1. Khoa học ủng hộ chúng ta.
Khi bạn được trao cơ hội để tự đưa ra quyết định, việc đó cho phép bạn cảm thấy mình được làm chủ trong những bối cảnh khác. Não bộ đang học cách đưa ra những lựa chọn khó khăn và tự bảo vệ nó khỏi sự căng thẳng do cảm giác bất lực gây ra. Não cũng được hưởng lợi từ động lực bên trong đến từ sự tự chủ. Trẻ càng có nhiều trải nghiệm tự kiểm soát căng thẳng và vượt qua những thách thức của bản thân, vùng vỏ não trước trán của trẻ càng có khả năng điều khiển hạch hạnh nhân.
Rất nhiều khách hàng của chúng tôi quen thuộc với những nghiên cứu về sự phát triển não bộ của trẻ vị thành niên. Họ biết rằng trẻ trong độ tuổi vị thành niên có xu hướng chấp nhận những rủi ro dường như ngớ ngẩn, đặc biệt là khi chúng ở bên cạnh bạn bè. Cha mẹ chúng biết rằng vùng vỏ não trước trán của trẻ chưa phát triển hoàn toàn. Nhưng như chúng tôi đã chỉ ra ở Chương 2, việc phải đợi đến khi não bộ của trẻ phát triển đầy đủ rồi mới trao quyền quyết định cho trẻ không hề hợp lí, còn nếu không thì bạn phải chờ đến khi con bạn đã ở cuối tuổi đôi mươi hoặc những năm đầu ba mươi tuổi. Não bộ phát triển tùy theo cách ta sử dụng nó. Điều này có nghĩa là bằng cách khuyến khích trẻ - và yêu cầu trẻ vị thành niên - tự đưa ra quyết định, chúng ta mang lại cho trẻ những trải nghiệm vô giá trong việc đánh giá nhu cầu của bản thân một cách thành thực, quan tâm tới cảm xúc và động lực của bản thân, cân nhắc ưu và nhược điểm, và cố gắng đưa ra quyết định tốt nhất có thể cho chính bản thân trẻ. Chúng ta giúp trẻ phát triển một bộ não quen với việc đưa ra những lựa chọn khó khăn và làm chủ những lựa chọn đó. Đây là nhiệm vụ khổng lồ và sẽ đem lại lợi ích lớn lao trong tương lai.
2. Trẻ không nên cảm thấy mình là nhánh trống rỗng của bố mẹ.
Khi chúng ta cố gắng chỉ đạo cuộc sống của con cái, ta có thể thấy những lợi ích trước mắt, nhưng chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với những tổn thất về lâu dài. Trẻ thường kháng cự, không chịu làm những việc có ích cho bản thân nếu trẻ cảm thấy bị ép buộc làm việc đó (hãy nghĩ đến Matt, cậu đã ngồi ngoài ngõ để cố tình không về nhà đúng giờ giới nghiêm). Nếu trẻ thuộc nhóm luôn luôn vâng lời chứ không phải nhóm nổi loạn, thì vẫn có một vấn đề: Nếu sau này trẻ thành công, trẻ sẽ cảm thấy mình giống như kẻ mạo danh, thành công không thực sự thuộc về trẻ. Nhà trị liệu, nhà văn Lori Gottlieb viết một bài báo cho tờ Atlantic đặt ra vấn đề vì sao rất nhiều bệnh nhân trong độ tuổi hai mươi của bà bị trầm cảm một cách khó hiểu, mặc dù họ có những ông bố bà mẹ tuyệt vời và nhìn bề ngoài họ có cuộc sống rất tốt đẹp. Nhóm bệnh nhân này khiến bà bối rối cho đến khi bà tìm ra câu hỏi thích hợp để hỏi. Bà viết “Hồi học cao học, các nghiên cứu lâm sàng luôn tập trung vào việc cha mẹ thiếu quan tâm ảnh hưởng đến con cái như thế nào. Nhưng chúng ta lại chưa bao giờ hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu cha mẹ quá quan tâm. Chuyện gì xảy ra với những đứa trẻ đó?”2
Bà tìm hiểu vấn đề này thông qua ví dụ một đứa trẻ chập chững biết đi, bé bị ngã và phụ huynh vội vàng lao đến đỡ bé lên, ngay trước khi bé kịp có cơ hội nhận biết chuyện gì đã xảy ra. Phụ huynh này nhanh chóng hỗ trợ để đảm bảo con họ không phải chịu đau khổ – nhưng tại sao phải làm vậy? Dù rất đau đớn khi phải chứng kiến, nhưng việc chịu khổ lại là một điều quan trọng đối với quá trình phát triển sự kiên cường ở trẻ. Có phải việc nhìn con chịu khổ khiến họ quá đau lòng? Hay họ cần cảm giác mình được cần đến?
Chúng tôi thường xuyên nhìn thấy kiểu làm cha mẹ “trực thăng” này cũng như các hậu quả của nó. Sarah, một học sinh của Ned, đã cùng cha mẹ đến gặp anh trước khi đi du học trong một học kì. Tại buổi gặp, cha mẹ của cô bé đã trình bày những mục tiêu và mối lo ngại của họ về kì học sắp tới. Họ hỏi những câu hỏi như, “Chúng tôi nên làm gì với môn toán mà con sẽ bỏ lỡ? Chúng tôi ứng phó với kì thi SAT như thế nào đây?” Bố mẹ cô bé nói trong phần lớn thời gian tại cuộc gặp và mặc dù cuối cùng tất cả đều thống nhất một kế hoạch, nhưng Ned cảm nhận được Sarah thực sự không thoải mái.
Do đó, trong lần gặp tiếp theo, anh đã gặp riêng cô bé, và anh hỏi cô bé thực sự cảm thấy thế nào về kế hoạch đó.
“Kế hoạch thì ổn”, cô bé nói. “Nhưng vấn đề là từ chúng ta.”
“Ý em là sao?”
“Tất cả đều là ‘Chúng ta phải đạt điểm cao trong kì thi này,’ và ‘Chúng ta phải đạt thành tích cao trong năm học này’ và ‘Chúng ta phải viết bài luận tốt hơn’.” Rõ ràng, Sarah đã kìm nén sự bực bội của bản thân trong một thời gian. “Cha mẹ em không viết bài luận, mà em là người viết. Không có “chúng ta” ở đây, em phát điên khi họ nói theo cách đó. Đây là cuộc đời em và là việc học của em, và là bài luận ngớ ngẩn mà em phải viết.”
Hãy ghi nhớ câu thần chú: “Bố mẹ tin tưởng rằng con có khả năng tự đưa ra quyết định sáng suốt về cuộc đời của con, và con có thể học hỏi từ những sai lầm.” Cha mẹ của Sarah đã truyền đạt cho cô bé thông điệp hoàn toàn ngược lại. Thực sự nó cũng giống như trường hợp người mẹ không để đứa con chập chững biết đi của mình vấp ngã. Sarah là một đứa trẻ thông minh, giàu động lực và tất cả những gì cô bé nghe thấy là cha mẹ không tin tưởng quyết định của mình, thậm chí không coi chúng là những quyết định của cô bé.
3. Cho trẻ ý thức tự kiểm soát là cách duy nhất để dạy trẻ năng lực – trong việc ra quyết định, hay trong bất cứ kĩ năng nào trẻ đang học.
Ngạn ngữ có câu: “Sự thông thái có được từ kinh nghiệm, và kinh nghiệm có được từ những quyết định sai lầm.” Trẻ em cần được thực hành ra quyết định trước khi trẻ có thể làm vậy một cách hợp pháp. Nói cho con biết cách đưa ra quyết định sáng suốt (hoặc nói cho trẻ biết cách làm việc vì mình) là không đủ. Chỉ cho trẻ cách làm cũng không đủ. Trẻ cần được thực sự làm những việc đó. Trẻ cần được thực hành. Trẻ cần trải nghiệm những hậu quả tự nhiên đến từ những lựa chọn của mình, từ việc chịu đựng cái lạnh không mấy dễ chịu khi quyết định không mặc áo khoác, cho đến việc nhận điểm thấp trong bài kiểm tra vì trẻ đã quyết định không học bài. Chúng ta thường nhìn thấy trẻ vị thành niên và thanh niên rời nhà đi học đại học mà không có nhiều cơ hội ra quyết định về những việc quan trọng, bao gồm việc chúng muốn sắp xếp thời gian ra sao, chúng muốn dành năng lượng cho việc gì, hay chúng có muốn đi học hay không. Không có gì đáng ngạc nhiên, chúng gặp khó khăn trong việc đặt ra và đạt được mục tiêu, trong việc đưa ra quyết định đúng đắn khi phải chọn lựa lớp học, hay chuyên ngành, hoặc chung chung hơn là làm chủ cuộc đời chúng.
Điều này cũng đúng với một loạt các kĩ năng sống khác. Một bà mẹ dẫn hai đứa con đến để Ned dạy kèm và hỏi liệu anh ấy có nhận trả tiền qua séc không. Mặc dù cô biết trả tiền bằng thẻ tín dụng dễ dàng hơn nhưng cô muốn con mình có trải nghiệm viết séc thực sự để bọn trẻ biết cách làm. Điều này gợi cho Ned nhớ đến việc anh đã từng dừng lại để kiểm tra một chiếc xe hơi bên đường đang bật đèn báo khẩn cấp. Chiếc xe bị xẹp lốp nhưng không đứa trẻ nào trong xe biết cách thay lốp. Có lẽ bọn trẻ đều đã được hướng dẫn cách làm trong khi học lái xe. Nhưng bạn có thể xem hàng trăm video về thay lốp xe mà vẫn bất lực nếu bạn chưa bao giờ thực sự làm việc đó. Chắc chắn, AAA (Hiệp hội ô tô Mỹ) sẽ tới trong vòng một giờ. Nhưng đó là một giờ đồng hồ trong bóng đêm bên lề đường trong khi đáng lẽ bạn hoàn toàn có thể tự giải quyết vấn đề của mình. Sự tự quyết cần phải thực hành.
4. Không phải lúc nào bạn cũng biết điều gì là tốt nhất.
Điều này có vẻ khó chấp nhận, nhưng thật sự rất khó để biết được điều gì có lợi nhất cho con bạn. Một phần là vì bạn không biết con bạn muốn trở thành người như thế nào – đó là việc mà trẻ phải tự tìm ra, lí tưởng nhất là có sự giúp đỡ của bạn. Đồng thời, thông thường những thứ tưởng như là thảm họa hóa ra lại là phúc lành. Có rất nhiều con đường dẫn đến thành công, và đôi khi chúng ta chỉ có thể tìm được con đường đúng đắn bằng cách đi lạc đôi chút.
Là cha mẹ, chúng ta thường đưa ra các quyết định dường như rất hợp lí cho con cái, như việc đăng kí cho con tham gia lớp bóng đá thay vì kịch nghệ, chỉ để rước bực vào người. Cuộc đời của chúng ta cũng vậy. Hầu hết chúng ta làm việc cật lực, ăn quá nhiều, ngủ quá ít, đầu tư sai lầm và thấy sự nghiệp của chúng ta không như kế hoạch ban đầu. Hãy nhớ trở nên khiêm nhường. Đôi khi chúng ta không biết điều gì là đúng.
Trong vài tháng đầu tiên khi học năm thứ nhất đại học, Ned muốn bảo lưu một năm. Cha mẹ của anh ấy lo ngại rằng anh sẽ không đi học trở lại nên đã từ chối ý kiến đó. Anh lầm lũi bước qua năm thứ nhất và khi thấy mình vẫn có mong muốn đó ở năm thứ hai, một lần nữa anh cố gắng để nghỉ học một năm. Lần này, cha mẹ anh đã đồng ý. Một năm nghỉ học đó đã đem đến cho Ned cơ hội bước ra khỏi khuôn khổ, cho anh cơ hội giải phóng bản thân và suy nghĩ về những gì anh thực sự muốn làm. Anh không tìm thấy tất cả các câu trả lời, nhưng anh quay lại trường đại học với tâm thế tốt hơn. Trong lần nỗ lực học năm hai đại học lần thứ hai ấy, anh tham gia vào một nhóm nhạc hát chay (không có nhạc cụ), và anh vẫn hát cùng một vài thành viên của nhóm cho đến tận bây giờ. Điều quan trọng nhất, trong năm thứ ba đại học, Ned bắt đầu hẹn hò với Vanessa, bây giờ là vợ của anh, và cô ấy là người khiến anh hứng thú với việc dạy kèm. Nếu không có một năm nghỉ học đó, có thể anh sẽ không viết cuốn sách này, và cũng có thể anh sẽ không có những đứa con tuyệt vời như hiện tại. Hệt như bộ phim Cuộc sống tươi đẹp. Bộ phim đó trở thành phim kinh điển là có lí do. Cuộc sống là những vận may bất ngờ. Tất cả những kế hoạch cha mẹ vạch ra không phải lúc nào cũng mang đến những điều tốt hơn.
5. Trẻ em có khả năng. Thực sự là vậy.
Khi Bill bắt đầu làm việc với vai trò là một chuyên gia tâm lí học thần kinh vào năm 1985, việc học sinh học lại mầm non hoặc lớp Một khá phổ biến. Điều gây sốc cho anh là anh thường làm việc với các sinh viên đại học, khi được hỏi đang học năm thứ mấy, họ thường trả lời, “Em đang học năm thứ hai, đáng lẽ em đang học năm thứ ba nhưng vì trước đây cha mẹ bắt em học lại một năm lớp Một.” Những đứa trẻ này vẫn mang trong lòng nỗi giận hờn sâu sắc bởi vì một quyết định liên quan đến cuộc đời của chúng mà chúng không có quyền kiểm soát - khi chúng mới sáu hoặc bảy tuổi. Cuối cùng, mặc dù ban đầu Bill lo lắng, nhưng anh bắt đầu khuyên cha mẹ của các em nhỏ cho trẻ tham gia vào quá trình ra quyết định. Anh gợi ý rằng họ nên nói những điều như: “Không ai có thể bắt con học lại lớp Một. Đó sẽ là quyết định của con, nhưng chúng ta nên suy xét kĩ về những ưu và nhược điểm khi học lên lớp Hai, từ đó con có thông tin cần thiết để đưa ra quyết định phù hợp.” Bill nhận ra rằng ngay cả trẻ nhỏ cũng luôn có khả năng đưa ra quyết định ít nhất là tốt ngang ngửa quyết định mà người lớn đưa ra cho chúng. Anh cũng nhận ra rằng khi đối mặt với một vấn đề, trẻ thường đưa ra giải pháp mà cha mẹ chúng không hề nghĩ đến. Một vài đứa trẻ thậm chí còn nói, “Con chưa sẵn sàng học lớp Hai, nếu ai có trêu con về việc học lại lớp Một, con chỉ cần lờ đi là xong.” Hoặc là “Con nghĩ con có thể làm được. Tuy vậy, nếu việc học quá khó, liệu con có thể có gia sư giúp đỡ không?”
Hơn 30 năm trước, có một nghiên cứu tuyệt vời về khả năng ra quyết định của trẻ từ chín tuổi đến 21 tuổi.3 Nghiên cứu hỏi những người tham gia họ sẽ giải quyết như thế nào với một tình huống nhạy cảm: Một cậu bé từ chối nói chuyện với thành viên trong gia đình, hoặc không ra khỏi phòng trong vài tuần. Hóa ra, những đứa trẻ 14 tuổi đưa ra quyết định khá giống những đứa trẻ 18 và 21 tuổi. Và những quyết định đó giống với các khuyến nghị của chuyên gia (cho rằng cậu bé cần được điều trị tâm lí ngoại trú). Điều đáng chú ý là một nửa trong số trẻ chín tuổi cũng đưa ra sự lựa chọn đó. Nhìn chung, trẻ 14 tuổi, 18 tuổi và 21 tuổi có điểm số gần như giống nhau trong việc ra quyết định và trẻ chín tuổi có điểm số thấp hơn một chút. Chúng tôi nghĩ rằng điều này không chỉ cho thấy trẻ chín tuổi là những người có năng lực ra quyết định, mà còn cho thấy rằng trẻ phạm sai lầm là vì trẻ thiếu kiến thức, chứ không phải là không biết phán đoán.
Robert Epstein, cựu biên tập viên của tờ báo Psychology Today, đã viết chi tiết về sức mạnh và tiềm năng của tuổi vị thành niên. Cùng với đồng nghiệp của mình là Diane Dumas, ông đã thiết kế “bài kiểm tra mức độ trưởng thành”, trong đó hỏi những câu hỏi về tình yêu, năng lực lãnh đạo, kĩ năng giao tiếp xã hội và gánh vác trách nhiệm. Ông nhận thấy rằng nhìn chung trẻ vị thành niên làm bài kiểm tra này tốt như người lớn.4 (Về kết quả, cả hai đều đạt). Epstein tranh luận rằng ở nước Mỹ người ta coi trẻ vị thành niên như trẻ con, một phần là bằng cách hành động như thể chúng không có khả năng đưa ra các quyết định có trách nhiệm. Dù chúng ta không thể ngăn cản toàn bộ trẻ vị thành niên đưa ra các lựa chọn ngẫu hứng, chúng ta có thể cho trẻ quyền đưa ra các quyết định thấu đáo về những gì quan trọng với trẻ. Nghiên cứu chỉ ra rằng khi trẻ 14 hoặc 15 tuổi, nhìn chung trẻ có khả năng tương đương với người lớn trong việc đưa ra quyết định sáng suốt. Thực tế, hầu hết các quá trình nhận thức đạt đến mức độ trưởng thành khi trẻ ở giữa độ tuổi vị thành niên.5
6. Để đưa ra quyết định sáng suốt cần phải có trí tuệ cảm xúc. Trẻ cần phải học được điều gì quan trọng với chúng.
Quyết định sáng suốt được tạo ra dựa trên kiến thức, nhưng không chỉ có thế. Trong bộ phim Inside Out của hãng Pixar, các nhân vật Vui vẻ, Giận dữ, Buồn bã, Căm ghét và Sợ hãi cùng dùng chung một bảng điều khiển trong não bộ của một bé gái. Bộ phim phản ánh một sự thật khoa học cơ bản: Cảm xúc đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt lối suy nghĩ, quá trình ra quyết định, và cách cư xử của chúng ta. Thật khó để đánh giá xem điều gì đó là tốt hay xấu, đúng hay sai, có lợi hay có hại mà không có chỉ dẫn của cảm xúc. Những người có trung tâm cảm xúc ở não bộ bị tổn thương không thể đưa ra các quyết định đơn giản như có ra ngoài ăn tối không, bởi vì họ không biết họ muốn gì.6
Chúng ta muốn trẻ chú ý đến cảm xúc của chúng. Điều này không giống như việc chúng ta muốn trẻ hành động bốc đồng và đầy cảm xúc. Nếu bạn đang tức giận, đó không phải là thời điểm tốt để ra quyết định. Những gì chúng ta nói ở đây là việc đưa ra quyết định thấu đáo. Trẻ phải có khả năng sử dụng các cảm xúc như ghen tỵ, tội lỗi, thương cảm, và ngưỡng mộ để cân nhắc các nhu cầu và mong muốn của người khác. Trẻ cũng cần phải biết điều gì tạo ra những cảm xúc tức giận, ghen tỵ, oán giận, và căm ghét khi trẻ có cảm xúc đó.
Cách trẻ cảm nhận về sự vật sự việc và những gì trẻ muốn là những yếu tố quan trọng trong quá trình ra quyết định của trẻ, quan trọng không kém các sự thật. Cho dù chúng ta rất muốn xóa đi những cảm xúc tiêu cực của trẻ, nhưng chúng ta không thể làm được. Nếu trẻ cảm thấy sợ hãi sau khi xem một bộ phim đáng sợ, chúng ta có thể giúp trẻ nhận ra rằng đó chỉ là một bộ phim, nhưng các phản ứng của trẻ là thật và sẽ ảnh hưởng đến mức độ sẵn sàng của trẻ khi xem một bộ phim đáng sợ khác. Nếu trẻ tức giận và cảm thấy bị phản bội, chúng ta có thể giúp trẻ giải tỏa nỗi đau, học cách lùi lại và suy nghĩ về con người trẻ muốn trở thành trước khi đưa ra hành động đáp trả. Chúng ta muốn trẻ thực hành kết nối với cảm xúc của chúng và đặt câu hỏi: Điều gì thích hợp với mình?