• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Núi vắng
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 39
  • Sau

5

T

hỏ con nhà Ân Ba đã khỏi bệnh, bà nội lại dẫn nó ra sân, ngồi dưới bóng mát cây táo ít ỏi, lúc đó đã là rất nhiều ngày sau khi Cách Lạp và mẹ cậu cùng mất tích ở thôn Cơ.

Thôn Cơ nhỏ như vậy, nhưng hai kẻ ăn không ngồi rồi mất tích ở thôn Cơ, không còn vật vờ khắp nơi trong thôn nữa lại không khiến cho bất cứ ai bận tâm. Có lẽ có người đã để ý đến, nhưng lại giả vờ như không. Có lẽ khá nhiều người đã để ý đến, chỉ là không nói ra mà thôi. Mất tích thì mất tích. Hai con người đầy tật xấu như vậy, giống như hai chiếc gương ở thôn Cơ, mọi người đều soi thấy tật xấu của nhau trong chiếc gương này.

Sau khi thỏ con khỏi hẳn, Ân Ba, cả nhà Ân Ba đều thấy lòng nặng trĩu, hắn vốn là người xuất gia, nếu không vì hoàn cảnh bắt buộc, thì hiện giờ vẫn ở chùa nhất tâm theo Phật. Bây giờ, chùa đã bị san bằng, tượng Phật thếp vàng cũng bị đập nát rồi. Hôm phá chùa, những nhà sư đã hoàn tục bị triệu tập đến chùa lần cuối, họ đứng trên quảng trường trước cửa chùa cùng các sư thầy ngoan cố ở lại chùa. Bức tường đại điện đã bị dỡ bỏ, tượng Phật tổ Như Lai thếp vàng phủ một lớp bụi dày, giờ thì nước mưa lại nhỏ lên, nước mưa đọng lại ngày càng nhiều, từng dòng nước xối lớp bụi trôi xuống dưới, khuôn mặt tròn trịa của Phật tổ xuất hiện những khe rãnh ngang dọc.

Một chiếc dây thừng to buộc vào bức tượng, sợi dây thừng dài được đặt vào tay những nhà sư đã hoàn tục lẫn chưa hoàn tục trên quảng trường, một người vẫy lá cờ đỏ nhỏ xíu, thổi chiếc còi đang ngậm trong miệng. Lần này, các nhà sư không dùng sức. Tượng Phật đã bị vấy bẩn vẫn ngồi trên đài hoa sen còn dơ bẩn hơn. Một vị Lạt-ma áo đỏ bị người ta lôi ra từ nhóm các sư thầy, đeo còng tay, giao cho dân quân trông giữ. Đám binh lính vác súng trên vai đứng trước chiếc xe jeep, vẻ mặt nghiêm túc.

Cờ đỏ lại được vẫy lần nữa, còi lại được thổi lần nữa, các nhà sư rầu rĩ hô lên một tiếng, sợi dây thừng buộc trên tượng Phật đã kéo căng, các nhà sư lại hô thêm lần nữa đến rát cổ bỏng họng, tượng Phật nghiêng ngả, rồi đổ ầm xuống. Bụi mù mịt, cho dù có giống khói lửa thì chẳng mấy chốc cũng bị mưa dập tắt. Tượng Phật bị vỡ nát lộ ra bùn ở bên trong cùng cỏ dính đất sét. Các sư thầy ngã ngồi dưới trời mưa, có một người mào đầu, thế là tất cả khóc rống lên. Nghe nói, vị Lạt- ma bị còng tay rất tức giận, giận những người đó vô tích sự. Nhưng đó cũng chỉ là lời đồn đại mà thôi. Vì sau này không ai gặp lại vị Lạt-ma đó nữa.

Cứ mỗi lần nhớ lại khung cảnh hôm đó, trong lòng Ân Ba lại có cảm giác là lạ, nhất là nhớ lại đám sư thầy khóc như đàn bà dưới trời mưa, trong lòng lại càng xót xa. Tượng Phật đổ thì đã đổ rồi, chuyện động trời lở đất không hề xảy ra. Một Ân Ba tu hành thì lòng ngày một nguội lạnh, một Ân Ba cố gắng vì sự sinh tồn nơi thế tục thì ngày một trưởng thành.

Thế nhưng, sau sự việc xảy ra tối hôm đó, cái cảm giác bứt rứt đó lại xuất hiện. Cảm giác này thậm chí khiến hắn thấy, được ngồi trên đất bùn lạnh lẽo dưới trời mưa, khóc lóc thảm thiết như lũ đàn bà, như mẹ đẻ chết, quả là một điều hạnh phúc.

Trước đây, mọi người đều cho rằng hai mẹ con lai lịch không rõ ràng này sống ở thôn Cơ là điều thú vị. Cuộc sống khó khăn khốn cùng là vậy, có hai con người tội nghiệp này để so sánh, cuộc sống có vẻ dễ thở hơn. Mọi người đều khinh rẻ hai con người này, nhưng, từ cách đối đãi với họ, thôn Cơ cũng âm thầm phân biệt kẻ trên người dưới. Nhà Ân Ba có hai hòa thượng hoàn tục, còn có bà mẹ già hiền lành, Lặc Nhĩ Kim Thốn xinh đẹp, hơn nữa người của gia đình này chưa bao giờ bắt nạt mẹ con Cách Lạp, vì thế, nói như Trương Lạc Tang, “Cả nhà này đều tốt bụng, sự nể trọng của bà con thôn Cơ chính là cán cân.”

Những người nghe được câu nói này đều sẽ nói: “Ôi dào, lại lấy đồ quý của ông ra để so sánh.”

Đúng vậy, Trương Lạc Tang từng là chủ nhân của chiếc cân duy nhất ở thôn Cơ. Chiếc cân này từng khiến ông có vị trí rất cao trong thôn. Nhưng sau này có công xã nhân dân. Việc đầu tiên công xã nhân dân làm là xây một nhà kho lớn, sau đó treo hai chiếc cân một to một nhỏ mới tinh ở trong kho. Ảnh hưởng của Trương Lạc Tang ở thôn Cơ cũng giảm dần. Nhưng ông vẫn thường xuyên lấy cái cân quý của mình ra để so sánh. Mà cách ví von với nhà Ân Ba được người dân thôn Cơ công nhận là thích hợp và xác đáng nhất.

Ân Ba biết không thể quay lại chùa được nữa, thế nên cố gắng để cán cân trong lòng mình được cân bằng sống qua ngày. Thế nhưng, hành vi thô bạo đối với Cách Lạp hôm đó khiến cán cân trong lòng hắn không còn thăng bằng nữa. Mình đối xử với đứa trẻ tội nghiệp Cách Lạp như vậy là hành vi gì chứ?

Cuối cùng thì cũng có người để ý đến, sau cái đêm gọi hồn điên cuồng ấy, Cách Lạp và mẹ cậu biến mất khỏi thôn Cơ không chút tin tức. Thôn Cơ nhỏ là thế, những ngày tháng ở thôn Cơ tẻ nhạt là thế. Vì vậy, một lời đồn sẽ giống như chớp giật, chiếu sáng những ngày tháng u ám, tăng thêm chút sinh khí cho những ngày tháng nhạt nhẽo. Huống hồ hai người mất tích lại không phải tin nhảm, mà là sự thật. Từ người phát hiện đầu tiên, đến người cuối cùng biết được, cùng lắm chưa đến nửa ngày. Một đầu cán cân trong lòng Ân Ba chúc xuống, chúc xuống, cuối cùng, quả cân nặng chịch rơi bịch xuống đáy lòng, khiến ổ bụng đau đớn.

Tin đồn lan truyền khắp thôn, lúc lan đi còn xoáy vào đương sự. Mọi người ríu ra ríu rít bên này, lại rì rà rì rầm bên kia, chẳng khác gì gió xoáy nổi lên nơi đất bằng. Cột gió xoáy này không dừng lại ở chỗ đương sự. Nhưng đương nhiên Ân Ba biết, những gì mọi người đang bàn tán là nhằm vào hắn. Ý tứ trong ánh mắt của mọi người cũng ngày càng sâu xa. Ánh mắt đó chẳng qua muốn nói rằng, chính hắn - một nam tử hán đã ép hai mẹ con nghèo hèn ấy phải ra đi, trước mặt mọi người, Ân Ba không ngóc đầu lên được. Hắn đi một mình đến căn nhà nhỏ của hai mẹ con họ ở cạnh quảng trường. Cửa không khóa. Chỉ móc vào rồi cài một cái que. Hắn giơ tay còn chưa chạm vào móc cửa, chiếc que rơi xuống đất. Lúc mở cửa, một tiếng kẽo kẹt vang lên, nghe như tiếng mèo kêu do bị giẫm phải. Căn nhà trống tuềnh trống toàng, tro trong lò sưởi là tro trắng lạnh ngắt. Về đến nhà, hắn thở vắn than dài. Chỉ đến khi thỏ con ốm yếu sà vào lòng, hắn mới thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn đôi chút. Hắn thơm con trai, bỗng nghiêm nét mặt nói với vợ: “Mình nướng bánh đi, nướng nhiều vào một chút, tôi sẽ đi một chuyến, có lẽ đi xa.” Ông cậu nói: “Đi đi, đệ tử nhà Phật phải giúp chúng sinh thoát khổ. Lúc Phật tổ ở cõi tục, cũng giúp chúng sinh thoát khổ.”

Ân Ba nói: “Tội lỗi của chúng sinh cũng có tội lỗi của con.”

Người vợ đi nhào bột với vẻ ngoài cứng rắn, đun nóng chảo, nướng từng cái một. Cho đến khi lên giường, nước mắt của người đàn bà mới rơi lã chã, gục vào ngực người đàn ông khóc thút thít. Khóc xong lại đi nướng bánh.

Hôm sau trời vừa sáng, Ân Ba đeo một cái ruột tượng đầy bánh lên đường. Ngày đầu tiên, hắn đi qua ba thôn làng. Ngày thứ hai đi qua một nông trường chăn nuôi trên núi. Ngày thứ ba là một lâm trường khai thác gỗ toàn người Hán. Đầu giờ ngày thứ năm, Ân Ba muốn ra khỏi địa bàn huyện này. Ranh giới là một con sông, trên sông đương nhiên có một cây cầu, vài người bộ dạng uể oải đang dựa vào thành cầu chặn hắn lại. Đầu tiên là một người đội mũ lưỡi trai kéo sụp xuống nói: “Này, anh kia, đứng lại.”

Âm thanh phát ra từ dưới chiếc mũ, có thể là nhằm vào hắn, nhưng ngoài hắn ra trên cầu không có ai đi lại, nhưng hắn không nhìn thấy mặt người đó, vì thế không dám chắc câu nói đó là nhằm vào mình. Hắn đi tiếp về phía trước. Mấy tay bộ dạng uể oải đó bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn xông lên, trong chớp mắt, đã khóa gập cánh tay hắn ra đằng sau. Tay nải rơi xuống cầu, bánh rơi ra ngoài từ miệng túi bị bung ra, lăn lông lốc trên sàn cầu gỗ sam. Ân Ba hoảng sợ ra sức giãy giụa, vùng thoát ra khỏi nhiều cánh tay. Hắn nhấc đôi chân chắc nịch chạy về phía đầu cầu bên kia. Sau lưng, vang lên tiếng lách cách khô khốc, Ân Ba biết là tiếng lên cò súng. Ân Ba đứng lại. Giơ hai tay lên như kẻ địch trong phim. Tiếng cười ngặt nghẽo vang lên từ phía sau lưng. Tiếng cười và tiếng bước chân như cơn gió cuốn lấy Ân Ba, một quả đấm mạnh giáng vào sống mũi, thân hình nặng nề của Ân Ba đổ nhào xuống cầu.

Rất nhiều khuôn mặt hướng về phía Ân Ba, phát ra một thứ âm thanh giống nhau: “Còn chạy nữa không!”

Ân Ba rất muốn nói, không chạy nữa. Nhưng máu mũi chảy ra, khiến hắn bị sặc. Đó là việc xảy ra vào đầu giờ ngày thứ năm. Ngày thứ mười Ân Ba về đến thôn. Hắn bất ngờ đẩy cửa, cả nhà ngẩng đầu nhìn, vẻ ngạc nhiên lộ trên khuôn mặt. Hắn cười ngượng, ngồi xuống cạnh lò sưởi. Vợ hỏi: “Bánh ăn hết rồi sao?”

Ân Ba nói: “Họ chặn tôi lại, tôi không có giấy tờ tùy thân, không được tùy tiện đi lại.”

Bà lão đột nhiên hỏi: “Thế bánh của con đâu?”

“Lăn ra cầu, rơi hết xuống sông rồi.”

“Con bị ngã xuống sông sao?”

“Bánh, bánh lăn hết xuống sông rồi.” Hắn lẩm bẩm, “Nặng tai.”

Bà cụ nói: “Hồi nhỏ con đi đứng cũng hay té ngã.”

Sau này, đàn ông ở thôn Cơ hay pha trò, nói mẹ kiếp, tao rất muốn đi xa một chuyến. Liền có người tiếp lời ngay, nói đồ vô dụng, mày làm gì có giấy tờ tùy thân. Thế rồi cả đám cười phá lên. Chỉ có Ân Ba không cười. Thông thường, những chuyện tếu táo kiểu này hay nói ở trước cửa hợp tác xã cung ứng. Cái gọi là hợp tác xã cung ứng chẳng qua chỉ là một gian phòng ngăn ra từ nhà kho của đội sản xuất, mở một ô cửa sổ có hai cánh gỗ đối diện quảng trường. Trưởng quầy là Dương mặt rỗ người Hán. Hồi trước, Dương rỗ là người bán hàng rong đi hết thôn này đến nhà kia, lên núi bán đồ lặt vặt cái kim sợi chỉ, thu mua về chút dược liệu, da thú. Trên gánh hàng rong lúc nào cũng treo một chiếc bàn tính hạt sắt khung sắt. Ông cũng là một trong những nhân vật lai lịch không rõ ràng ở thôn Cơ. Người thôn Cơ chỉ nhớ là, hồi ông vừa đặt chân đến thôn này thì quân giải phóng cũng đến. Từ đó trở đi, chấm dứt thời đại một người có thể tùy ý lãng du khắp nơi. Ông liền ở lại thôn này, không đi nữa. Không ngờ, mới thế mà đã mười mấy năm rồi.

Sau đó, công xã muốn thành lập một hợp tác xã cung ứng ở thôn Cơ, muốn tìm một người biết chữ, biết tính toán. Lãnh đạo thôn nhắm vị Lạt-ma hoàn tục Cống Bố thôn Giang, nhưng ông không chịu. Có hai người cạnh tranh chức vụ này. Trước tiên là người sở hữu chiếc cân duy nhất trong thôn, Trương Lạc Tang. Đây là việc nằm trong dự tính của mọi người. Tiếp theo là Dương rỗ sở hữu chiếc bàn tính sắt năm đó xuất hiện. Kết quả là Trương Lạc Tang thua Dương rỗ. Từ đó trở đi, hằng tháng, Dương rỗ đều ngồi xe ngựa của thôn lên công xã một chuyến, quay về là chiếc cửa sổ gỗ đó sẽ mở ra, các chị em sẽ đến đó mua trà, muối, cái kim sợi chỉ. Còn cánh đàn ông thì ngồi bệt thành vòng tròn, nhâm nhi chỗ rượu mà hằng tháng mỗi người được chia hai cút. Trước đây, bà con trong thôn đều tự cất rượu, giờ lương thực đều nộp nghĩa vụ hết, tập trung vào kho, hết xe ngựa này đến xe ngựa khác kéo đi, kéo về là hằng tháng mỗi người được hai cút rượu trắng. Có chút rượu, không chờ mang về nhà, thôi thì để cánh đàn ông ngồi quây lại với nhau trên quảng trường uống hết cho xong. Nhà sư hoàn tục Ân Ba, không chỉ lấy vợ phá vỡ sắc giới, mà uống chút rượu giải sầu cũng không còn là chuyện lạ lẫm. Mới nhấp vài hớp rượu, mặt Ân Ba đã đỏ lựng, đôi mắt sáng có thần dưới đôi mày rậm chỉ một lát đã đầy tia máu, nhìn rất dữ tợn. Không còn giống một đệ tử nhà Phật nữa. Hồi đầu mọi người đều sợ ánh mắt này của hắn. Nhưng hắn chẳng qua cũng chỉ nói những câu không đầu không đuôi, rồi cười hềnh hệch ngây ngô mà thôi.

Hôm nay đúng ngày uống rượu hằng tháng, cánh đàn ông đến uống rượu lần lượt ngồi trên quảng trường, chẳng mấy chốc thì quây thành một vòng tròn lớn. Rượu được đổ vào cái ca tráng men có vẽ hình Thiên An Môn, rót một lượt, rượu trong ca đã chạm đáy. Thôn Cơ không lớn, hơn hai mươi hộ, thì cũng chỉ ba bốn chục ca rượu. Nhiều người uống đến phút chót mà vẫn chưa thấy đã. Nhưng với Ân Ba, hơn mười ngụm rượu thì đã say lắm rồi. Lúc Trương Lạc Tang ngồi cánh trên chuyền ca rượu vào tay Ân Ba nhắc nhở: “Uống ít thôi, dù sao thì cũng say rồi.” Nhưng Ân Ba lại cười ngây ngô, rồi vẫn uống một ngụm to.

Trương Lạc Tang nói: “Mẹ kiếp, say thì cũng đã say rồi, không biết đường uống ít đi sao?”

Dạo này tâm trạng Ân Ba không được vui, nụ cười chợt biến mất, nói: “Ông bớt lải nhải một câu, tôi sẽ bớt uống một ngụm.”

Trương Lạc Tang chộp lấy cổ áo của Ân Ba, Ân Ba cũng giơ tay túm chặt lấy cổ áo đối phương.

Rượu vòng sau đã được chuyền lại, hai người vẫn ngồi đó, nghiến răng phân cao thấp, nhìn bề ngoài không hề nhúc nhích, nhưng đất dưới chỗ ngồi đã bị mài hõm cả xuống. Rượu chuyền xong mọi người mới phát hiện hai người này đang giằng co nhau. Nhưng không ai khuyên can, nếu hai người muốn đánh nhau thì có khuyên cũng chẳng ích gì.

Nếu không muốn đánh nhau thật thì lại càng không cần phải khuyên. Hai người vẫn không ai chịu nhường ai. Vẫn là Dương rỗ bước ra rót tiếp rượu nói: “Thôi nào, thôi nào. Uống rượu, uống đi. Uống rượu là phải vui.”

Dương rỗ là người Hán, khẩu âm tiếng Tạng nghe hơi lạ tai, vì thế đã trở thành một trong những đề tài tiếu lâm thường xuyên của bà con thôn Cơ.

Trương Lạc Tang bắt chước giọng ngọng của mặt rỗ: “Thôi đi, thôi đi.”

Ân Ba cũng kẹp lưỡi lại nói: “Uống rượu, uống rượu.” Hai người cùng cười phá lên, cùng buông đối phương ra. Dương rỗ nói: “Phải rồi, thế mới phải chứ.”

Ân Ba đột nhiên trợn mắt lên: “Mặt rỗ, sao ông không biến về quê ông hả?”

Dương rỗ đang dùng gáo múc tiếp rượu vào bát, nghe hỏi vậy, ông khựng lại, cả đám người còn vừa cười nói râm ran bỗng im phăng phắc. Thớ thịt trên mặt Dương rỗ giật giật, nhưng rồi lại giãn ra ngay. Ông lại rót tiếp rượu. Môi run run, nói: “28 cút rồi. À, không, không, 28 cút rưỡi rồi. Bà con ơi, 28 cút rưỡi rồi.”

Ân Ba biết mình đã lỡ lời, nói gì thì nói, thôn Cơ là thôn làng hiếu khách, nếu không, thôn Cơ sẽ chẳng có những người lai lịch không rõ ràng này.

Dương rỗ vẫn đang rót rượu: “29 cút, 29 cút rưỡi rồi.” Nhưng mọi người vẫn không ai nói gì, các kiểu ánh mắt kỳ lạ đổ dồn vào người nói nhỡ lời đó. Ân Ba cảm thấy đầu mình sắp nổ tung. Nếu mọi người cứ nhìn chằm chằm vào mình như vậy, vẫn không ai mở miệng nói gì, thì cả người mình chắc sẽ nổ tung ra mất. Thực ra, câu đó mới nói một nửa hắn đã thấy hối hận, nhưng lời đã thốt ra rồi, trong thâm tâm đã có một con quỷ khống chế hắn rồi.

Cuối cùng thì cũng có người lên tiếng.

Trương Lạc Tang nói: “Hôm nay, đàn ông thôn Cơ đều ở cả đây, tôi muốn hỏi một câu, có phải thôn Cơ sẽ không bao bọc những người cùng đường bí lối nữa phải không. Mọi người đều biết, cha tôi cũng là người Hán, cũng là kẻ bán hàng rong giống Dương rỗ đến thôn này rồi không muốn đi nữa.”

Mọi người đều nói, không, không đâu, bố cậu còn mang đến cho chúng tôi chiếc cân đòn duy nhất trong lịch sử thôn Cơ.

“Nhưng, có người đã ép mẹ con Tang Đan ra đi, giờ lại muốn ép cả Dương rỗ đi.”

Mọi người đồng thanh kêu lên: Ờ há...

Tiếng kêu đó ý là, câu này hơi quá đáng rồi. Đúng lúc đó, một cơn gió thổi tới, cuốn tung mày cỏ và bụi đất trên quảng trường, mọi người vội cúi người, giơ tay ra làm động tác che bát rượu, thực ra, chỉ có một người đang thực sự bưng bát rượu. Mọi người đều đã ngà ngà say. Trận gió qua đi, mọi người đều cười ồ lên vì cái động tác vô thức này. Bỗng rầm một cái, hóa ra, cánh cửa gỗ nhà Tang Đan lâu ngày không có người ở rụng khỏi khung cửa, đổ rầm xuống.

Cánh cửa đổ xuống tạo thành luồng gió thổi bay bụi đất và mày cỏ, khiến mọi người lại nhớ đến mẹ con Cách Lạp rời khỏi thôn Cơ đã lâu. Nhớ đến hai mẹ con này, ánh mắt mọi người lại dồn vào Ân Ba. Ân Ba quả thật muốn khóc rống lên để nước mắt, nước mũi giàn giụa, thế mới sướng! Nhưng làm vậy ngoài làm trò cười cho thiên hạ ra thì có ích gì chứ? Bát rượu chuyền đến tay Ân Ba, hắn ngửa cổ, dốc hết bát rượu vừa rót đầy vào miệng. Nhưng rượu còn chưa xuống hết dạ dày thì Ân Ba đã giống như cái bao chông chênh đổ xuống đất.

Ân Ba lăn ra, mọi người không còn đối tượng để trách móc nữa, lại có người nhớ đến cái cánh cửa đang yên đang lành đổ xuống đất, lúc này đã là hoàng hôn, mặt trời vừa xuống núi, gió lúc sẩm tối cũng hơi gai gai người, bỗng có người nói: “Chắc là ma.”

Mọi người thấy cái cảm giác ớn lạnh ấy đã bò lên lưng. “Hai mẹ con họ chết rồi sao?”

“Hồn họ về rồi sao?”

“Ô hay, chết rồi, hồn còn về sao? Vì bà con thôn Cơ chúng ta đối xử với họ đặc biệt nhân từ sao?”

Trời tối dần, bầu trời phía tây bắc dựa vào núi tuyết A-ngô- tháp-tì xuất hiện ráng chiều đỏ rực. Nhưng ở chỗ trũng nhất trong thung lũng này, màn đêm như dòng nước phủ lên từ thấp đến cao, trùm bóng tối lên những người đang ngồi thành vòng tròn trên quảng trường, chỉ có những khuôn mặt đang ngửa lên trời mới bị một chút ánh sáng từ xa chiếu rọi. Rượu vẫn được chuyền từng vòng, cái chất lỏng cay xè ấy cũng không sao chống lại được cảm giác ớn lạnh đang dâng lên cùng màn đêm. Huống hồ lúc này lại có người nhắc đến hồn ma. Hồn ma không có hình hài, ít ra thì mọi người chưa bao giờ nhìn thấy hình dáng của hồn ma là thế nào, nhưng những người đàn ông đang ngồi uống rượu trên quảng trường lúc này rõ ràng là cảm nhận được nó. Thứ này không có hình hài, chỉ có móng vuốt lạnh ngắt, từ từ bò lên lưng mỗi người cùng cảm giác ớn lạnh.

Dương rỗ rót gáo rượu cuối cùng vào bát, kéo mạnh tấm ván trên cửa sổ hợp tác xã cung ứng xuống. Sau đó, ông để một tay ra sau lưng, mọi người nghe thấy tiếng chùm chìa khóa trong tay ông kêu xủng xẻng xa dần.

Trương Lạc Tang nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất: “Các vị, về thôi, hết rượu rồi, mẹ kiếp, người thế này thì bao nhiêu rượu cũng không làm ấm người lên được.”

Lúc này, bộ dạng cánh đàn ông thôn Cơ nặng nề khác thường, chẳng khác gì gỗ đã ngâm nước. Mọi người chống cơ thể nặng nề của mình lên, theo quán tính đưa mắt nhìn ráng chiều đỏ ối đang bị đốt thành màu đen sau núi tuyết A-ngô- tháp-tì, ngất nga ngất ngưởng đi về.

Trương Lạc Tang đá đá Ân Ba đang nằm trên đất: “Này, dậy đi, về nhà thôi.”

Nhưng Ân Ba ngủ mê mệt, Trương Lạc Tang nói: “Chết tiệt, có chút rượu mà đã say thế này rồi, thôi thì cũng là cái phúc của mẹ nó.” Ông còn muốn nói thêm nữa, nhưng thấy mọi người đang tản mát đi về, không ai muốn nghe ông nói, ông có nói cũng chẳng nghĩa lý gì, rồi cũng liêu xiêu đi về nhà.

Ân Ba vẫn lấm đầy bụi, ngủ mê mệt trên nền đất.