S
au khi vượt qua sông, tấm bình phong tự nhiên, lửa cháy đến sau lưng ngọn núi khổng lồ phía Đông Nam thôn Cơ. Càng ở gần, thôn Cơ lại càng không nhìn thấy ngọn lửa dâng cao. Khói mù mịt che gần hết toàn bộ khoảng trời phía Đông Nam, tia nắng yếu ớt xuyên qua khói bụi, màu trắng xám như ánh ban mai có pha chút đỏ tươi u ám, phủ lên vạn vật, có cảm giác ly kỳ, hoang đường như trong mơ.
Bầu không khí không còn co giật mãnh liệt nữa, nhưng gió vẫn gieo rắc tro tàn mà đám cháy đã tung lên trời, chẳng khác gì một trận tuyết xám không có điểm dừng. Chưa đến hai ngày, nóc nhà, nền đất, cây cối ở thôn Cơ đều bị phủ một lớp tro bụi mỏng, càng tăng thêm cảm giác mơ hồ giữa thế giới và con người.
Một chút hơi nước cuối cùng trên cánh đồng cũng bốc hơi gần hết, cây mạ khô héo lại là chút màu xanh duy nhất, vì thế, cánh đồng có vẻ xanh mát hơn.
Cách Tang Vượng Đôi giơ tay định sờ vào chút màu xanh đó, nhưng tay vừa chạm vào, cây mạ khô héo liền vỡ vụn. Trước tình cảnh này, Cách Tang Vượng Đôi thấy mình còn cười được. Nhưng anh ta không vì thế mà tự trách bản thân. Trung Quốc rộng lớn, nơi này thất thu, chính phủ sẽ chuyển lương thực ở nơi khác đến. Cũng chỉ vì thói quen của một nông dân, cũng chỉ lo lắng nên anh ta mới ra đồng đi một vòng. Anh ta lo cho an toàn của đám thanh niên trong thôn, nhất là Sách Ba, nó là đứa lỗ mãng không biết trời cao đất dày, hơn nữa dã tâm bị kích động sẽ càng khiến nó và đám bạn mạo hiểm bất chấp tất cả. Hơn chục năm trước, anh ta cũng là phần tử tích cực giống như Sách Ba. Hồi đó, xã hội mới vừa giúp anh ta cởi bỏ thân phận nông nô. Giống như Sách Ba, hồi đó anh ta cũng là trung đội trưởng dân quân. Sau đó làm chủ tịch hợp tác xã cao cấp, sau khi công xã hóa thì làm đại đội trưởng đội sản xuất. Xã hội mới đã giúp người thấp hèn như anh ta được đổi đời, lật đổ thổ ty. Nhưng đám thanh niên như Sách Ba lại ngược lại, đây là điều mà anh ta không hiểu nổi.
Cách Tang nghĩ, bọn họ chỉ luôn thích đám thanh niên sao? Nghĩ đến đây, anh ta mỉm cười, lần này cười là vì trong lòng thấy hoang mang và hụt hẫng.
Cách Tang Vượng Đôi biết, thật ra, Sách Ba và đám thanh niên không khiến anh ta bận tâm từ lâu rồi.
Nhưng anh ta vẫn là người đứng đầu được cấp trên bồi dưỡng, đương nhiên lo lắng thôn Cơ sẽ không thể bình an vượt qua được kiếp nạn này.
Cách Tang Vượng Đôi biết rằng mình không phải người thông minh. Nhưng anh ta lại có thể khiến đủ loại người ủng hộ mình.
Những cánh rừng ở thôn Cơ, xưa nay anh ta dựa vào hai người để bảo vệ. Một là lão Ngụy ở đồn công an công xã, hai là thầy mo biết phân biệt hướng gió núi Đa Cát. Bây giờ, lão Ngụy đã bị thanh trừng, Đa Cát trốn tù ẩn náu trong rừng, sau này không thể xuất đầu lộ diện được nữa. Anh ta quyết định vẫn phải đi thăm Đa Cát một chuyến. Lúc này có một việc có thể làm cũng khiến anh ta yên lòng hơn.
Trên đường đi, Cách Tang Vượng Đôi liên tục phải dừng lại vì khát nước, anh ta nhoài người xuống cạnh suối uống từng ngụm nước to. Lửa còn chưa tới, nhưng không khí đã bị nướng đến khô cong. Khi anh ta quỳ xuống lớp đất mềm xốp ẩm thấp bên bờ suối, chổng mông lên, ghé sát mặt vào dòng nước mát lạnh, nghe thấy cả tiếng nước chảy vào cổ họng, khi dòng nước mát lạnh thấm vào ruột gan, bất giác anh ta lại nghĩ mình đang từ trong rừng đi ra, giơ súng săn lên, nhắm vào con gấu đang thỏa thuê uống nước bên bờ suối. Không ngờ, dòng nước như rượu này lại khiến anh ta lâng lâng, khi bừng tỉnh, cũng không biết mình là thợ săn hay con gấu.
Điều này khiến anh ta thấy bất an hơn, lập tức vội vã lên đường, cho đến khi không khí khô hanh khiến ngực anh ta bỏng rát, buộc anh ta lại phải cúi gập người xuống bờ suối. Đôi tai thính của anh ta còn nghe thấy, trong khu rừng xung quanh, rất nhiều động vật đang chạy tán loạn, không phải đi tìm thức ăn, cũng không phải tìm bạn tình, mà chỉ giống như con người, hoặc cảm thấy bất an hơn cả con người.
Khả năng dự báo thiên tai của các loài động vật tốt hơn con người.
Đa Cát tắm suối nước nóng, bôi thuốc lên vết thương, nằm trong hang động khô ráo. Nhìn thấy đại đội trưởng cũng không buồn ngồi dậy, mà còn cười mỉa mai: “Nhìn bộ dạng nơm nớp lo sợ của anh kìa, trời sắp sập rồi sao?”
Bình thường, Cách Tang Vượng Đôi rất ghét kiểu thái độ này của Đa Cát, nhưng hôm nay, nhìn thằng cha đang phải lẩn trốn này vẫn giữ được vẻ ngạo mạn vốn có của mình thì trong lòng lại thấy dễ chịu như được uống nước suối mát lạnh: “Tôi yên tâm rồi Đa Cát ơi, anh vẫn còn nói được những câu như vậy thì tôi yên tâm rồi.”
Đa Cát cũng không phải tay vừa mà dễ bị cảm động đến vậy: “Đồng cỏ lên tốt rồi, bò cừu của công xã nhân dân béo trục béo tròn, đều là công lao của anh, còn tội vạ đâu tôi chịu hết. Anh sợ tôi chết rồi không còn ai làm việc tốt rồi lại đi nhận tội thay cho anh chứ gì.”
“Công lao của anh tôi biết chứ, người dân thôn Cơ đều biết, lão Ngụy và lãnh đạo cấp trên cũng đều biết.”
Đa Cát ngồi bật dậy, vẻ cao ngạo trên khuôn mặt đã biến mất: “Lão Ngụy, lão Ngụy bị đánh đổ rồi! Tôi thì sao? Bọn họ muốn xử bắn tôi!”, sau đó hắn lại nằm vật xuống lớp cỏ lót, “Theo tôi, chức đại đội trưởng của anh cũng chỉ được vài ngày nữa thôi.”
“Nhưng hôm nay tôi vẫn là… đại đội trưởng do chính quyền nhân dân bầu!”
“Xí, cái lão này, bình thường nhũn như con chi chi, giờ lại rắn rỏi hẳn!”
Ánh mắt của Cách Tang Vượng Đôi sáng rực lên: “Thôn Cơ sắp gặp nạn lớn rồi, tôi phải giúp thôn Cơ vượt qua kiếp nạn này!”
“Ý anh là cháy rừng sao? Anh còn chưa được chứng kiến đám cháy khủng khiếp hơn. Rất nhiều người trên thị trấn vẫy cờ đỏ như phát cuồng, nếu trông thấy lửa lớn như vậy, chắc là anh không còn đủ tự tin để nói như vậy rồi.”
Đa Cát chìm vào ký ức, nét mặt lộ vẻ hoảng sợ, hắn lẩm bẩm: “Lửa trong rừng có thể dập được, người không dập thì trời sẽ dập, nhưng lửa trong lòng người thì sao?” Hắn lắc đầu, đột nhiên cáu kỉnh nói: “Anh đi đi, đi lo việc của anh đi, đừng đến tìm tôi nữa. Đa Cát của thôn Cơ đã chết rồi.”
Cách Tang Vượng Đôi nói một cách kiên định: “Tôi không có thời gian nán lại lâu, nhưng anh phải sống thật tốt cho tôi đấy. Vì sự bình an của thôn Cơ, tôi sẽ đến tìm anh. Muốn chết, chẳng phải quá dễ sao? Miễn là thôn Cơ vượt qua được kiếp nạn này, tôi bằng lòng ngồi tù cùng anh, chết cùng anh.”
Nói rồi, Cách Tang Vượng Đôi ra khỏi hang động mà không thèm quay đầu lại, nói đến cái chết, anh ta thấy lòng lạnh ngắt, khi mà bầu không khí hít vào thở ra trong lồng ngực như thể sắp bốc cháy, cái cảm giác lạnh ngắt ấy lại khiến anh ta thấy vô cùng khoan khoái. Cách Tang Vượng Đôi rời khỏi hang động mà không nói một lời từ biệt, chẳng qua là anh ta không muốn nói ra linh cảm của mình. Dạo này Cách Tang Vượng Đôi hay phát bệnh, mỗi lần phát bệnh, anh ta đều trông thấy cái bóng trắng xám của tử thần. Lần này, trận hỏa hoạn bất ngờ xảy ra khiến cả bầu trời bị nhuộm một màu đỏ như máu, khiến anh ta càng tin chắc vào cái chết sắp đến chính là giấc mơ đó. Con gấu đó ngồi chồm hỗm giữa giấc mơ. Con gấu đó là đối thủ nhiều năm của anh. Đối thủ như vậy, là định mệnh suốt đời của một thợ săn.
Lần đầu đọ sức với con gấu này, Cách Tang Vượng Đôi biết mình đã gặp đối thủ định mệnh rồi. Lần đó, con gấu giãy giụa thoát khỏi cái bẫy của anh ta. Thông thường, thú dữ sau khi thoát khỏi bẫy đều hoảng sợ chạy thục mạng. Nhưng con gấu này không chạy. Cách Tang Vượng Đôi nhặt vài chiếc lông gấu trên chiếc bẫy trống rỗng, lúc quan sát vết máu thấm ướt đất thì nghe thấy tiếng gấu rên ư ử. Ngẩng đầu lên, anh ta trông thấy con gấu đó ngồi ngay ngắn trên chạc cây bạch dương già trên đỉnh đầu.
Cách Tang Vượng Đôi đứng như trời trồng.
Chỉ cần con gấu đó xoay mình nhảy một cái thôi thì sẽ đè bẹp anh ta, ngay cả cơ hội giương súng lên anh ta cũng không có. Nó cứ tỉnh bơ ngồi trên cây, đôi mắt bé xíu phóng ra thứ ánh sáng sắc lạnh như nhũ băng. Đối với một thợ săn mà nói, điều đó chẳng khác gì sự khiêu khích. Vì thế, Cách Tang Vượng Đôi không thể bỏ chạy, chỉ có thể đứng ở đó, chờ nó đè xuống. Chết trong nanh vuốt của con mồi cũng là một trong những kết cục có hậu của dân săn bắt.
Con gấu chỉ giơ bàn tay ra, vỗ vỗ vào lồng ngực chắc nịch, từ tốn tụt từ trên cây xuống, thong dong rời khỏi. Trong quãng thời gian này, người thợ săn đứng phía sau con gấu, anh ta có thừa thời gian giơ súng lên, bắn chết con mồi cả chục lần. Nhưng Cách Tang Vượng Đôi chỉ đứng chôn chân tại chỗ. Anh ta từng chết một lần rồi. Anh ta không nhìn thấy con gấu rời khỏi, mà láng máng cảm thấy thời gian như quay ngược lại, nhìn thấy cái người bị con gấu thân to lớn đè bẹp thành bánh kẹp thịt rồi giống như được ông bụt thổi cho một cái, từ từ phồng lên, những thứ bị ứa chảy ra ngoài cơ thể như máu lại được hút vào cơ thể, xương xẩu nối lại kêu răng rắc, não bộ hoạt động trở lại, nhưng con gấu đó đã thong thả biến mất vào trong rừng.
Mấy năm qua, Cách Tang Vượng Đôi cũng đọ sức với con gấu vài lần. Cũng vì thù hận mà nảy sinh niềm nhớ nhung ngọt ngào. Trò chơi giữa con mồi và thợ săn vốn dĩ còn tiếp tục, sau này trở thành một trang mới trong truyền thuyết về anh hùng các bản làng. Nhưng xem ra câu chuyện này buộc phải kết thúc một cách vội vã rồi.
Khi mơ thấy giấc mơ này, Cách Tang Vượng Đôi biết, con gấu đã đưa ra thông điệp quyết đấu cuối cùng. Xem ra cháy rừng khiến nó cũng cảm thấy ngày tận thế đã đến gần như các loài động vật khác, vì thế, nó hành động trước. Cách Tang Vượng Đôi chỉ có thể chấp nhận giao kèo này. Chỉ là, câu chuyện đi đến hồi kết một cách gấp gáp, nó chỉ là một chương mỏng dính trong truyền thuyết của thôn Cơ mà thôi.
Lúc trên đường trở về thôn Cơ, Cách Tang Vượng Đôi mới nói với thầy mo không ở bên cạnh rằng: “Đa Cát ơi, tôi thấy anh cũng như tôi, không qua nổi kiếp nạn này, hãy nghĩ xem chúng ta còn có thể làm được gì để bảo vệ thôn Cơ đi.”
Lúc này, xe tải nối đuôi nhau chạy lướt qua Cách Tang Vượng Đôi, bụi đất bốc lên sau mỗi chiếc xe tải có thể phủ kín người anh ta. Đường cái ở thôn Cơ từ khi làm xong đến nay, chưa từng thấy nhiều xe tải đến cùng lúc như vậy. Lúc anh ta đang nghĩ vậy, từng chiếc xe tải ầm ầm tiến lại từ phía sau lưng, số lượng xe còn nhiều hơn tất cả xe tải từng đến thôn Cơ từ khi con đường được làm xong đến nay cộng lại.
Đoàn xe dài nối đuôi nhau đã đi xa, nhưng Cách Tang Vượng Đôi thấy đất dưới chân vẫn rung lên bần bật. Anh ta rảo bước, đoàn xe dài chạy theo chiều ngược lại sau khi đã dỡ xong hàng và thả người xuống.
Lúc vội vã quay về thôn, trên quảng trường đã dựng xong vài chiếc lều bạt màu xanh lục. Cái lớn nhất ở giữa, mấy cái nhỏ tạo thành hình bán nguyệt bao quanh. Trên nóc lều lớn nhất còn còn cắm một lá cờ đỏ thắm. Cách Tang Vượng Đôi đứng một lát ở ngoài cửa lều, cứ tưởng sẽ có người đến mời anh ta vào. Nhưng không biết bao nhiêu người nét mặt nghiêm trang đi ra đi vào, rồi vòng qua người anh ta, như thể anh ta là cái cột gỗ vậy.
Sau đó, Sách Ba cũng đến. Cũng đứng cùng anh ta như cây cột gỗ. Cũng chẳng có ai đếm xỉa đến cậu ta.
Sách Ba là người bẳn tính. Đứng chưa được bao lâu, cậu ta quả nhiên nổi cáu. Thế là trút hết cơn giận lên đầu đại đội trưởng: “Có ai gọi anh đến, rồi bảo anh đợi ở đây không?”
Cách Tang Vượng Đôi lắc đầu: “Không, chỉ là tôi nghĩ, có lẽ lãnh đạo sẽ cần chúng ta giúp gì đó.”
Sách Ba hứ một tiếng, nói: “Báo hại tôi cũng nghệt mặt ra đợi ở đây.”
Nói rồi chui luôn vào trong lều. Loáng một cái đã đi ra cùng một lãnh đạo. Vị lãnh đạo nhìn Cách Tang Vượng Đôi đang đứng đó như cột gỗ: “Hóa ra là đại đội trưởng, tôi cứ tưởng là người trong làng hiếu kỳ đến xem.”
Sách Ba ưỡn ngực nói: “Tôi là cán bộ cơ sở trung đội trưởng dân quân, đề nghị lãnh đạo giao nhiệm vụ.”
“Đúng là thanh niên có khác nhanh nhẹn hơn, được thôi, cậu tập hợp dân quân lại, chia thành vài nhóm, chuẩn bị dẫn đường cho các đội lên núi.”
Cách Tang Vượng Đôi định nói, việc dẫn đường những người đứng tuổi sẽ ổn thỏa hơn, nhưng anh ta còn chưa kịp mở lời thì lãnh đạo đã dẫn đầu đi trước, chẳng mấy chốc họ đã đến cổng làng: “Chúng ta nhất định phải chặn lửa ở đây, còn phải gọi thêm nhiều người đến, nhiều hơn cả số người mà các cậu từng thấy trong đời cộng lại, còn phải dựng rất nhiều lều”, lãnh đạo chống nạnh rồi vung tay lên, thế là cánh đồng mạ non thưa thớt bên ngoài thôn cũng không ngoại lệ, “Lều bạt sẽ dựng kín chỗ đất ruộng này...”
“Nhưng trên ruộng có hoa màu đang lên.”
“Không cần phải lo hoa màu nhà cậu, người đến đông mấy vẫn đủ ăn, cậu sợ một dúm người trong thôn không có cái ăn sao? Đất nước chúng ta rộng lớn là vậy! Việc của cậu là lo chuẩn bị cỏ khô trải giường, cất thêm bếp.” Nói rồi lãnh đạo quay về lều.
Lãnh đạo nói đúng quá, nhiều năm sau, mọi người sẽ vẫn nói say sưa, thời điểm xảy ra cháy rừng là quãng thời gian tươi đẹp tuy ngắn ngủi nhưng tưng bừng, nhộn nhịp nhất ở thôn Cơ. Khi đó, vật chất cung ứng đầy đủ, có chiếu phim, còn có cả đoàn văn công biểu diễn. Sách Ba nói, sau này, khi đi lên chủ nghĩa cộng sản, cuộc sống ngày nào cũng như vậy.
Cứ mỗi lần đội xe tải đến là có rất nhiều người xuống xe, dỡ xuống rất nhiều lều bạt. Những người này nhảy xuống xe, đứng thành hàng lối chỉnh tề, hát một hồi rồi mới chạy về chỗ những ô vuông kẻ bằng vôi, dựng lên những chiếc lều mới. Toàn bộ người dân thôn Cơ đều ra hết, đi sau những người này, nhìn họ hát, nhìn họ dựng những chiếc lều ngay ngắn, mọi người cùng nhau hát, rồi giẫm cho bằng lớp đất ruộng trong lều, trải đều cỏ khô thôn Cơ cung cấp, sau đó trải chăn lên. Còn chưa đủ, lại căng một sợi dây thừng bên trong lều, vắt khăn mặt sạch lên, vài tấm gỗ loáng cái đã biến thành chiếc bàn dài. Bên trên đặt một chiếc chậu rửa mặt tráng men, trong chậu còn có một hộp trà và một chiếc hộp thiếc lấp lánh ánh bạc. Chiều hôm đó, hầu như tất cả người dân thôn Cơ đều quên mất ngọn lửa đang áp sát, không phải vì có những người này bà con thấy có chỗ dựa dẫm, mà những dãy lều bạt được dựng lên với tốc độ chóng mặt, bầu không khí như lễ hội tràn ngập “thành phố lều” khi dựng xong như cục nam châm hút lấy bà con thôn Cơ đã quen với cuộc sống buồn tẻ trong thời gian dài. Khung cảnh đó quả thật quá hoành tráng, cùng với đó, ngọn lửa trong mấy chục cái bếp vừa cất xong cũng bắt đầu cháy đượm. Những chiếc nồi vừa to vừa sâu được bắc lên, loáng cái đã sôi sùng sục, mùi thơm của gạo chín, dầu sôi và các loại gia vị lan tỏa khắp một vùng. Cả thôn Cơ say sưa.
Khung cảnh mới mẻ, hoành tráng khiến người dân thôn Cơ mê mẩn một lát cũng là lẽ thường tình.
Lúc sắp ăn cơm, đầu tiên là lực lượng giải phóng quân cái gì cũng phải gọn gàng, ngăn nắp xếp thành hàng hát. Tiếp theo, là lực lượng hồng vệ binh đeo băng đỏ. Cuối cùng là lực lượng công nhân chặt phá cây đầu đội mũ bảo hiểm, mặc bộ quần áo xanh công nhân. Họ hát, tay cầm hộp cơm nhôm sáng bóng, đi đến chỗ nồi cơm, xới đầy hộp cơm nóng hôi hổi, sau đó đến trước chậu thức ăn, múc một muôi dầu to, mùi thức ăn thơm nức lan tỏa khắp nơi. Mấy đứa trẻ bạo dạn, chạy như bay về nhà lấy hộp cũng xới đầy ú ụ.
Hoàng hôn buông xuống, ánh sáng nhạt dần, mùi thức ăn tỏa ra khắp nơi, tiếng người nhốn nháo cũng tạm thời lắng xuống.
Cho đến khi hình như có một tiếng nổ, màu đỏ của ngọn lửa sáng rực trời lại bùng lên ở chân trời phía Đông. Rất nhiều người, suýt chút nữa thì bị nghẹn cơm. Khi mọi người ngẩng đầu lên nhìn, thì vừng sáng đỏ ấy lại nhạt dần. Ngọn lửa có vẻ ôn tồn hơn, không hung hăng như lúc mới bùng cháy.
Sau cơm tối, các máy phát điện đồng loạt khởi động, trong chốc lát, tất cả các lều bạt đều sáng trưng. Phông màn cũng được treo lên ở ba chỗ, công nhân, hồng vệ binh, quân giải phóng được đưa đến thôn Cơ dập lửa ngồi giữa, xung quanh là bà con thôn Cơ. Phim chiếu bình thường được một lúc thì gió thổi lay động phông màn. Thế là tất cả nhân vật trong câu chuyện đều uốn éo theo tấm màn. Gió vừa lặng, những người đó lại nghiêm túc trở lại.
Cuộc chiến trong phim đang hồi gay cấn bỗng nhiên biến thành kịch câm. Súng máy nhả ra lửa, chiến sĩ xung phong miệng hô to nhưng lại không có tiếng. Con người thời đại này, rất dễ rơi vào trạng thái vừa giận dữ vừa hưng phấn, bên dưới có tiếng huýt sáo. Lúc này, trong loa vọng ra một tiếng ho nhẹ. Sau đó, chỉ nói gọn lỏn hai chữ “Thông báo.”
Đám người lao xao ồn ào liền im bặt. Chỉ có tiếng máy chiếu phim đang chạy rè rè.
Giọng nói khô khan đó lại vang lên: “Thông báo họp.”
Tiếp đến là danh sách tên dài dằng dặc. Những người được gọi tên liền bước ra, đứng tập trung vào một chỗ. Thông báo cuối cùng cũng nhắc đến người thôn Cơ. Nhưng người đó không đọc tên họ mà đọc các chức vụ đại đội trưởng, bí thư chi bộ, trung đội trưởng, chủ tịch hội bần cố nông và chủ tịch hội phụ nữ.
Tất cả những người này tập trung trong chiếc lều lớn của ban chỉ huy để họp. Hội nghị thông báo, ngày mai, mỗi một nhóm đều phải lên núi, bắt đầu từ ven sông chỗ chân núi đến ranh giới tuyết ở trên núi, mỗi nhóm phụ trách một đoạn, mở ra một đường băng cản lửa. Hội nghị cho biết, lửa dữ muốn lan qua đây chắc cũng mất ba bốn ngày. Cần phải tranh thủ mở ra đường băng cản lửa này trước thời gian đó. Công nhân, quân giải phóng và hồng vệ binh cả thảy có mười tám trung đội, mỗi trung đội cầu yêu cầu thôn Cơ cử hai đến ba người dẫn đường. Trung đội trưởng dân quân Sách Ba đứng ra nhận nhiệm vụ này. Cách Tang Vượng Đôi nói: “Có lẽ tôi cử một số người có tuổi, họ có kinh nghiệm hơn trong việc kiểm soát lửa.”
Nhưng lãnh đạo nói: “Tôi nghĩ, lực lượng dân quân vẫn tháo vát hơn. Cậu xem, trên núi nhiều người thế kia, cậu tổ chức người mang cơm lên núi thì hơn.”
Cuộc họp kết thúc, phim cũng đã hết. Chân trời nơi xa vẫn đỏ lựng. Cách Tang Vượng Đôi dừng bước nói với Sách Ba: “Lửa lan đến bất cứ lúc nào, những người có tuổi vẫn có kinh nghiệm hơn.”
Sách Ba hứ một tiếng, nói: “Ý đại đội trưởng nói là kinh nghiệm phóng hỏa chứ gì.”
Cách Tang Vượng Đôi không phải người cứng rắn. Anh ta được bầu làm đại đội trưởng không phải vì anh ta giỏi giang, mà là hồi giải phóng anh ta là người nghèo nhất ở thôn Cơ. Điều khiến cấp trên thất vọng là, một người như vậy mà lại không có đủ lòng thù hận cần thiết cho thời đại này. Thù hận chính là động lực vô cùng quan trọng mà thời đại này coi trọng. Nhưng nội tâm của người này lại thiếu cái sức mạnh đó. Không chỉ có Cách Tang Vượng Đôi, mà những con người nghèo khổ bần cùng từ xã hội cũ ở thôn Cơ đều thiếu sức mạnh này. Nhưng bây giờ, lớp trẻ có sức mạnh này đã trưởng thành. Sách Ba chính là một trong những ngôi sao sáng đó.
Bố Sách Ba luôn ốm đau bệnh tật, gần năm mươi tuổi mới có được mụn con trai. Vì thế, thằng con trai cũng ốm yếu giống bố. Chỉ cần dùng sức một chút là gân xanh đã nổi đầy trán. Nhưng bố cậu ta lại là người tốt bụng. Còn Sách Ba thì hơi tí là nổi cáu, hễ nổi cáu là gân xanh trên trán lại nổi lên.
Theo cách nói của các cụ thì loại người như vậy không chết mất xác thì cũng làm hại bà con. Vì thế, cho đến tận hôm nay, Sách Ba đã làm đến chức trung đội trưởng dân quân, nếu cậu ta mất tăm mất dạng không về nhà thì ông bố già sắp gần đất xa trời lại ho sù sụ, chống gậy đi tìm nó.
Tối hôm nay, ông lão đã lập cập quanh quẩn trong thôn rất lâu. Ông nghe thấy con trai hỏi mỉa: “Ý đại đội trưởng muốn nói là kinh nghiệm phóng hỏa chứ gì.”
Trước đây nếu móc máy như vậy, Cách Tang Vượng Đôi sẽ rụt lại, nhưng lần này thì không. Anh ta nói: “Kinh nghiệm phóng hỏa cũng là kinh nghiệm phòng hỏa.”
“Vậy sao? Thế thì sao bên trên lại tống Đa Cát vào tù?”
“Cậu... cậu...” Cách Tang Vượng Đôi tức đến mức không nói được câu nào.
“Mày là thằng súc sinh.” Bố Sách Ba giơ gậy lên, nhưng chút sức lực của ông làm gì được đám thanh niên chứ. Gậy vừa được hạ xuống, Sách Ba chỉ cần dùng tay đẩy nhẹ một cái, ông lão đã ngã ngồi xuống đất. “Nhìn bộ dạng ông thế này mà muốn đánh tôi?”, thằng con nói rồi giận đùng đùng bỏ đi.
Cách Tang Vượng Đôi vội vàng đỡ ông dậy, nhưng ông vẫn ngồi dưới đất không chịu đứng dậy. Ông chửi rủa thằng con trai bất hiếu của mình, chửi một hồi ông lại quay sang mắng mỏ Cách Tang Vượng Đôi: “Lãnh đạo cho anh làm người đứng đầu thôn, nhưng anh nhìn lại mình đi, có cái uy của người đứng đầu không? Xem anh đã nuông chiều lũ thanh niên thôn Cơ thành ra thế nào rồi.”
Cách Tang Vượng Đôi không nói không rằng, đỡ ông dậy: “Cháu đưa chú về nhà.”
Ông mặc cho Cách Tang Vượng Đôi bước thấp bước cao dìu mình về nhà, ngay cả gậy cũng không buồn cầm. Trên đường về, ông khóc lóc như đàn bà: “Rồi xem, đám thanh niên mất nết, thôn Cơ sắp tiêu rồi.”
“Thôn Cơ không tiêu đời, đám thanh niên giỏi giang hơn chúng ta. Làm đường, xây trạm thủy điện họ xông xáo như vậy. Những kỹ thuật mà họ học được, chúng ta không học nổi đâu.”
“Thôn Cơ sắp tiêu rồi, ai đã trông thấy lửa cháy mà không tắt chứ, anh nhìn thấy bao giờ chưa? Anh chưa trông thấy chứ gì, tôi cũng vậy, tổ tiên chúng ta cũng chưa từng nhìn thấy. Sấm sét làm cháy rừng, khai hoang làm cháy rừng, những tay thợ săn hút tẩu cũng sẽ làm cháy rừng, nhưng đã có ai nhìn thấy rừng cháy điên cuồng như vậy chưa. Thôn Cơ sắp tiêu rồi, thôn Cơ sắp tiêu rồi.”
“Đúng là chưa thấy bao giờ, nhưng chú đã thấy đường cái làm đến tận thôn bao giờ chưa? Tổ tiên chúng ta có nhìn thấy ô tô, nhìn thấy máy móc nhà máy điện vừa chạy là đèn điện bật sáng, trong nhà và ngoài sân phơi thóc sáng như ban ngày chưa?”
“Anh đừng nói với tôi những lời lẽ trong cuộc họp, tôi nghe không hiểu, tôi chỉ trông thấy bọn trẻ ngày càng hư hỏng, tôi chỉ trông thấy lửa cứ cháy mà không tắt.”
“Lửa sẽ tắt thôi, chú không thấy sao? Có rất nhiều người đến rồi, họ đến để bảo vệ thôn Cơ.”
Ông lão thôi khóc lóc than vãn, dưới màn đêm bị ánh lửa nhuộm thành một màu đỏ sẫm, mắt ông long lanh: “Toàn nói xằng bậy, đôi vịt vàng bảo vệ rừng thôn Cơ đã bay mất rồi. Thôn Cơ sắp tiêu rồi.”
“Chưa ai nhìn thấy đôi vịt vàng...”
“Anh đừng có giả vờ không biết đôi vịt vàng trong hồ nước trên núi, anh đừng giả ngây giả ngô không biết chính các anh đã đốn sạch rừng bạch dương đẹp đẽ đó, đôi vịt vàng mới bay đi mất.”
Không ai trong thôn từng nhìn thấy đôi vịt đó. Nhưng ai cũng biết, trong hồ trên sườn núi phía sau thôn có một đôi vịt vàng rất đẹp. Đôi vịt này có cái mào màu xanh ngọc, viền mắt màu đá rubi, lúc nó bay cả một vùng lấp lánh ánh kim. Lúc bơi trong hồ, nước hồ còn xanh hơn cả bầu trời. Đôi vịt vàng bảo vệ thôn Cơ, không nhìn thấy bằng mắt được, mà phải cảm nhận bằng cả trái tim. Nó có trách nhiệm giúp thôn Cơ mưa thuận gió hòa, còn người dân thôn Cơ phải đảm bảo cho nó một vùng non xanh nước biếc, yên tĩnh vắng vẻ.
Nhưng người thôn Cơ không làm được điều này, hết ngày này qua ngày khác, hết tháng này qua tháng khác, hết năm này qua năm khác, người thôn Cơ vung chiếc rìu sắc lẹm lên, không phải để nấu cơm đun trà, không phải để nhóm lửa sưởi ấm, cũng không phải để xây nhà mới cho cặp uyên ương, cũng không phải để xây nhà kho mới chứa lương thực được mùa, cũng chẳng phải làm chuồng cho gia súc mới mua, hình như mục đích duy nhất chỉ là vung rìu lên, đốn ngã hết gốc cây này đến gốc cây khác, khu rừng này biến mất lại đến khurừng khác biến mất. Vì thế, đôi vịt vàng tức giận, vỗ cánh bay đi luôn rồi.
Lúc mới bắt đầu chặt phá rừng bạch dương, bà con thôn Cơ đã bắt đầu tranh luận những vấn đề này rồi.
Sách Ba nói: “Nhảm nhí, đôi vịt trời thần thông quảng đại như vậy thật, lẽ nào không biết số gỗ đó được chuyển lên tỉnh xây cung Vạn Thọ sao?”
Chủ đề này không phải chủ đề ngày thường vẫn nói, vì thế có người chất vấn ngay: “Thế có nghĩa là cậu không tin có vịt vàng sao?”
Còn có người nói: “Đã là người thôn Cơ thì đều tin có vịt vàng.”
Tuy từ trước đến nay, sự tồn tại của đôi vịt vàng luôn là chuyện viển vông, cho dù vậy, Sách Ba có là người theo trường phái mới đến mấy cũng không dám đôi co với mọi người. Thật ra, trong thâm tâm, cậu ta càng không dám đôi co với chính mình, tự hỏi bản thân tin hay không tin có đôi vịt trời này.
Nhưng cậu ta tin lệnh của cấp trên là đòi hỏi vĩ đại, chứ không hề biết chặt phá rừng sẽ gây ra hậu quả như thế nào. Các cụ vẫn hay nói, những năm qua, khi những khu rừng xung quanh thôn bắt đầu biến mất, gió thổi không gì cản nổi, nhưng gió to một chút thì đã sao? Các cụ còn phàn nàn, chặt phá nhiều rừng như vậy, vài con suối cũng biến mất, dòng chảy cũng bị thu hẹp. Nhưng thôn Cơ cũng chỉ có từng đấy người, nước một con suối còn không uống hết, đã không dùng hết thì cần nhiều nước làm gì? Thôi thì… người già thường hay kêu ca phàn nàn này nọ, cứ để các cụ kêu đi. Đối với Sách Ba và đám thanh niên mà nói, điều nực cười hơn nữa là, các cụ còn kêu ca rằng, rừng sau khi bị chặt, phong cảnh xung quanh thôn làng không còn tươi đẹp như xưa nữa. Sách Ba nghe vậy thì cười khẩy, tươi đẹp, những ông già bà cả mặt mũi nhem nhuốc, ngay cả sân vườn nhà mình và phân trâu phân lợn trên đường trong thôn còn lười không thèm quét dọn, thế mà lại thốt ra được những từ như vậy.
Bố Sách Ba là một trong những ông lão như vậy.
Ông khóc lóc đến khi về đến cửa nhà, sau đó lau nước mắt, nghiêm túc nói với Cách Tang Vượng Đôi: “Anh là người tốt bụng, nhưng anh không phải là thủ lĩnh giỏi của thôn Cơ.”
“Điều này cháu biết.”
“Thế thì để người khác làm.”
“Con trai chú?”
Ông cười khà khà, tiếng cười lại có chút thê lương cam chịu: “Nó quả thật ngày đêm nung nấu ý định này, kể cả trong mơ, nhưng nó có cái phúc phận ấy không? Anh không làm được vì anh không có cái uy, không lấn át được người khác, nhưng mọi người đều biết anh bụng dạ tốt. Còn thằng tạp chủng nhà tôi, chỉ muốn chống lệnh, người như vậy không có kết cục tốt đẹp đâu!”
Nói rồi, ông cụ đẩy cánh cửa, ánh đèn ấm áp từ trong nhà hắt ra, nhưng lời ông thì vừa lạnh vừa đanh: “Thì thế, tôi hận anh!”
Cánh cửa đóng lại. Ánh sáng cùng sự ấm áp mà nó mang lại cũng biến mất luôn, Cách Tang Vượng Đôi đứng một mình trong sân nhà người khác, tâm trạng u ám.