• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Núi vắng
  3. Trang 27

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 39
  • Sau

7

N

gày thứ ba, ngọn lửa ở đằng xa cháy càng dữ dội hơn.

Lửa cháy bùng lên chắc chắn gió to cũng nổi lên, thôn Cơ cách đám cháy mấy quả núi nhưng cũng cảm nhận được gió ngày càng to. Gió còn thổi tung cả tàn cây cỏ cháy rụi. Tro tàn màu đen có mùi khét lẹt lúc đầu chỉ lác đác, đến buổi chiều, thì chẳng khác gì tuyết rơi từ trên trời xuống.

Những tàn tro này còn được gọi một cách dân dã là quạ lửa.

Quạ lửa bay trong không trung, cả bầu trời là màu đen xui xẻo, khiến người ta khó thở. Quạ lửa còn có một điểm rất ghê gớm. Trong số tro tàn bị gió cuốn lên không trung, sẽ có những tàn lửa chưa cháy hết, những tàn lửa này phần lớn là cháy dần trong quá trình bay nhảy theo gió, rồi tắt lịm. Nhưng cũng sẽ có những tàn lửa chưa cháy hết tìm được cơ hội rơi xuống rừng cây khô cằn, rồi cũng sẽ có tàn lửa vừa vặn rơi xuống cánh rừng, rơi vào đám lá khô dễ cháy, rồi thể nào cũng sẽ có một cơn gió thổi tới, châm ngòi cho tàn lửa cháy bén lá khô và rêu phong.

Vì vậy, theo kinh nghiệm của bà con địa phương, khi một đám cháy rừng khuấy động cả không khí, dẫn đến gió to, gió to thổi quạ lửa ra khắp bốn phương tám hướng thì đám cháy rừng đó coi như đã mất kiểm soát. Tiếp theo, sẽ thiêu rụi bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu thôn làng, thì chỉ còn biết phó thác cho trời, mặc cho ngọn lửa muốn cháy ra sao thì ra.

Cũng giống như những thôn làng được bao bọc bởi núi non trùng điệp, thôn Cơ rất dễ bị cháy bởi quạ lửa.

Gió khô lạnh thổi cả một mùa đông, khiến trong không khí của các thôn làng đã không còn ngửi thấy dù chỉ là một chút mùi ẩm ướt của nước, còn mùa xuân đến ngay sau cũng không mang đến được không khí ẩm ướt và nước mưa. Ánh nắng như thiêu như đốt chiếu thẳng lên ngói gỗ trên mái nhà, cứ như thể sắp bốc cả khói, lúc này nếu có một chút tàn lửa chưa cháy hết rơi rớt lên đó, ngọn lửa sẽ bùng lên ngay. Còn chưa kể đến, trên những chạc cây bách và thông liễu khổng lồ ở giữa thôn còn treo khá nhiều cỏ hong khô. Mùa đông tuyết rơi ít, bò cừu ngày nào cũng có thể lên núi, vì thế còn thừa rất nhiều cỏ khô. Đó là nơi mà quạ lửa bay khắp nơi rất thích đáp xuống.

Cách Tang Vượng Đôi vội vã quay về thôn, quả nhiên không thấy có động tĩnh gì.

Lũ trẻ con tụ tập ở cổng làng, đứng nhìn ngọn lửa đang ngùn ngụt bốc lên trời.

Còn người lớn trong thôn thì tập trung họp ở quảng trường giữa thôn.

Bây giờ không có tổ công tác, gặp phải chuyện gì người thôn Cơ cũng tự tập trung lại họp. Cách Tang Vượng Đôi nghĩ, lúc mối nguy đang cận kề mọi người tập trung họp hành, thương lượng cũng là việc nên làm. Nhưng không ngờ, cuộc họp không hề bàn vấn đề mà anh ta nghĩ sẽ là nội dung thảo luận.

Trung đội trưởng dân quân Sách Ba nhìn thấy đại đội trưởng đã về, miễn cưỡng bước xuống từ chiếc ghế gỗ được dùng làm bục phát biểu: “Đại đội trưởng, anh phát biểu đi, công xã gọi điện đến, có hai nội dung: Một là, tên tội phạm phản cách mạng, phóng hỏa Đa Cát đã bỏ trốn, bất cứ ai trong toàn thôn, miễn là phát hiện hắn trở về, lập tức báo cáo cấp trên! Hai là,” Sách Ba chỉ tay về phía ngọn lửa đang từ cửa sông cháy lan sang, “mọi người đều đã trông thấy rồi, rừng của quốc gia đang bị cháy, cấp trên lệnh cho chúng ta tổ chức ngay một đội cứu hỏa, đến ngay công xã tập trung, gấp rút đến hiện trường vụ cháy!”

Có người thấy con người lòng đầy dã tâm này quá chướng mắt: “Cậu chẳng phải vừa bảo đại đội trưởng phát biểu sao? Bản thân sao còn chưa ngậm miệng lại chứ?”

“Đa Cát vì thôn Cơ mà phạm tội, chúng ta làm sao có thể giao cậu ấy cho công an được chứ!”

Những lời này, Sách Ba coi như gió thoảng bên tai. Cậu ta nói: “Đại đội trưởng, đội dập lửa do cháu dẫn đầu, thanh niên trong thôn Cơ đều đi hết, Đa Cát giao cho chú, nhất định không được để hắn chạy mất!”

Cách Tang Vượng Đôi chau mày, nét mặt không phải cái vẻ rầu rĩ quen thuộc. Anh ta giơ tay ra chộp một cái trong không khí, chộp được một con “quạ lửa” thật. Anh ta giơ tay ra trước mặt Sách Ba, đó là một mảnh tro tàn lá cây, sau đó nói lớn: “Thưa bà con, cái này, mới là việc chúng ta phải để tâm nhất hiện nay.”

Bên dưới lập tức có rất nhiều người phụ họa theo.

“Bây giờ, đàn ông lập tức trèo lên mái nhà, dỡ hết ngói gỗ xuống, các chị em chuyển toàn bộ cỏ khô trong thôn ra ngoài thôn! Cỏ dưới gốc cây, cả cỏ khô trong chuồng dê chuồng lợn cũng phải gom lại chuyển hết ra ngoài thôn!”

Mọi người nghe vậy liền làm theo, nhưng Sách Ba lại hét lên: “Dân quân không một ai được đi!”

Một số thanh niên đứng lại, nét mặt khó xử.

Sách Ba lại hô to: “Ương Kim, đoàn viên thanh niên mấy người không tuân theo chỉ huy của cấp trên sao?”

Bố Sách Ba bước lên, tát cho cậu ta một cái, trong đám đông có người reo lên hay quá, nhưng khi giơ tay lên tát cái thứ hai, tay ông bị thằng con trai túm chặt. Sách Ba nói rành rọt từng chữ: “Lão già lạc hậu này, còn ra tay đánh nữa, tôi sẽ gọi dân quân trói ông lại!”

Bố Sách Ba lặng người đi, khi con trai ông đi tập hợp đội ngũ của mình, môi ông vẫn run run không nói nên lời. Ông biết, ở cái làng này, mình không còn thể diện của một người đàn ông nữa rồi.

Lực lượng dân quân, còn có cả đoàn thanh niên tập hợp lại, nhưng nghe thấy các cụ gọi, một số thanh niên liền rời khỏi hàng.

Sách Ba nói có ý đe dọa: “Bọn bay đúng là lạc hậu, sa ngã!”

Cậu ta lại lao đến trước mặt Cách Tang Vượng Đôi: “Anh đã phạm sai lầm nghiêm trọng!”

Cách Tang Vượng Đôi cũng gân cổ hét lên: “Mày không sợ lửa cháy lan đến đây sao?”

Sách Ba cười khẩy: “Lửa cháy ở bên kia sông! Anh đã bao giờ trông thấy lửa băng qua sông chưa? Ai từng nhìn thấy lửa băng qua sông nào?”

Cách Tang Vượng Đôi bị đuối lý, vẻ mặt tội nghiệp như ngày thường.

Nhưng Trương Lạc Tang lại tiếp lời: “Tôi đã nhìn thấy.” “Cái thằng lười chảy thây chảy xác, tao có hỏi mày không?”, thôn Cơ có hai gã độc thân, một là thầy mo Đa Cát, hai là Trương Lạc Tang. Thầy mo là vì nghề của hắn, còn Trương Lạc Tang là vì lười nhác. Có một thân một mình, không cần phải ngày nào cũng ra đồng lao động.

Trương Lạc Tang cười nhạt, đủng đỉnh nói: “Anh cũng có nói là người lười không được trả lời đâu.”

Sách Ba có thể sửng cồ với đại đội trưởng nhưng không dám dây vào loại người này.

Vẫn là cô nàng mập ú Ương Kim mặt mày đỏ dừ, tóc sũng mồ hôi chạy đến hô to: “Báo cáo trung đội trưởng, đội ngũ đã tập hợp xong.”

Sách Ba thừa cơ nhảy xuống, dẫn toán người của cậu ta ra khỏi thôn. Ra đến đường cái bên ngoài thôn, bọn họ bắt đầu hát, tiếng hát rời rạc. Nhưng họ vẫn hát, lao về phía ngọn lửa đang cháy ngày càng dữ dội.

Cách Tang Vượng Đôi nhìn đám thanh niên đi xa dần, cái vẻ do dự thiếu quyết đoán lại hiện trên khuôn mặt.

Trương Lạc Tang bước lên, nói: “Anh bạn, được lắm, làm rất tốt!”

“Vậy mọi người làm nhanh tay lên nào!”

Ở giữa thôn, không tính cây nhỏ, cây to tán rộng, có thể che mưa che nắng cả thảy có năm cây. Hai gốc bách cổ thụ, ba gốc vân sam. Trên khoảng trống khô hanh dưới mấy gốc cây cổ thụ, là nơi chất cỏ khô của thôn. Lúc các bà các chị nhào về phía những đống cỏ khô đó, đàn vịt mỏ đỏ đang chạy quanh gốc cây kêu inh ỏi. Ngọn lửa đằng xa vẫn ngày một dữ dội, còn cách vài dãy núi cơ, nhưng ngọn lửa ngùn ngụt khiến không khí ở đây cũng co rúm lại, làm mọi người thấy ngột ngạt khó thở. Các bà các chị ôm cỏ khô đã buộc thành bó chạy về phía cánh đồng lúa mạch non èo uột, đàn vịt mỏ đỏ bị hoảng sợ cũng bay theo, khi các chị em chạy lại gốc cây, đàn vịt lại quạc quạc bay về theo.

Cánh đàn ông đã trèo lên mái nhà, dỡ từng chiếc ngói gỗ, ngói gỗ khô cong nhẹ bẫng. Lộ ra nóc bê tông vuông vức ở bên dưới. Các bản ở thôn Cơ dùng ngói gỗ làm thành mái nghiêng là để cho đẹp, nóc bê tông vuông vức phía dưới mới có tác dụng chống nước chống rét. Mọi người còn vẩy rất nhiều nước lên nóc nhà bê tông, xếp đầy chậu sứ, thùng gỗ, vại sành chứa đầy nước.

Làm xong đâu đấy, Cách Tang Vượng Đôi đứng thẳng người, mỉm cười mãn nguyện. Lúc này, hoàng hôn đã buông xuống. Nhưng sương chiều hoàng hôn lại không xuất hiện như mọi khi. Màu xanh nhạt ấy là khói lam chiều, là mây mù hiện ra trước mắt như nỗi niềm tâm sự. Khuôn mặt mọi người nhập nhoạng trong cảnh chiều hôm và ngọn núi tuyết xa xa bị ánh lửa chiếu vào đỏ lựng. Đàn vịt mỏ đỏ bình thường đã nghỉ ngơi trên những cây đại thụ trong thôn từ lâu giờ này vẫn bay lượn kêu om sòm trên trời. Cách Tang Vượng Đôi dặn dò mỗi nhà phải cắt cử một người trông đêm trên mái nhà, nếu phát hiện quạ lửa bay khắp nơi bén lửa chỗ nào thì phải thông báo ngay.

Tối hôm đó, nhà nào trong thôn Cơ cũng lấy chiếc tù và sừng trâu nhiều năm không dùng đến ra.

Trước giải phóng, trên núi thường có thổ phỉ đến cướp bóc, tù và thường xuyên được thổi. Sau giải phóng, đã hơn chục năm không dùng đến thứ này. Mọi người lấy tù và ra, đứng trên nóc nhà mình thổi thử.

Cách Tang Vượng Đôi đứng giữa quảng trường, cảm giác tự hào hồi mới được làm cán bộ thôn lại tràn về. Cảm giác này khiến anh ta xúc động đến mức hai tay run run. Tiếc thay, cái cảm giác tự hào đó chỉ duy trì được ba bốn năm đầu, sau đó thì không theo kịp sự phát triển của thời cuộc. Thời cuộc. Đến giờ anh ta vẫn sợ nghe thấy từ này. Điều khiến người ta khó hiểu là, hoa màu trên đồng vẫn gieo trồng, vẫn là đông đi xuân về, con người vẫn sinh lão bệnh tử, vì sao lại có cái gọi là thời cuộc mà nhìn không ra sờ không thấy, chẳng khác gì một người tính tình nóng nảy, lòng như lửa đốt lao về phía trước. Anh không theo kịp thời cuộc rồi! Cái thời cuộc gấp gáp lên đường làm cho mọi người mệt mỏi rã rời. Thời cuộc biến kinh nghiệm cũ của con người thành thứ bỏ đi.

Kinh nghiệm xưa bảo rằng, một mẫu đất không thể thu hoạch mười nghìn cân lúa mì, nhưng thời cuộc nói có thể.

Kinh nghiệm xưa bảo rằng, đồng cỏ chăn nuôi hoang vu vì cỏ cây dại thì phải đốt đi, nhưng thời cuộc nói làm thế là phá hoại.

Kinh nghiệm xưa bảo rằng, giữa các thế hệ phải có tôn ti trật tự, nhưng thời cuộc lại khuyến khích đám thanh niên coi trời bằng vung, làm phản!

Nhưng, lúc này, nhìn ngọn lửa cháy rừng rực nơi chân trời, nhìn quạ lửa rơi vào lòng bàn tay, nhìn tro tàn đen bị lửa và gió thốc lên trời lúc khu rừng bị cháy, Cách Tang Vượng Đôi thấy rất hài lòng với cách mà mình đã làm.

Bận rộn cả một ngày, giờ Cách Tang Vượng Đôi mới nghĩ đến Đa Cát đã trốn về. Căn nhà trống trải của Đa Cát nằm lặng lẽ ở ven thôn. Hàng rào quanh sân đổ xiêu vẹo. Trên đất loáng thoáng có vài cánh hoa táo rụng. Cách Tang Vượng Đôi vừa giơ tay lên, cánh cửa gỗ nặng nề đã kẽo kẹt mở ra. Một vệt sáng đỏ sẫm ùa vào theo.

Cách Tang Vượng Đôi suýt nữa thì gọi chủ nhà, nhưng sực nhớ ra chủ nhân vắng nhà đã lâu, giơ tay sờ thấy công tắc đèn ở cột nhà, đèn bật sáng.

Cách Tang Vượng Đôi rón rén đi vào nhà, trông thấy ngay vết chân mờ trên lớp bụi trên nền nhà. Anh ta đắc ý nhủ thầm: “Thằng cha này, không biết ta đây có đôi mắt tinh ranh của một thợ săn sao?”

Vết chân đó đi lên gác, anh ta cười, cũng lên theo, thấy chiếc tủ cạnh lò sưởi có đã người mở ra, lọ muối bị xê dịch vị trí, anh ta còn phát hiện, chỗ treo dao trên tường trống một chỗ, người này còn lấy đi cả tấm da gấu ở trên giường, một bộ đồ đánh lửa.

Cách Tang Vượng Đôi thấy yên lòng, một người đàn ông thôn Cơ, có những thứ này, sống trong rừng bao lâu cũng không thành vấn đề.

Cách Tang Vượng Đôi về nhà, lấy một miếng mỡ lợn, một bao bột mì, cả một hũ rượu nhỏ, nếu Đa Cát bị thương thật, thì rượu sẽ phải dùng đến. Trên núi có cây bảy lá một hoa, bới lấy rễ, bôi với rượu, vết thương tụ máu cũng sẽ tan hết. Anh ta cầm những thứ này đi ra ngoài thôn. Đi được một đoạn lại quay về.

Trên đường về, mặt trăng bị ánh lửa chiếu đỏ lựng đã lên cao, Cách Tang Vượng Đôi tay chắp tay sau lưng, chậm rãi đi dưới ánh trăng đỏ sẫm. Vào buổi tối đáng lẽ phải mát lạnh này, hai má anh ta cảm nhận được sức nóng của ngọn lửa. Anh ta nghĩ, tai họa giáng xuống rồi. Phải bảo vệ an toàn cho bà con thôn Cơ trong cơn thảm họa này. Tối nay, Cách Tang Vượng Đôi chắp tay sau lưng đi trên con đường về thôn Cơ như cán bộ bên trên cử xuống.

Xung quanh mọi thứ đều bất an. Chim muông trong rừng thỉnh thoảng lại hoảng hốt bay lên, bay lòng vòng không mục đích trên trời một hồi lại quay về tổ. Một số loài động vật chạy từ trong rừng ra, ngơ ngác nhìn một hồi rồi lại chui vào rừng. Ngay cả những loài bình thường xưng bá trong rừng, lúc nào cũng ngông nghênh khệnh khạng, thì hình như cũng bấn loạn. Vào những đêm trăng sáng, sói thường ngồi trên sườn núi, nhìn về phía dãy núi trống trải hú lên như hát. Nhưng tối nay, sói lại giống như chó đói, khịt khịt mũi, đuôi ngoáy loạn xạ, chạy thục mạng trên con đường trống trải. Gấu cũng bực bội, cứ đấm thùm thụp bàn tay dày hự vào ngực.

Dòng suối cũng gào thét, vì đám cháy khiến nhiệt độ tăng cao, băng trên núi tuyết tan chảy xuống, khiến nước suối dâng cao. Lửa càng cháy càng dữ dội, không hiểu những người đi dập lửa đã làm gì. Lửa đã cháy đến mức này, e rằng con người cũng khó mà làm được gì. Ngọn lửa lại leo lên một sườn núi khác.

Lúc này, Cách Tang Vượng Đôi thề: Miễn là có thể bảo vệ được thôn Cơ, có phải hy sinh tính mạng này cũng không tiếc. Thề nguyện xong anh ta cũng thấy yên lòng. Anh ta cười một mình, nói: “Ai bảo mình là cán bộ to nhất ở thôn Cơ chứ?”

Anh ta đã quên, cũng chính vì không theo kịp thời cuộc mà vị trí đại đội trưởng của anh ta đang chịu sức ép to lớn trước đám thanh niên. Hơn nữa, nếu anh ta chết, bọn họ không cần phải khiêu chiến với một người đã chết.

Anh ta vẫn không yên tâm về Đa Cát. Về đến thôn, anh ta gõ cửa nhà Lạt-ma Cống Bố thôn Giang,

Ân Ba ra mở cửa, Cách Tang Vượng Đôi chỉ nói ngắn gọn: “Mời Lạt-ma xuống nói chuyện.”

Cống Bố thôn Giang xuống nhà, Cách Tang Vượng Đôi nói thẳng luôn: “Cháu muốn nhờ bác một việc.”

“Cứ nói.”

“Đa Cát về rồi.”

Mắt Cống Bố thôn Giang sáng lên, nhưng không nói gì.

“Hắn trốn về, công an đang tìm bắt hắn khắp nơi. E là hắn đã bị thương, cháu muốn bác đi thăm hắn.”

Cống Bố thôn Giang nói: “Lạt-ma khám bệnh là mê tín phong kiến, tôi không dám.”

Cách Tang Vượng Đôi nói: “Bác hận cháu vì cháu dẫn người đến đấu tố bác.”

Mắt Cống Bố thôn Giang lại sáng lên, nhưng vẫn lặng thinh không nói gì.

“Vậy thì bác cứ oán hận cháu đi. Nhưng một mình Đa Cát trốn trên núi, cháu không yên tâm, cháu không dám gọi bọn bác sĩ chân đất, cháu không tin đám thanh niên đó, đành phải đến cầu xin bác.” Sau đó, anh ta cười một mình, “Bác xem, cháu đấu tố bác vì cháu là đại đội trưởng thôn Cơ, cầu xin bác cũng vì cháu là đại đội trưởng thôn Cơ.”

Cống Bố thôn Giang quay người biến mất sau cánh cửa đen ngòm, Cách Tang Vượng Đôi chờ một lúc, vị cựu Lạt-ma hoàn tục quay lại. Ông mặc thêm một chiếc áo, đội chiếc mũ bịt kín tai, vai đeo một chiếc ruột tượng nhỏ.

Hai người lặng lẽ đi đến cổng làng, Cống Bố thôn Giang dừng lại, nói: “Nói cho tôi biết bệnh nhân của tôi ở đâu được rồi chứ?”

Cách Tang Vượng Đôi nói: “Bác phải hứa không được nói cho ai biết, kể cả người nhà bác.”

Cống Bố thôn Giang gật đầu.

Cách Tang Vượng Đôi lấy những thứ mình đã chuẩn bị ra, đưa cho Cống Bố thôn Giang, cho ông biết vị trí, rồi nói: “Bác đi đi, nếu bị người khác phát hiện, bác cứ đổ hết trách nhiệm lên đầu cháu, cũng là để hả nỗi giận trong lòng bác với cháu.”

Cống Bố thôn Giang nghiêm nghị nói: “Cậu chịu để tôi làm việc này, tôi đã không còn hận cậu nữa rồi.” Nói rồi quay người lên đường, bóng ông chẳng mấy chốc biến mất trong màn đêm.

Đêm hôm đó, Cách Tang Vượng Đôi có một giấc ngủ nặng nề.

Trời vừa tảng sáng, Cách Tang Vượng Đôi mơ thấy một giấc mơ. Trong giấc mơ anh ta đóng hai vai. Ban đầu, anh ta là thợ săn, vác súng săn, choàng tấm áo mưa to xù, ngồi đợi ở cửa núi. Anh ta đang chờ một con gấu xuất hiện. Cách Tang Vượng Đôi đã mấy lần mơ thấy con gấu này. Bởi vì, trong cuộc đời đi săn, duy nhất có con gấu này đã ba lần thoát khỏi họng súng của anh ta. Giờ trong giấc mơ, anh ta ngồi phục ở gốc cây, xà cạp buộc chân thít chặt, khiến anh ta có cảm giác đôi chân này bất cứ lúc nào cũng có thể bật lên khi cần thiết. Và rồi, con gấu xuất hiện, lần này, nó không trốn không tránh mà đi thẳng đến trước mặt anh ta, đứng thẳng lên như người, vỗ ngực một cách bực dọc và cáu kỉnh: “Anh bạn, ngọn lửa đã đốt cháy không khí, tôi khó thở quá, anh cho tôi một phát đi.”

Cách Tang Vượng Đôi nói: “Thế chẳng phải quá dễ dãi cho mày sao? Tao muốn nhìn thấy mày bị lửa đuổi chạy khắp núi.”

Gấu đen nói: “Thế thì hẹn gặp lại sau trận hỏa hoạn nhé.” Cách Tang Vượng Đôi còn chưa kịp trả lời thì trong giấc mơ đã biến sang vai khác. Nói một cách chính xác thì trong giấc mơ anh ta lại trở về thân phận đại đội trưởng. Trong mơ, đại đội trưởng lòng như lửa đốt, vì anh ta thấy đám thanh niên coi trời bằng vung kia đang bị mắc kẹt trong biển lửa. Sách Ba, Ương Kim và một số thanh niên trong thôn, vẻ cuồng nhiệt trên khuôn mặt họ giờ đã thay bằng nỗi tuyệt vọng và sợ hãi. Lửa chồm lên những thân cây cao lớn xung quanh họ, rồi từ dưới lên trên, bốc cháy như ngọn đuốc khổng lồ sáng rực trời. Anh ta sốt ruột muốn lao đến cứu bọn họ. Nhưng, một thân cây chứa đầy nhựa thông nổ ầm một cái như bom, một quả cầu lửa ập tới, hất tung anh ta lên trời. Anh ta hét lên, tỉnh dậy. Đầu tiên là nghe thấy tiếng cỏ khô loạt xoạt dưới đệm, sau đó là cảm nhận được mồ hôi lạnh nhễ nhại trên trán. Anh ta mở mắt, ánh mặt trời chiếu vào cửa sổ như lá cờ đỏ khổng lồ đang lay động trong gió.