
Đa Cát nói: “Tôi ở lại thêm hai ba ngày thì hơn, giấy bảo lãnh của đại đội sẽ được mang đến, tôi sẽ cầm giấy bảo lãnh lên huyện luôn.”
Viên cảnh sát trẻ nói: “Giấy bảo lãnh được đưa tới thì anh không phải ngồi tù sao?”
“Thế sao được chứ? Ăn Tết trong tù vui chán, có bạn. Theo tôi, vẫn như mọi năm, vào xuân, xuống giống, đội sản xuất cần người làm, thì tôi phải về thôi.”
Lão Ngụy thở dài: “E rằng năm nay không như mọi năm.”
Đa Cát chớp chớp mắt: “Đông đi xuân về, năm nào chẳng vậy.”
Viên cảnh sát trẻ cao giọng: “Cuộc cách mạng văn hóa bắt đầu rồi! Giang sơn gấm vóc nhuộm một màu đỏ, năm nay làm sao vẫn như những năm trước được!”
Đa Cát lắc lắc đầu: “Lại thêm một việc tôi không hiểu.”
Do châm lửa khai hoang nên Đa Cát và lão Ngụy gặp nhau không chỉ một hai lần. Lần đầu, hắn rất sợ, lần thứ hai hắn rất tủi thân, bây giờ việc này chỉ là đến lúc làm cho phải phép thôi. Hồi đầu, lão Ngụy cũng dữ dằn với hắn hệt như cậu thanh niên này nhưng giờ thì ngày càng nhã nhặn với hắn. Đa Cát dẫn theo người đốt cây khai hoang là vi phạm pháp luật của nhà nước. Luật cũng giống như kinh văn trước kia viết rất rõ cái gì được làm, cái gì không được làm. Nhưng luật và kinh văn cũng có chỗ khác nhau. Một người vi phạm những điều trong kinh văn, báo ứng gì cũng phải đợi đến kiếp sau. Nhưng luật thì thực hiện ngay, theo mức độ phạm tội nặng hay nhẹ, hoặc là mất mạng, hoặc là ngồi tù lâu hay chóng.
Bà con thôn Cơ đến giờ vẫn không hiểu lắm, núi non rừng rậm tổ tiên ông bà sống dựa vào bao đời nay làm sao mà chỉ trong một đêm lại mọc ra cái gọi là chủ nhân của đất nước. Lúc họ thắc mắc như vậy, bên trên trả lời rằng, các bạn cũng là chủ nhân của đất nước, vì thế các bạn vẫn là chủ nhân của núi non và rừng già. Nhưng khi họ châm một mồi lửa tại núi rừng của mình, để bò cừu được ăn no béo tròn thì nhà nước lại lôi người thủ lĩnh đi.
Những thắc mắc ngây thơ nhưng u mê tối tăm của của bà con thôn Cơ quả thật khiến bên trên bối rối. Vì thế cứ mỗi lần như vậy, họ không thể không dẫn Đa Cát đi, cho vào tù, nhưng chỉ một hai tháng, hay ba tháng sau thì thả hắn ra.
Lần nào Đa Cát cũng bị cảnh cáo, sau này không được phóng hỏa nữa. Lần đầu, thôn Cơ ba năm không phóng hỏa, kết quả là đầu năm thứ tư, đàn cừu không đủ cỏ ăn trong mùa thu đã chết hơn một nửa trước khi cỏ xuân mọc. Năm đó, bò cái không đẻ bê con, bò đực không kéo nổi cái bừa làm đất vụ xuân. Lúc đó mới xin ý kiến của công xã. Hồi thôn Cơ vừa giải phóng, bí thư công xã từng công tác ở đại đội. Ông không nói được, cũng không nói không được, được ông ngầm đồng ý, người dân thôn Cơ liền phóng hỏa khai hoang. Đa Cát bị nhốt hai tháng, nhưng bí thư công xã bị chụp mũ hữu khuynh, mất luôn cả chức. Sau này, ngay cả cán bộ thôn Đa Cát cũng không xin ý kiến, tự dẫn bà con thôn Cơ đốt lửa khai hoang.