• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nuôi dạy đứa trẻ tự chủ
  3. Trang 68

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 67
  • 68
  • 69
  • More pages
  • 91
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 67
  • 68
  • 69
  • More pages
  • 91
  • Sau

Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD)

Phòng khám lâm sàng của Bill đã đánh giá hàng trăm trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn mắc ADHD mỗi năm. Đối với một số người, tình trạng này là nguồn gốc của sự xấu hổ cực độ và thậm chí là hổ thẹn, trong khi những người khác chấp nhận và trên thực tế còn nói đùa về nó. Trong năm ngoái, Bill đã gặp các thiếu niên đến tham gia đánh giá mặc những chiếc áo phông với dòng chữ:

“Cha mẹ nói rằng tôi không lắng nghe – hoặc đại loại như vậy.”

“Người có tổ chức là những người quá lười tìm kiếm mọi thứ.”

Chúng tôi nghĩ rằng đây là một chiều hướng tuyệt vời. Nếu trẻ em có thể có khiếu hài hước về những khó khăn của chúng, chúng có thể sử dụng sự hiểu biết về bản thân đó để kiểm soát chứng ADHD của mình và từ đó tăng cường ý thức tự kiểm soát.

Theo định nghĩa, trẻ em mắc ADHD gặp khó khăn trong việc kiểm soát sự chú ý của bản thân. Định nghĩa này dùng cho cả những trường hợp tăng động giảm chú ý “dạng trội về giảm chú ý”, tức là có xu hướng không tập trung chú ý và thiếu tính tổ chức, và những trường hợp tăng động giảm chú ý “dạng kết hợp”, tức là vừa bốc đồng và/hoặc tăng động cũng như là không tập trung và thiếu tính tổ chức. Những đứa trẻ mắc ADHD rất khó có thể tự làm những việc được yêu cầu, và với nhiều trường hợp thậm chí là khó gắn bó với những thứ trẻ muốn làm và những điều quan trọng với trẻ. Trẻ em mắc ADHD thường có mức dopamine căn bản thấp và não bộ của trẻ sử dụng dopamine kém hiệu quả hơn so với hầu hết trẻ em khác. (Các loại thuốc kích thích như Ritalin phát huy tác dụng bằng cách cải thiện quá trình xử lí dopamine.) Do đó, chúng có xu hướng thích những phần thưởng nhỏ và ngay tức thì hơn là những phần thưởng lớn hơn và dài hạn. Như chúng tôi đã giải thích trong Chương 5, mặc dù dopamine từng chủ yếu gắn liền với niềm vui, các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng nó có mối liên kết mạnh mẽ với động lực, động cơ và nỗ lực.

John Salamone, một nhà nghiên cứu tại Đại học Connecticut, đã giúp làm rõ mối liên kết giữa dopamine, động lực và nỗ lực. Ông đã thực hiện một thí nghiệm với chuột, trong đó chúng được lựa chọn giữa hai phần thức ăn – một phần đặt gần chỗ chúng nhưng kích thước nhỏ và một phần khác kích cỡ gấp đôi nhưng đặt sau một hàng rào nhỏ. Những con chuột có mức dopamine thấp hơn hầu như luôn chọn cách dễ dàng, tức là chọn phần thức ăn nhỏ thay vì nhảy qua hàng rào để nhận phần thưởng lớn hơn. Salamone giải thích “Mức dopamine thấp làm cho con người và các động vật khác ít muốn nỗ lực để có được mọi thứ hơn, vì vậy nó có liên quan nhiều đến động lực và phân tích chi phí/ lợi ích hơn là niềm vui.” Nghiên cứu ở các bệnh nhân mắc chứng trầm cảm đã chứng minh tác động của dopamine đối với động lực.6 Lượng dopamine của bạn càng thấp thì bạn càng ít muốn nhảy qua hàng rào đó để nhận phần thưởng lớn hơn – hay thậm chí là ra khỏi giường.

Điều khiến mọi thứ phức tạp hơn đối với trẻ em mắc ADHD nằm ở thực tế là những trẻ có năng lực kiểm soát xung động chưa trưởng thành thường hành động theo những cách mà trẻ sẽ hối tiếc, và kết quả là trẻ thấy thiếu tự tin về việc có thể xử lí thành công các vấn đề. Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn nếu chúng bị sửa lỗi hoặc bị yêu cầu dừng lại nhiều lần, như thể trẻ có thể “cư xử tốt hơn” dựa vào sức mạnh ý chí của mình. Dù cố gắng hết sức, chúng cũng không thể khiến mình trở nên “ngoan ngoãn”. Chúng cũng có xu hướng không nhất quán trong suy nghĩ và hành động, dẫn đến cảm giác không thể đoán trước. Chúng thường được bảo rằng “hãy cố gắng hơn”, nhưng một số nghiên cứu có quét não bộ cho thấy rằng chúng càng cố gắng tập trung, bộ não càng ít kích hoạt. Hãy nhớ rằng, căng thẳng làm tổn hại đến khả năng chú ý. Vì vậy, nếu con trai bạn đang vật lộn để mặc quần áo vào buổi sáng, hẳn bạn không muốn làm cho bé căng thẳng thêm bằng cách liên tục cằn nhằn bé.

Nhiều biện pháp can thiệp được chỉ định nhằm giúp trẻ mắc ADHD cố gắng bảo vệ trẻ khỏi chính bản thân trẻ. Điều này có thể hữu ích trong thời gian ngắn nhưng có vấn đề về lâu dài. Nhiều trẻ em mắc ADHD được hưởng lợi từ sự giúp đỡ có tổ chức trong suốt quá trình học tập của trẻ. Nhưng nếu sự giúp đỡ có tổ chức đó bị áp đặt lên trẻ hoặc do mẹ quản lý, nó sẽ làm giảm ý thức kiểm soát và động lực học tập của trẻ đồng thời củng cố niềm tin rằng có người khác, chứ không phải chính trẻ, chịu trách nhiệm cho việc học tập, công việc và hành vi của trẻ. Nó chỉ làm trì hoãn ngày hoặc thời điểm “giác ngộ” khi mà đứa trẻ hiểu rằng trẻ phải chịu trách nhiệm cho cuộc sống của chính mình.

Margaret Sibley chỉ ra rằng bởi vì gặp khó khăn trong việc bắt đầu mọi việc một cách độc lập và duy trì sự chú ý và nỗ lực, thanh thiếu niên mắc ADHD có thể bỏ lỡ cơ hội phát triển các kĩ năng tự lập. Tình trạng này có thể xảy ra do bản thân trẻ tránh né nhiệm vụ hoặc do xu hướng người lớn liên tục cung cấp sự hỗ trợ. Sibley ước tính rằng 40% cha mẹ có con mắc ADHD cảm thấy bất lực và vô vọng khi con họ đến tuổi thanh thiếu niên, dẫn đến kiểu nuôi dạy con thiếu quan tâm, trong khi 40% khác thắt chặt dây cương và can thiệp quá mức vào cuộc sống thường nhật của lứa tuổi vị thành niên.7 Bill rất hay gặp trường hợp thứ hai. Anh thường hỏi những trẻ mắc ADHD gặp vấn đề liên quan đến việc nộp bài tập về nhà là: “Ai là người buồn nhất nếu em không nộp bài tập được giao?” Đôi lúc có trẻ trả lời: “Là em ạ. Rất khó chịu. Em làm bài kiểm tra rất tốt nhưng lại toàn điểm C vì không nhớ nộp bài tập.” Tuy nhiên, phần lớn câu trả lời hầu như luôn luôn là “Mẹ em.” Khi Bill hỏi “Ai là người khó chịu tiếp theo?”, bọn trẻ thường trả lời “Bố em, rồi giáo viên của em, gia sư của em, chuyên gia trị liệu của em, chị gái em…” Bản thân đứa trẻ hiếm khi nằm trong danh sách.

Những người lớn giúp đỡ những đứa trẻ này có ý định tốt. Họ chỉ muốn đảm bảo họ không bỏ qua bất kì điều gì. Nhưng việc cố gắng bảo vệ một đứa trẻ khỏi bản thân trẻ năm này qua năm khác sẽ làm trẻ suy yếu. Nếu trẻ muốn nộp bài tập của mình một cách đều đặn hơn, hãy cho trẻ lựa chọn nộp bài tập qua mạng để tránh thử thách phải nhớ nộp bài tại lớp. Hoặc khuyến khích trẻ nhờ giáo viên nhắc nộp bài vào đầu hoặc cuối tiết học. Hoặc bạn cùng với con đưa ra các ý tưởng để xây dựng một hệ thống liên lạc giữa gia đình và nhà trường có thể giúp đảm bảo rằng trẻ làm bài tập đầy đủ, mang những tài liệu cần thiết về nhà và nộp đủ bài tập. Hãy nhớ rằng cuối cùng thì bài tập là vấn đề của con, và nếu bạn làm nhiều hơn cả con thì bạn không giúp con chút nào.

Đề nghị giúp đỡ, nhưng không ép buộc. (Hãy nhớ rằng phản đối và thách thức là cách một số trẻ dùng để duy trì ý thức tự kiểm soát và chống lại căng thẳng). Hãy chắc chắn rằng con bạn biết những gì đang diễn ra trong não bộ của mình và biết làm thế nào để hỏi xin sự giúp đỡ khi cần thiết. Nếu việc tạo động lực cho trẻ làm bài tập hay chuẩn bị đi học vào buổi sáng là cần thiết, bạn có thể đặt ra phần thưởng. Đây có thể là những yếu tố tạo động lực hiệu quả trong thời gian ngắn, là một cách làm cho não bộ của trẻ hoạt động tối ưu hơn (bằng cách làm tăng dopamine), nhưng trong hầu hết các trường hợp, đừng nghĩ chúng là phương tiện để khiến trẻ làm những gì bạn muốn trẻ làm. Hãy nhắc trẻ rằng khi trẻ trưởng thành, mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn và dễ dàng hơn với trẻ. Một số trẻ vượt qua được phần lớn các triệu chứng ADHD ở độ tuổi thanh thiếu niên, và những đứa trẻ khác học được các kĩ thuật hiệu quả để làm giảm bớt vấn đề. Nếu con bạn nỗ lực, mọi thứ sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, một điều quan trọng mà cha mẹ và trẻ mắc ADHD cần phải hiểu là sự trưởng thành của vùng vỏ não trước trán ở thanh thiếu niên mắc ADHD có xu hướng chậm hơn nhiều năm so với những đứa trẻ khác cùng tuổi.8 Đây là lí do tại sao những đứa trẻ mắc ADHD thường thành công muộn, vì trẻ chỉ đơn giản là phải chờ đợi cho đến khi vùng vỏ não trước trán của trẻ trưởng thành và hoạt động đầy đủ để tìm cách thực hiện những việc mà trước đây trẻ không thể làm thành công được. Chúng tôi khuyên phụ huynh có con mắc ADHD nói cho trẻ biết rằng trẻ đang làm tốt nhất có thể và khuyến khích trẻ kiên nhẫn với chính mình. Đó là một thông điệp tốt đẹp về hi vọng và niềm tin và có thể thúc đẩy tư duy phát triển.

Các vấn đề liên quan đến sự tự quyết thường xuất hiện có liên quan đến việc sử dụng thuốc, vì trẻ em mắc ADHD thường được khuyến khích dùng thuốc kích thích như Adderall, CONCERTA® hoặc Ritalin để giúp trẻ tập trung. Nhiều trẻ em, đặc biệt là thanh thiếu niên, nói với cha mẹ rằng chúng tập trung tốt hơn nhưng không thích những tác dụng phụ khi uống thuốc. Khi các bậc cha mẹ hỏi lời khuyên của Bill, anh thường đề nghị họ nói với con rằng không ai ép con uống thuốc – và không ai muốn con uống thứ thuốc khiến con cảm thấy khó chịu. Chúng tôi chỉ muốn trẻ uống thuốc nếu nó giúp cải thiện đáng kể cuộc sống của trẻ với tác dụng phụ ở mức tối thiểu. Cha mẹ có thể nói với con rằng các loại thuốc khác nhau có các tác dụng phụ khác nhau và trẻ có thể thử dùng loại thuốc khác. Có nhiều cách mà trẻ có thể thực hiện để giúp trẻ dung nạp thuốc tốt hơn như tích cực tập thể dục, nạp thêm calo trong ngày bằng cách uống sinh tố protein…

Nếu con bạn muốn tìm kiếm các phương pháp khác để cải thiện các triệu chứng ADHD của mình, có một số lựa chọn cho bạn. Chẳng hạn, chúng tôi đã nói về lợi ích của liệu pháp hành vi nhận thức và phương pháp hợp tác giải quyết vấn đề trong cuốn sách này, và một lần nữa chúng tôi khuyến khích bạn tìm hiểu công trình nghiên cứu của Ross Greene và J. Stuart Ablon, những người đã phát triển kĩ thuật này. Ngoài ra, cho con biết rằng tập thể dục sẽ giúp thúc đẩy quá trình sản sinh dopamine tự nhiên. Một số bằng chứng cho thấy thiền định cũng hữu ích trong việc giảm các triệu chứng ADHD, giảm lo lắng và cải thiện chức năng não bộ. Năm 2009, Bill và đồng nghiệp Sarina Grosswald đã hợp tác trong một nghiên cứu thí điểm về tác động của Thiền siêu việt với học sinh cấp hai mắc ADHD. Họ phát hiện ra rằng thanh thiếu niên mắc ADHD thực sự có thể ngồi thiền trong mười lăm phút, và sau ba tháng ngồi thiền hai lần mỗi ngày, các triệu chứng căng thẳng và lo âu ở những trẻ này giảm 43%. Nghiên cứu cũng cho thấy trẻ điều tiết hành vi và kiểm soát cảm xúc tốt hơn. Nghiên cứu thứ hai được kiểm soát kỹ lưỡng do Fred Travis, một chuyên gia về đánh giá sóng não dẫn dắt thực hiện. Nghiên cứu này đã xem xét tác động của Thiền siêu việt đối với hoạt động sóng não của học sinh cấp hai mắc ADHD. Hoạt động sóng não được quan tâm vì sóng não theta thường hoạt động quá mạnh so với sóng não beta ở trẻ em mắc ADHD. Các đối tượng nghiên cứu được phân ngẫu nhiên vào hai nhóm là nhóm Thiền siêu việt và nhóm khởi động muộn, trong đó nhóm thứ hai được dùng làm đối chứng trong ba tháng đầu trước khi tự học Thiền siêu việt. Sau ba tháng nghiên cứu, tỉ lệ theta/ beta của nhóm khởi động muộn tăng lên, trái ngược với hiệu quả mong muốn, trong khi đó nhóm Thiền siêu việt tiến gần tới các giá trị bình thường. Tại mốc sáu tháng, sau khi cả hai nhóm đều thực hành Thiền siêu việt, tỉ lệ theta/beta ở cải hai nhóm đều giảm xuống.9

Một số nhà nghiên cứu cũng đang xem xét liệu thực hành chánh niệm có thể cải thiện các triệu chứng ADHD ở trẻ em hay không. Mặc dù rất ít nghiên cứu được kiểm soát chặt chẽ, vẫn có bằng chứng hứa hẹn rằng thực hành chánh niệm có thể hữu ích.10 Theo kinh nghiệm của Bill, mặc dù không có phương pháp nào đạt được hiệu quả như thuốc kích thích khi nó phát huy tác dụng tốt (và không phải lúc nào cũng vậy), bất cứ biện pháp nào có thể làm giảm căng thẳng đều giúp cho bộ não của trẻ mắc ADHD hoạt động hiệu quả hơn.

Gần đây, Bill đánh giá trường hợp của Adam, một trẻ sáu tuổi mắc ADHD và các vấn đề về hành vi. Các giáo viên nói với mẹ cậu bé rằng mặc dù cậu bé rất tốt bụng, nhưng cậu là một trong những đứa trẻ khó tính và hay gây rối nhất mà các giáo viên từng gặp. Ở nhà, khuynh hướng chống đối của Adam khiến cậu bé rất khó kiểm soát, và việc cậu phản kháng với sự hướng dẫn của mẹ thường dẫn đến những xung đột đau đớn và không hiệu quả. Vài ngày sau buổi đánh giá tâm lí học thần kinh, Bill đã gặp mẹ Adam để thảo luận về kết quả kiểm tra và những biện pháp thúc đẩy ý thức tự chủ của cậu bé. Bill đã trình bày phương pháp hợp tác giải quyết vấn đề mà chúng tôi đã thảo luận trong Chương 3 và nói rằng cô ấy khó có thể nhìn thấy sự tiến bộ nếu chỉ đơn thuần là cố gắng ép Adam tuân thủ. Vài ngày sau, người mẹ gửi cho Bill bức thư điện tử như sau:

“Tôi đã thử ứng phó với sự kháng cự của Adam thông qua việc hợp tác, không dùng cách ép buộc hay các biện pháp độc đoán. Và nó hiệu quả đến bất ngờ. Khi tôi nói ‘Chúng ta sẽ đi ngủ trong năm phút nữa,’ Adam ngay lập tức hét lên, ‘Không, không ngủ’. Nó thậm chí còn đứng dậy trong tư thế chiến đấu, sẵn sàng hạ gục tôi. Bình thường tôi quát lại ‘Con phải đi ngủ!’. Nhưng lần này, tôi không tham chiến. Tôi chỉ nhìn con, rồi bước tới ôm lấy nó, hôn lên trán con và nói rằng con không cần phải hét lên như thế. Cậu bé thả lỏng và gần như mủi lòng, và sau đó tự quyết định tắt tivi và đi lên phòng. Mặc dù nó mặc cả với tôi để được nghe nhạc trên điện thoại của tôi trước khi ngủ, chúng tôi đã tránh được một trận xung đột lớn và đã có một đêm yên bình.”

Chương trình STAND của Margaret Sibley tiếp cận từ cùng một góc độ, vì nó khuyến nghị cách tiếp cận tôn trọng, không ép buộc để giúp thanh thiếu niên và cha mẹ họ làm rõ các mục tiêu cá nhân của mình và đánh giá nhu cầu, mong muốn thay đổi của họ. Nghiên cứu về phương pháp STAND cho thấy có sự cải thiện ở những khía cạnh như kĩ năng tổ chức, hành vi đối với bài tập về nhà, thỏa thuận giữa cha mẹ và thanh thiếu niên, và căng thẳng trong khi nuôi dạy con. Không có gì ngạc nhiên khi các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng khi kết thúc chương trình trị liệu, so với những cha mẹ tham gia các liệu pháp truyền thống hơn, các bậc cha mẹ đã tham gia chương trình STAND có xu hướng áp dụng phong cách nuôi dạy con cái ủng hộ tính tự chủ.11

Gần đây Ned có gặp gỡ một trẻ mắc khuyết tật học tập ở mức độ trung bình và đồng thời mắc chứng ADHD. Cậu bé cũng có nhận thức về bản thân đáng kinh ngạc và biết mình cần những gì để phát triển. Sau khi xem xét những lớp học mà cậu thích và cả không thích, Ned hỏi cậu thích làm gì ngoài giờ học ở trường và biết được cậu bé là “fan cứng” của trò chơi điện tử.

“Em chơi bao nhiêu lâu?”, Ned hỏi cậu.

“Rất nhiều.”

“Nó có ảnh hưởng đến việc học của em không hay mọi việc đều tốt?”

“Em làm hết bài tập ở trường vào ban ngày, sau năm giờ chiều, thuốc của em hết tác dụng và em phải mất gấp đôi thời gian để làm mọi việc, vì vậy em phải cố gắng làm xong bài khi còn tập trung.”

“Thầy thích điều đó”, Ned nói. “Thầy ngạc nhiên là mọi người thường hay bỏ công việc lại và phải mất gấp đôi thời gian để hoàn thành vào thời điểm khác trong ngày khi mà họ làm việc kém hiệu quả hơn.”

“Em biết. Em làm xong bài tập về nhà và sau đó em có thể chơi trò chơi điện tử.”

“Em có quản lý thời gian chơi của mình không?”, Ned hỏi. “Hay có khi nào em thức suốt đêm không?”

“Ồ, không ạ. Em không muốn bị mệt, em cũng không thể tập trung được. Vì vậy, em không thức đêm.”

Điều mà câu chuyện này muốn nhấn mạnh là ADHD không triệt tiêu khả năng thấu hiểu bản thân, kỷ luật và khả năng tự kiểm soát. Chẳng dễ dàng gì khi là một đứa trẻ có khoảng thời gian chú ý ngắn, khả năng tập trung vào bất cứ điều gì không thú vị bị hạn chế, hoặc gặp khó khăn khi phải ngồi yên và cư xử phù hợp. Và nuôi dạy những đứa trẻ như vậy cũng chẳng hề dễ dàng. Nhưng mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta nhớ rằng, giống như tất cả trẻ em khác, trẻ mắc ADHD cần có ý thức tự chủ để có thể hạnh phúc và hoạt động tối ưu. Mặc dù đôi lúc cần được điều chỉnh nhưng các chiến lược mà chúng tôi đã nói trong cuốn sách này có thể giúp ích cho những đứa trẻ này nhiều như chúng giúp ích cho những trẻ có khả năng tập trung chuyên chú.

Có một số trường hợp mà các chiến lược quản lý hành vi chủ động như dành thời gian riêng với con, dành cho con sự chú ý tích cực, sử dụng các hệ quả tự nhiên và hợp lí, hợp tác giải quyết vấn đề – vẫn chưa đủ. Nếu hành vi của con bạn không thể kiểm soát được, nếu con liên tục đưa ra các quyết định tồi tệ và không thể tham gia các cuộc đối thoại cần thiết để đưa ra quyết định sáng suốt, hoặc nếu trẻ đơn giản là không thể tự thúc đẩy bản thân, chúng tôi ủng hộ bạn sử dụng các chương trình hành vi có tổ chức có sử dụng phần thưởng và hậu quả – ít nhất là trong những khoảng thời gian ngắn. (Chúng tôi giới thiệu với bạn cuốn sách của Tiến sĩ Dan Shapiro: Parent Child Journey: An Individualized Approach to Raising Your Challenging Child để có được hướng dẫn chuyên sâu trong việc sử dụng các chiến lược hành vi.)