Hầu hết những tác giả viết về tâm lí học thành công đều thống nhất rằng việc đặt mục tiêu là vấn đề cơ bản. Cả hai chúng tôi đều sử dụng các chiến lược thiết lập mục tiêu và trực quan hóa để phát triển công việc của mình, và chúng tôi khuyên bạn nên dạy con trẻ làm điều này từ khi còn nhỏ. Đối với một số người, viết một danh sách đơn giản liệt kê các mục tiêu cũng có hiệu quả; còn với những người khác, có một bức tranh trực quan về mục tiêu của bản thân để tham khảo sẽ hiệu quả hơn nhiều. Chẳng hạn, một đứa trẻ thiếu tính tổ chức muốn giữ cho bàn học sạch sẽ có thể chụp ảnh bàn học của mình khi nó đang gọn gàng. Cậu bé sẽ đánh dấu bức ảnh, ghi chú nơi để bút, bút chì, giấy và bài tập về nhà. Khi cần dọn dẹp bàn học vào lần sau, cậu có thể nhìn vào bức ảnh và sắp xếp theo đó. Việc chuẩn bị đến trường cũng tương tự. Nếu cậu bé đồng ý muốn việc chuẩn bị đi học bớt khổ sở hơn, cậu bé có thể nhìn lại bức ảnh mình đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng với áo khoác, tóc tai gọn gàng, ba lô và túi đồ ăn trưa. Khi cậu nhìn thấy những gì mình cần phải làm, cậu có nhiều khả năng sẽ thực hiện những việc đó hơn. Kĩ thuật này cũng hữu ích cho những thanh thiếu niên không có khả năng tổ chức tốt vì việc sắp xếp theo hình ảnh sẽ ít đòi hỏi trí nhớ ngắn hạn hơn là kiểm tra danh sách công việc.1
Có rất nhiều tài liệu viết về sức mạnh của việc hình dung cảnh tượng hoàn thành các mục tiêu. Ý tưởng ở đây là bộ não không thực sự phân biệt được giữa một trải nghiệm thực tế và một trải nghiệm được tưởng tượng ra một cách sống động (đó là lí do tại sao chúng ta sợ hãi khi xem những bộ phim đáng sợ mặc dù chúng ta biết rằng chúng không có thật). Trong một nghiên cứu thú vị do nhà khoa học thần kinh nổi tiếng Alvaro Pascual-Leone thực hiện, một nhóm được yêu cầu chơi các âm giai piano hằng ngày trong một khoảng thời gian nhất định. Một nhóm khác được yêu cầu suy nghĩ về việc chơi những âm giai đó mà không thực sự chơi chúng. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những người tham gia ở cả hai nhóm đều có sự phát triển ở vùng não tương ứng với những cử động ngón tay.2 Nghiên cứu này, cũng như một số nghiên cứu tương tự, có ý nghĩa rất lớn đối với các vận động viên và bệnh nhân cai nghiện.
Khi trẻ lớn hơn một chút, có một phương pháp thiết lập mục tiêu hiệu quả được gọi là tương phản tinh thần (mental contrasting). Tương phản tinh thần là phương pháp do nhà tâm lí học Gabriele Oettingen thuộc Đại học New York phát triển, được thiết kế để giúp học sinh đặt ra các mục tiêu thực tế.3 Đó là cách bảo vệ những người đặt mục tiêu quá cao khỏi nỗi thất vọng bằng cách vạch ra một con đường tới những điều thực sự có thể đạt được. Đây cũng là cách để hỗ trợ những người nhóm Debbie Downer(1), mà phản ứng đầu tiên của họ đối với bất kì mục tiêu nào là đưa ra hàng tá lí do tại sao điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.
(1) Debbie Downer: chỉ những người liên tục đưa ra những nhận xét và cảm xúc tiêu cực, khiến mọi người xung quanh cảm thấy tồi tệ, xuống tinh thần.
Bước đầu tiên khi thực hiện phương pháp tương phản tinh thần là đề nghị con bạn đặt ra mục tiêu của riêng mình. Đó không phải là một mục tiêu nhóm và không nên chịu sự ảnh hưởng của bạn. Mục tiêu phải là một cái gì đó vừa khả thi vừa thách thức.
Bước hai là khuyến khích con bạn viết ra một vài từ về kết quả mà con kì vọng. Trẻ không nên chỉnh sửa gì trong giai đoạn này mà cứ thoải mái viết ra bất cứ điều gì xuất hiện trong đầu.
Bước ba là đề nghị con xem xét những trở ngại nội tại trong việc đạt được mục tiêu đó. Lưu ý bạn không yêu cầu con suy nghĩ về các rào cản bên ngoài. Một lần nữa, đề nghị con lấy bút, giấy và viết ra những trở ngại đó, xem xét xem liệu con sẽ bị ảnh hưởng như thế nào và con có thể làm gì khi những trở ngại đó xuất hiện.
Đôi khi các học sinh của Ned đặt điểm ACT hoặc SAT làm mục tiêu cho bản thân. Những từ trẻ viết ra cho bước hai có thể là “bình tĩnh”, “tự tin”, “tập trung”. Khi xem xét những trở ngại nội tại, chúng viết “vội vàng’, “căng thẳng” và “nhầm lẫn”. Trẻ tự chuẩn bị tinh thần cho bài kiểm tra, và tưởng tượng ra cảm giác căng thẳng hoặc nhầm lẫn đó. Sau đó, chúng tưởng tượng mình giải quyết những trở ngại này, hoặc ít nhất là chịu đựng chúng. Chúng sẽ sử dụng kiểu tự thoại nào? Làm thế nào để trẻ bật phím tắt khi làm bài kiểm tra để tự nhắc nhở rằng, không giống như trong học tập, không trả lời một số câu hỏi có thể tốt hơn là phân chia thời gian cho mọi câu hỏi? Kế hoạch đối phó khi gặp trở ngại là gì? Lường trước những trở ngại tiềm tàng và cho phép những điều bất ngờ sẽ giúp chúng đối phó hiệu quả hơn.
Một học sinh của Ned gặp khó khăn khi giao tiếp xã hội và được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lo âu sau khi chuyển trường đã phối hợp với một cố vấn để thực hiện hoạt động nhập vai và thực hành những gì cô bé sẽ làm hoặc nói trong các tình huống xã hội khiến cô không thoải mái. Cô bé làm đi làm lại việc này nhiều lần. Mặc dù cô bé hiếm khi sử dụng những lời cô đã thực hành, nhưng việc biết rõ mình nên nói gì sẽ giúp cô thấy bớt lo lắng. Các tình huống xã hội không còn khó lường như trước.
Chúng tôi cũng có niềm tin to lớn trong việc xây dựng các mục tiêu “tốt nhất cho bản thân” trong phòng học, trong phòng nhạc, trên sân chơi, hay ở sân sau nhà. Không phải cạnh tranh là điều xấu – con bạn cần học cách nỗ lực đạt được khi thực sự muốn chiến thắng – nhưng khi đối tượng cạnh tranh là chính bản thân con thì hiệu quả sẽ tốt hơn nhiều. Con bạn có thể không kiểm soát được việc người khác thực hành nhiều bao nhiêu hay họ giỏi như thế nào, nhưng trẻ hoàn toàn kiểm soát được việc mình sẽ thực hành nhiều bao nhiêu để đánh bại bản thân của lúc trước hoặc điểm số đã có trước đó. Nhìn thấy bản thân trở nên giỏi hơn trong một việc gì đó là một điều cực kì đáng giá. Sự thật là, bạn không bao giờ quá trẻ hoặc quá già để đặt ra mục tiêu tốt nhất cho bản thân.
Ned thường kể câu chuyện về cha vợ của mình, một chuyên gia trượt tuyết. Đến nửa sau của cuộc đời, ông quyết định rằng ông muốn theo đuổi môn trượt tuyết. Ned cũng quyết định thử nó. Bất cứ ai đã dành một ngày làm quen với môn trượt tuyết đều biết, nó thật sự rất dễ nản lòng. Bạn ngã rất nhiều. Bạn bị ướt và bầm tím, đặc biệt nếu bạn đã ngoài 20 tuổi. Nhưng sau ngày thứ nhất, bạn bắt đầu có nhiều thời gian đứng thẳng người hơn là ngồi bệt. Vào ngày thứ hai, bạn gần đạt mức trung bình. Đến cuối tuần, bạn có thể trượt xuống ở những đường trượt dành cho người mới và bắt đầu có cảm giác rằng mình có thể làm được. Cảm giác học một kĩ năng mới và ngày một tiến bộ thúc đẩy động lực bên trong bạn.
Thế giới kiểm tra đánh giá là mảnh đất màu mỡ cho các mục tiêu tốt nhất cho bản thân. Một trong những học sinh của Ned, Allison, đã đến gặp anh để chuẩn bị thi ACT. Cha mẹ cô bé nói rằng họ muốn cô đạt 34 (trên tổng 36). Anh hỏi cô bé rằng mục tiêu mà cô bé đang nhắm đến là bao nhiêu, cô bé trả lời mong muốn đạt 31 hoặc 32. Ned biết điểm số hiện tại của cô là 24. Thật vô lý khi đặt mục tiêu là 34; đó là mục tiêu của cha mẹ, không phải của cô bé. Nhưng cũng vô lý khi cô bé đặt mục tiêu là 32, đó là một bước nhảy vọt phi thực tế từ số điểm hiện tại. Họ đã thảo luận và xác định mục tiêu hợp lí cho Allison là 28. Nó mang tính thực tế nhưng cũng đầy thách thức. Sau đó, nếu cô bé có thể đạt 28 điểm, cô bé có thể “khóa chốt” lại, theo cách mà những người leo núi làm. (Hầu hết khi leo lên thêm được một đoạn, họ khóa chốt, tiếp tục leo lên và lại khóa chốt như vậy. Nếu không may bị ngã, họ chỉ bị trượt xuống 10 feet, thay vì 200 feet). Từ mức điểm an toàn là 28, Allison có thể cảm thấy tự hào về tiến bộ của mình. Sau đó, cô sẽ nhìn về phía trước và nhắm đến mục tiêu 31 hoặc 32, một mục tiêu hoàn toàn phù hợp.
Cho dù đó là trong phòng thi, trên sườn núi hay ở sân sau nơi con bạn đang cố gắng học nhào lộn, những phương pháp đặt mục tiêu cho trẻ từ A đến B này tiếp thêm nhiên liệu cho động lực nội sinh và ý thức tự kiểm soát của trẻ.