• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nuôi dạy đứa trẻ tự chủ
  3. Trang 34

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 91
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 33
  • 34
  • 35
  • More pages
  • 91
  • Sau

Các vấn đề thường gặp về động lực và cách tiếp cận chúng

Chúng tôi đã gặp nhiều trẻ nằm ở hai thái cực của phổ động lực. Một số là những người cầu toàn, do đó luôn hướng tới việc đạt được thành tựu, khiến bản thân căng thẳng đến phát ốm. Trái ngược là những trẻ dường như không quan tâm đến bất cứ điều gì, hoặc dường như luôn hành động chống lại những điều mà trẻ biết là có lợi cho chính mình.

Chúng tôi đã phát hiện ra rằng những đứa trẻ ở cả hai thái cực này đều có ý thức tự kiểm soát ở mức thấp. Cách thức tiếp cận tốt nhất cũng dao động đáng kể. Dưới đây là bốn vấn đề về động lực thường gặp nhất và những gợi ý của chúng tôi để giúp trẻ giải quyết chúng.

Kẻ phá hoại: “Con tôi dường như không thể thúc đẩy bản thân làm những việc nó biết mình cần phải làm. Giống như nó đang cố tình hủy hoại chính mình.”

Chúng tôi gặp rất nhiều trẻ em được mô tả như thế. Chúng có thể muốn học tập tốt ở trường, hoặc trong ban nhạc ở trường, nhưng dường như chúng không bỏ ra khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ.

Nếu đây là con bạn, bạn có thể giúp con nhận thấy những điều tưởng như không quan trọng bây giờ có thể rất quan trọng đối với các mục tiêu dài hạn của trẻ. Hầu hết các bậc phụ huynh đều đã cố gắng tìm hiểu để giải thích cho con trước khi tìm đến chúng tôi, và chúng tôi biết việc đó không hề dễ dàng. Nếu sở thích hàng đầu của trẻ là giao lưu gặp gỡ bạn bè, hãy khuyến khích trẻ sống theo sở thích này và giúp con thấy được nó sẽ giúp con trong công việc sau này như thế nào – con có thể sẽ thành công trong những công việc như giáo viên, nhà tâm lí học, người đàm phán, luật sư hoặc giám đốc bán hàng. Nhưng bạn cũng nói với con rằng hầu hết các công việc nhấn mạnh vào các kĩ năng giao tiếp xã hội đều có yêu cầu tối thiểu là có bằng cử nhân, và trong rất nhiều trường hợp là bằng cao học. Vì vậy, nếu con muốn tương tác với người khác để kiếm sống theo một cách có ý nghĩa, con sẽ phải học cách nỗ lực để phát triển năng lực học tập của mình.

Bạn cũng có thể giúp con tìm ra lí do của riêng mình để nỗ lực làm những điều quan trọng với bản thân con. Chúng tôi thường cố gắng giúp trẻ nhận thấy sự khác biệt giữa những điều chúng cảm thấy thích làm và những điều chúng muốn làm. Để minh họa điều này, Bill sẽ đề nghị trẻ suy nghĩ về những người mới làm cha mẹ. Anh nói với bọn trẻ rằng khi con gái anh còn bé xíu, khi bé khóc giữa đêm, trách nhiệm của anh là thức dậy và mang bé tới chỗ mẹ để bú sữa, anh chưa bao giờ thích bước xuống giường. Nhưng anh muốn làm điều đó bởi vì anh không muốn con phải chịu đói (và sau đó thì anh và vợ cũng có thể đi ngủ tiếp). Sử dụng logic này, chúng tôi khuyến khích trẻ tự nhủ rằng: “Ngay cả khi mình không cảm thấy thích làm việc nào đó, mình vẫn muốn làm điều đó bởi vì nó quan trọng với mình và tương lai của mình.” Không có gì đáng ngạc nhiên, trẻ thường nhận thấy rằng việc tự nhủ bản thân “Mình muốn làm điều đó” tạo động lực nhiều hơn là tự nhủ điều ngược lại.

Mỗi huấn luyện viên về sự thành đạt hoặc chuyên gia đào tạo hiệu suất sẽ cho bạn biết rằng nếu một đứa trẻ có thể hình dung bản thân đạt được một mục tiêu mà trẻ đã chọn cho mình, việc đó khiến bộ não nghĩ rằng trẻ đã đạt được mục tiêu đó. Điều đó cũng đúng với việc viết ra mục tiêu – đó là một cách củng cố mạnh mẽ, và nếu mục tiêu do con bạn tự tay viết ra thì nó là một lời nhắc nhở tuyệt vời rằng đó là mục tiêu của con, không phải của bạn.13 Viết ra các mục tiêu cũng giúp con người sử dụng vùng vỏ não trước trán nhiều hơn thay vì phản ứng hay hồi đáp với những điều giống như một yêu cầu hay áp lực ngay tức thì. Viết ra các mục tiêu nhắc nhở chúng ta thực hiện chiến lược dài hạn. Hãy tưởng tượng con bạn là một vận động viên Olympic và con viết ra rồi ghim vào bảng thông báo thông tin là con muốn giành bốn huy chương vàng. Khi trẻ đang đói và muốn ăn một miếng pizza, trẻ nhìn thấy mục tiêu của mình và có khả năng là trẻ sẽ chọn thịt gà và rau có lợi cho sức khỏe thay vì pizza Domino nhiều dầu mỡ. Không phải các vận động viên Olympic đều như đứa con ở tuổi thiếu niên của bạn – hầu hết các mục tiêu cần phải khả thi và cấp thiết hơn để hình thành động lực – nhưng bạn hiểu ý chúng tôi muốn nói. Chúng tôi khuyến khích trẻ viết các mục tiêu của mình lên một mảnh giấy đặt trong ba lô, nơi trẻ sẽ thường xuyên nhìn thấy, hoặc dán trên tường phòng ngủ của mình. Ned có một học sinh, mục tiêu của cậu là được theo học tại Georgetown, và do đó cậu mặc áo có chữ Georgetown mọi lúc để nhắc nhở bản thân chăm chỉ nỗ lực.

Bạn cũng có thể giúp đứa trẻ phá hoại của mình thiết lập kỉ luật trong lĩnh vực mà trẻ quan tâm. Ví dụ, nếu một đứa trẻ thích bóng chày, nhưng không làm gì ngoài những giờ luyện tập thông thường, bạn có thể nói điều gì đó với con như: “Này con, ba biết con thích bóng chày và biết con sẽ luyện tập hàng giờ nếu có ai đó tập cùng. Con có muốn ba tìm cho con một học sinh trung học cùng tập với con một vài ngày trong tuần, hay lên kế hoạch tập luyện với một người bạn không?” Nếu con bạn phát triển các kĩ năng của mình, trẻ sẽ phát triển một bộ não quen với việc chăm chỉ nỗ lực để ngày càng giỏi hơn trong một lĩnh vực nào đó quan trọng với trẻ.

Đây là những gợi ý khá đơn giản. Chúng tôi nhận ra rằng đối với nhiều trẻ thuộc nhóm “kẻ phá hoại”, những gợi ý đó vẫn chưa đủ. Nhiều trẻ em rơi vào nhóm phá hoại gặp phải vấn đề thiếu hụt dopamine và việc giúp trẻ vẽ ra bức tranh toàn cảnh hoặc hình dung ra mục tiêu sẽ không đủ để thắp sáng não bộ của chúng. Nếu con bạn có ác cảm mạnh mẽ khác thường với việc làm bài tập về nhà, chúng tôi khuyên bạn nên gửi con đi đánh giá để loại trừ khả năng trẻ mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý, chứng lo âu, khó ngủ và khuyết tật học tập. Một số chiến lược bổ sung để thắp sáng “kẻ phá hoại” bao gồm:

• Tập thể dục thường xuyên. Ngay cả những bài tập thể dục ngắn cũng có thể kích hoạt não bộ để bắt đầu làm một thứ gì đó, một phần bằng cách tăng lượng dopamine ở vùng vỏ não trước trán. Hoạt động thể chất kích hoạt thể chất.

• Hỗ trợ xã hội. Tìm một đứa trẻ lớn tuổi hơn làm “huấn luyện viên bài tập về nhà”, hoặc giúp con bạn tham gia vào một nhóm học tập gồm một số các bạn bè học khá hơn một chút có thể giúp ích cho khả năng tập trung của con. Đối với thanh thiếu niên, chúng tôi đặc biệt phấn khởi với sự hỗ trợ đồng trang lứa, bởi vì thanh thiếu niên có các kết nối phát triển nên chúng có thể hiểu được bạn bè. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trẻ thường học được từ bạn bè nhiều hơn là từ người lớn, và vì thế khi gia sư là một đứa trẻ lớn tuổi hơn, trẻ được dạy kèm sẽ có lượng dopamine tăng đột biến.14 Một lập luận nữa cho việc tìm người khác dạy kèm trẻ: Nếu bạn có xu hướng kiểm soát, hoặc thậm chí nếu không phải vậy nhưng con lại cho rằng bạn đang kiểm soát, bản năng phá hoại trong trẻ sẽ trỗi dậy.

• Kích thích. Một số “kẻ phá hoại” cần có nhạc nền để giúp trẻ hoàn thành các nhiệm vụ, nếu không có âm nhạc trẻ sẽ né tránh. Âm nhạc có thể đảm nhiệm vai trò “tiếng ồn trắng” và ngăn chặn sự sao nhãng. Nó có thể làm cho một hoạt động nhàm chán bớt nhàm chán đi. Và nó có thể xoa dịu sự lo lắng. Đối với một số khác, yên tĩnh lại tốt hơn. Có lẽ bạn nên thử nghiệm một chút để biết điều gì phù hợp với con bạn. Gần đây cũng có một số bằng chứng cho thấy nhai kẹo cao su có thể cải thiện quá trình kích hoạt, tăng tốc độ xử lí và hiệu suất làm việc.15

• Chế độ ăn giàu protein, lành mạnh và nghỉ ngơi đầy đủ. (Bạn đã nghe điều này hàng triệu lần nên chúng tôi không nhắc lại nữa. Nhưng đó là sự thật.)

• Luyện tập xoay vòng. Những “kẻ phá hoại” thường làm tốt khi làm việc cao độ trong những khoảng thời gian ngắn, có đồng hồ bấm giờ định sẵn và sau đó nghỉ giải lao theo quy định. Nếu bạn để ý, trong các bài giảng và bài học, thời điểm bắt đầu và kết thúc luôn đáng nhớ. Nhưng trong khoảng thời gian giữa hai thời khắc đó, bộ não của chúng ta trong trạng thái lang thang. 20 phút học Khoa học, 20 phút học tiếng Tây Ban Nha và 20 phút học Nghiên cứu Xã hội, có thời gian nghỉ giải lao xen giữa các giờ học, lặp lại như vậy hai lần, có thể tốt hơn 40 phút liên tiếp cho từng môn. Thêm nhiều lần khởi đầu và kết thúc khuyến khích não bộ chú ý và có động lực hơn. Hãy gợi ý cách luyện tập xoay vòng này với con, và hỏi xem con muốn tự mình hẹn giờ, hay muốn bạn làm một huấn luyện viên, đặt đồng hồ bấm giờ và gọi to, “Hết giờ!”

• Yếu tố khích lệ. Đúng vậy, chúng tôi đã nói với bạn những yếu tố khích lệ từ bên ngoài không tốt cho quá trình phát triển động lực nội sinh. Nhưng đôi khi các yếu tố khích lệ vẫn có thể chấp nhận, miễn là trẻ hiểu rằng mục tiêu của bạn là tạo điều kiện để não bộ kích hoạt (bằng cách tăng dopamine), như vậy trẻ có thể làm được những việc mà nếu không có thì trẻ có thể sẽ không làm. Bạn có thể nói với trẻ nhỏ từ sáu tuổi, “Bố biết bộ não của con không thể thức dậy mà không có một chút khích lệ. Vì vậy, bố rất vui khi cho con một cái gì đó để bộ não của con thức dậy.” Sáng tạo một chút với các khích lệ này cũng sẽ hữu ích. Bạn còn nhớ Savannah – cô bé không chịu làm bài tập về nhà cho đến khi được gợi ý đi ăn kem Ben & Jerry chứ? Tối hôm sau, cha mẹ có thể nói với bé rằng: “Savannah, mẹ biết rằng con gặp khó khăn trong việc có đủ động lực để học cho bài kiểm tra từ vựng. Nếu con muốn, mẹ rất vui lòng giúp con đưa ra một cách để kích hoạt dopamine và con có thể bắt tay vào học. Mẹ gợi ý như sau nhé: Nếu chúng ta làm một bài luyện đề thì sao nhỉ? Nếu con không đúng được 17/20 từ, con phải thực hiện hai mươi lần chống đẩy. Nếu con đúng 17/20 từ, mẹ sẽ phải chống đẩy mười cái.”

Người nhiệt tình: “Con tôi có động lực – chỉ là không phải trong việc học.”

Trong nhiều năm, Bill đã gặp hàng trăm đứa trẻ có động lực học tập tương đối thấp, nhưng lại vô cùng tích cực đối với một thứ gì đó khác – thủ công, âm nhạc, thể thao hoặc tạo bản sao các nhân vật trong “Chiến tranh giữa các vì sao.” Anh nói với cha mẹ của những đứa trẻ này là chừng nào trẻ còn chăm chỉ làm việc gì đó mà trẻ thực sự thích, anh không lo lắng, bởi vì anh biết rằng trẻ đang kiến tạo một bộ não mà cuối cùng sẽ cho phép chúng thành công. Và Bill nói với những đứa trẻ, “Một trong những điều tốt nhất các em có thể làm cho bộ não của mình chính là chăm chỉ nỗ lực để ngày càng giỏi hơn trong những thứ quan trọng đối với các em.” (Ở đây có một ngoại lệ là trò chơi điện tử, mặc dù không phải tất cả đều tồi tệ, nhưng cần cân nhắc kĩ lưỡng hơn. Chúng ta sẽ bàn đến tác động của công nghệ đối với bộ não đang phát triển ở Chương 9.) Anh nói với bọn trẻ rằng nếu trẻ có thể vận dụng cảm giác đắm chìm hoàn toàn này vào việc học thì sẽ rất tốt, và anh tin rằng trẻ hoàn toàn có khả năng làm được.

Ken Robinson là một trong những nhà tư tưởng hàng đầu trong lĩnh vực tìm kiếm đam mê, và cuốn sách của ông The Element: How Finding Your Passion Changes Everything nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm kiếm sự giao thoa giữa đam mê và kĩ năng. Mặc dù đây không phải là một cuốn sách nhất định sẽ thu hút trí tưởng tượng của học sinh lớp Bảy trung bình, phụ huynh có thể chia sẻ những câu chuyện trong đó - từ chuyện của Matt Groening, người sáng tạo ra chương trình Simpson, người ít hứng thú với học tập nhưng luôn đam mê hội họa, cho đến nhà biên đạo múa nổi tiếng Gillian Lynne, người không bao giờ có thể ngồi yên trong lớp khi còn nhỏ nhưng lại phát triển mạnh mẽ trong trường múa. Những câu chuyện như thế có thể mở ra một cuộc thảo luận lành mạnh về ý nghĩa của việc muốn một cái gì đó và làm thế nào để tìm đường đến đích.16

Sebastian là học sinh năm cuối tại một trường trung học cực kỳ khắt khe ở ngoại ô tại thời điểm cậu đến văn phòng của Bill để kiểm tra. Cậu có điểm trung bình tích lũy là 2.3. Theo cậu, mức điểm thấp như vậy là vì cậu đã “không làm gì cả - thực sự là em chẳng làm gì cả”. Cậu mô tả kĩ năng của mình trong việc “thao túng” giáo viên để khiến họ cho cậu đủ điểm qua môn. Sebastian cho rằng tương lai của cậu rất hạn hẹp vì thành tích học tập kém. Cậu nghĩ rằng có lẽ mình sẽ không thể vào đại học, và cuối cùng sẽ làm các công việc lương thấp. Nhưng cậu đã rất nhiệt tình tham gia vào một đội cứu hộ của địa phương. Trên thực tế, cậu đã thức hầu hết các đêm thứ Năm và thứ Bảy để giúp mọi người trong những trường hợp thực sự khẩn cấp.

Sebastian đã bất ngờ (quả thực là sốc) khi Bill hỏi rằng cậu có từng nghĩ đến việc bỏ học cấp ba không. “Tại sao thầy lại nói thế?” cậu hỏi.

Bill trả lời: “Có vẻ như nó đang làm lãng phí thời gian của em, chưa kể đến thời gian của giáo viên, em dành sáu giờ một ngày để làm một việc gì đó mà em chẳng mấy quan tâm và dành rất nhiều năng lượng để kháng cự, nói dối, giả mạo, và thao túng giáo viên.” Sau đó, Bill hỏi: “Tại sao em không nghĩ đến việc làm công tác cứu hộ toàn thời gian?” Anh nói với Sebastian rằng thực ra việc em là một học sinh kém không hề phá hỏng cuộc đời em – rằng trẻ có thể trượt tất cả các lớp học ở trường trung học và sau đó, nếu trẻ quyết định muốn đi học, hãy bắt đầu từ một trường cao đẳng cộng đồng (nơi có chính sách tuyển sinh mở), và một khi có khoảng ba mươi tín chỉ, trẻ có thể nộp đơn vào hầu như bất kì trường đại học nào mà không cần phải nộp bảng điểm trung học. Bill đề nghị Sebastian suy nghĩ về những việc sẽ có lợi cho cậu và hẹn sẽ gặp lại nói chuyện.

Tuần sau đó, khi Bill gặp bố mẹ Sebastian để thảo luận về kết quả kiểm tra, anh đã có chút lo lắng, đặc biệt là khi biết rằng cả hai phụ huynh đều là giáo sư đại học. Bill nghĩ rằng có khả năng là họ sẽ không hài lòng về cuộc trò chuyện giữa anh và con trai họ. Điều khiến anh ngạc nhiên là họ bắt đầu cuộc nói chuyện bằng việc cảm ơn Bill vì đã nói chuyện rất thẳng thắn với Sebastian. Cậu bé đã rời văn phòng trong tâm trạng hăng hái và lạc quan hơn nhiều so với những gì họ đã thấy ở con trong suốt một thời gian. Họ tiếp tục nói rằng cậu bé đã thông báo với cả nhà một kế hoạch mới liên quan đến việc cậu sẽ bắt đầu học tại một trường cao đẳng cộng đồng địa phương và hoàn tất kế hoạch với tấm bằng về khoa học phòng cháy chữa cháy ở một trong những trường đại học lớn của Washington, DC. Sau đó, Bill được biết rằng, Sebastian đã tự mình tìm hiểu về việc bỏ học. Nhưng cậu bé lại biết được rằng nếu làm như vậy, cậu sẽ không còn được tham gia vào đội cứu hộ. Nhờ thông tin mới này, và bây giờ đã có động lực, ngay lập tức cậu bắt đầu học tập tốt hơn. Cậu đồng ý học cùng với một gia sư giỏi và từ bỏ buổi trực thâu đêm với đội cứu hộ vào thứ Năm. Nhưng cậu cũng nhìn nhận việc học trong một hoàn cảnh khác. Hai tháng sau, Bill được nghe tin từ mẹ Sebastian. Bà cho biết điểm trung bình của cậu bây giờ là 3.6 và hỏi liệu Bill có thể gặp em gái Sebastian được không. Cô bé luôn là học sinh giỏi, nhưng sau khi Sebastian thay đổi, cô bé lại trở nên lo lắng về thực tế rằng mình không giống như anh trai, không có niềm đam mê thực sự.

Mặc dù câu chuyện này kết thúc có hậu nhưng nó đặt ra một câu hỏi: Bạn có thể làm gì nếu bạn nuôi dạy một đứa trẻ như Sebastian?

Nếu trẻ không hề có một chút động lực học tập nào, bạn nên cho trẻ đi kiểm tra sàng lọc khuyết tật học tập, trầm cảm, lo âu hoặc rối loạn tăng động giảm chú ý. Nếu không phải do những nguyên nhân này, hãy đối xử tôn trọng với trẻ, nhưng đồng thời hãy cho trẻ một hình mẫu thực tế chính xác. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu đứa trẻ sẽ lắng nghe lời đề nghị của bạn nếu chúng cảm thấy được coi trọng. Vì vậy, nếu con trai của bạn nói rằng con muốn nhận được học bổng thể thao và chơi bóng chày cho trường Duke, hãy hỏi con muốn làm việc đó như thế nào. Hãy đề nghị cùng nhau ngồi trước máy tính và nghiên cứu các yêu cầu học tập và các số liệu thống kê về tuyển sinh. Giúp con khám phá những gì con cần làm để hoàn thành mục tiêu của mình.

Nếu như việc hỗ trợ trẻ theo đuổi những sở thích không liên quan đến học tập là một bước tiến tốt, thì việc tước đi những sở thích đó như một hình phạt rõ ràng là một bước đi tồi. Chúng tôi hiểu lí do của việc không cho trẻ chơi thể thao hoặc tham gia các hoạt động ngoại khóa – mỗi ngày chỉ có bấy nhiêu thời gian, và nếu đứa con đang học cấp ba của bạn không có thời gian để làm bài tập về nhà vì đã quá mệt mỏi với các hoạt động khác, bạn đang truyền tải cho con thông điệp gì về việc sắp xếp ưu tiên nếu cho phép con đặt các hoạt động ngoại khóa lên trên việc học?

Kiểu logic này khá hợp lí. Nhưng khoa học không ủng hộ nó. Hãy nhớ rằng, nếu trẻ không có động lực học tập thì sự thật chính là thế, và bạn không thể bắt trẻ phải mong muốn học tốt hơn được. Lấy đi những thứ có thể tạo động lực cho trẻ sẽ không giải quyết được vấn đề, mà ngược lại, có thể làm giảm động lực của trẻ hơn nữa.

Trẻ thụ động/ Eeyore: “Con tôi không có động lực làm bất cứ điều gì. Con dường như không biết mình muốn gì.”

Một hiện tượng phổ biến là thanh thiếu niên trải qua các giai đoạn suy giảm động lực, điều này có lẽ gợi bạn nhớ về chú lừa Eeyore trong truyện Gấu Pooh xinh xắn. Nếu điều này diễn ra trong hơn hai hoặc ba tuần, hoặc xảy ra đột ngột đến bất ngờ, vậy thì có lí do để lo lắng. Hãy đề nghị thực hiện đánh giá y tế kỹ lưỡng để loại trừ khả năng trạng thái thờ ơ xuất phát từ nguyên nhân y tế và, nếu cần thiết, đánh giá tâm lí hoặc tâm thần để sàng lọc chứng trầm cảm và/hoặc việc sử dụng ma túy.

Khi bạn đã loại trừ các vấn đề nghiêm trọng hơn, bạn có thể khuyến khích những đứa trẻ thụ động này tham gia vào các hoạt động phục vụ cộng đồng và thương lượng với con về giới hạn xem tivi và các trò chơi điện tử. Bạn có thể cho trẻ tiếp xúc với những thứ mà bạn nghĩ rằng con có thể thích. Nhưng điều quan trọng nhất bạn có thể làm là thể hiện sự tin tưởng rằng con trẻ sẽ tìm thấy thứ gì đó mà con thích. Chúng tôi biết điều này rất khó chấp nhận, nhưng bạn cần nhớ rằng tìm kiếm niềm đam mê không phải là việc bạn có thể làm thay con.

Bạn cũng có thể nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự nhận thức. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc khi có nhiều đứa trẻ chưa bao giờ tự hỏi bản thân muốn gì, hoặc chưa bao giờ có ai hỏi chúng về điều đó. Chúng rất bận rộn hoặc là cố gắng làm hài lòng người khác, hoặc là nổi loạn chống lại sự kiểm soát của người khác. Nhưng chúng cần phải tự mình suy nghĩ về bản thân. Chúng cần xem xét tài năng đặc biệt và mục đích sống của mình. Chúng nên hỏi, “Mình muốn gì? Mình thích làm gì?” Bạn có thể giúp con xem xét những câu hỏi này, ngay cả khi bạn không thể cung cấp câu trả lời. Cho dù khó có thể chấp nhận điều này, nhưng tìm kiếm mối quan tâm và động lực trong cuộc sống là trách nhiệm của con bạn.

Giúp con bạn chú ý đến những gì chúng giỏi. Nhiều trẻ thụ động sẽ loại bỏ tài năng thiên bẩm của mình. Trẻ sẽ ngộ nhận rằng: “Ồ, ai cũng có thể làm được điều đó. Nếu mình giỏi điều gì, mình phải thực hiện dễ dàng.” Chúng thường bỏ qua tài năng của mình và thay vào đó lại tập trung vào các lĩnh vực vốn là điểm mạnh nhất của người khác. Khi trẻ thấy bản thân không giỏi như người khác, trẻ sẽ cho rằng tương lai của mình sẽ trở nên đen tối.

Nếu các em cảm thấy mình không có sở trường rõ ràng ở một lĩnh vực nào, các em nên hỏi, “Đâu là những việc mà ít nhất là mình có thể làm tốt như hầu hết mọi người?” Điều này sau đó có thể dẫn đến những câu hỏi lớn hơn như “Mục đích của mình có thể là gì? Mình cần được giúp đỡ việc gì? Làm thế nào để khiến bản thân mình làm những gì mình muốn và/hoặc cần phải làm?” Tại giao điểm của mối quan tâm, tài năng và sự tự nhận thức bản thân, trẻ có thể tìm thấy phương hướng. Phương hướng mà trẻ tìm thấy trong thời niên thiếu có thể không phải là lĩnh vực mà cuối cùng trẻ sẽ phát triển, nhưng đó là một bước tiến quan trọng.

Bill đã làm việc với một cô bé mắc khuyết tật học tập liên quan đến việc học ngôn ngữ từ lúc bé năm tuổi đến tận khi cô học năm thứ hai ở trường đại học. Khi Lette 14 tuổi, mẹ cô đã bày tỏ lo lắng rằng mặc dù Lette đã làm bài tập về nhà đầy đủ và nói chung là làm những gì cha mẹ yêu cầu, cô bé dường như không có bất kì đam mê thực sự nào trong cuộc sống. Bill nói với bà rằng mặc dù thỉnh thoảng chúng ta nên đưa ra gợi ý về những điều mà chúng ta nghĩ có thể trẻ sẽ quan tâm, nhưng đây không phải là việc mà ta có thể ép buộc trẻ. Nó phải tự xảy ra, và thường xảy ra theo những cách không lường trước được.

Sáu tháng sau, khi Bill gặp lại mẹ của Lette để thảo luận về một vấn đề liên quan đến học tập, bà nói, “Ồ, nhân tiện, Lette đã tham gia vào Liên đoàn Cứu hộ Động vật Washington và có vẻ con bé thực sự rất thích.” Trong vài tháng sau đó, Lette đã dành nhiều tâm huyết cho công việc của mình ở đó và đến cuối năm, cô bé có thể liệt kê tất cả các nơi trú ẩn và những chú chó có thể được cứu hộ ở khu vực DC rộng lớn hơn. Bill biết rõ nên anh không lấy làm ngạc nhiên. Một tình huống có vẻ vô vọng thường sẽ thay đổi vì cuộc sống thay đổi. Cơ hội thường đến bất ngờ.

Công việc cứu hộ trở thành niềm đam mê thực sự đối với Lette, là một cách làm có ý nghĩa để cô bé thể hiện tình yêu động vật của mình. Ba năm sau, cô bé thực tập trong lĩnh vực giáo dục mầm non khi là một nữ sinh trung học. Cô bé phát hiện ra rằng mình có thể vận dụng sự tận tụy và niềm say mê mà mình đã dành cho việc giải cứu động vật vào làm việc với trẻ nhỏ. Sau đó, Lette trở thành một sinh viên có động lực cao trong ngành giáo dục mầm non và sự phát triển của trẻ em. Cô vừa tốt nghiệp đại học ngành giáo dục mầm non và đang tận hưởng công việc đầu tiên là một giáo viên dạy học cho những đứa trẻ.

Nhiều trẻ thụ động là những người chỉ thích loanh quanh trong nhà, không thích làm bất cứ điều gì mới lạ hoặc khác biệt và có vùng an toàn khá hẹp. Trẻ thường thích đọc sách, chơi một mình hoặc chơi điện tử, thay vì tham gia vào các hoạt động năng động hơn. Và trẻ thường do dự khi phải đặt mình vào những hoàn cảnh xã hội xa lạ. Nhiều bậc phụ huynh nói rằng nếu họ không liên tục nhắc nhở, những đứa trẻ thụ động này sẽ không bao giờ ra khỏi nhà.

Rất khó để cha mẹ cưỡng lại việc liên tục cằn nhằn trẻ thụ động. Tuy nhiên, việc cằn nhằn đó không bao giờ thúc đẩy trẻ thử những điều mới mẻ. Một điều có thể hữu ích mà bạn nên biết là trẻ thụ động thường thiếu sự linh hoạt và không tự tin vào khả năng của bản thân để có thể thích ứng với các tình huống mới, điều này có thể khiến trẻ lo lắng về việc thử những điều mới. Ngoài ra, bởi vì những đứa trẻ này hiếm khi có “thiên tính xã hội”, nên trẻ có thể lo lắng về những yêu cầu xã hội đặt ra cho trẻ bên ngoài phạm vi gia đình hoặc ở lớp học. Do đó, để giúp những trẻ thụ động cần một cách tiếp cận kết hợp:

1. Giữ bình tĩnh và tập trung vào việc duy trì mối quan hệ bền chặt với con – việc thường xuyên dụ dỗ trẻ thường sẽ làm suy yếu mối quan hệ này. Hãy nhớ rằng một số người có ít mối quan tâm hơn và ít bạn bè hơn trong suốt cuộc đời, mà vẫn hoàn toàn hạnh phúc.

2. Hỏi con bạn liệu trẻ có muốn cảm thấy thoải mái hơn trong các tình huống mới – hay cảm thấy bớt lo lắng về những tình huống đó không. Nếu trẻ nói có, bạn có thể đề nghị trẻ chấp nhận hợp tác với một chuyên gia biết cách giúp trẻ cảm thấy tự tin hơn khi đón nhận những thử thách mới.

3. Nói với con bạn rằng, với tư cách là cha mẹ, bạn cảm thấy có trách nhiệm cho con tiếp xúc với thế giới và bạn không muốn phải liên tục cằn nhằn trẻ thử những điều mới mẻ, rồi hỏi trẻ có gợi ý gì cho bạn không. Hãy thương lượng để đưa ra sự “thỏa hiệp” hợp lí giữa những mong muốn của bạn là con trở nên năng động và tích cực trong phần lớn thời gian và mong muốn của trẻ là phải làm những điều không quen thuộc hoặc thách thức ở mức ít nhất có thể.

4. Hoạt động thể chất có thể tạo động lực cho tất cả các kiểu trẻ em. Hãy thử xem liệu bạn có thể khiến đứa trẻ thụ động hứng thú (bằng một phần thưởng ngắn hạn nếu cần thiết) với việc tham gia vào một môn thể thao cá nhân mà hầu hết trẻ em không chơi, như đấu kiếm, leo núi hoặc Judo.

Những đứa trẻ kiểu Hermione Granger: “Con tôi bị căng thẳng đến mất trí. Theo quan điểm của con, học trường Yale hoặc không học gì cả.”

Một số trẻ sẽ bị cuốn vào một môi trường học tập cạnh tranh hoặc bị “lên dây cót” để có được nhiều giải thưởng nhất có thể. Người bạn Hermione Granger của Harry Potter rơi vào nhóm này. Thông thường, áp lực mà trẻ ở nhóm này cảm thấy đến từ cha mẹ hoặc giáo viên của mình, mặc dù trẻ cũng lây lan sự lo lắng và tính cạnh tranh cho nhau.

Những đứa trẻ Hermione bị “lên dây cót” rất mạnh, thậm chí là một cách không lành mạnh, để trở nên xuất sắc hoặc để đáp ứng được mong đợi của người khác. Động lực của các em chủ yếu dựa trên sự sợ hãi, vì các em cảm thấy lo lắng về việc không thể đạt được những mục tiêu cao mà các em đã tự đặt ra cho bản thân – hoặc những người khác đã đặt ra cho các em. Các em có xu hướng có ý thức tự kiểm soát ở mức rất thấp và cảm thấy “bất lực về bản chất”, mượn lời của Julie Lythcott-Haims, cựu hiệu trưởng trường Stanford và là tác giả của cuốn sách How to Raise an Adult.17

Rõ ràng, nếu áp lực đến từ cha mẹ, giải pháp rất đơn giản: ngừng gây áp lực cho con. Ngay cả khi bạn tự hào về con mình, trẻ có thể tin rằng bố mẹ yêu thương trẻ vì những thành tích mà trẻ đạt được. Thông thường, đây chỉ là vấn đề giao tiếp cần được điều chỉnh.

Nhưng nếu bạn đã nói với con rằng “Ba mẹ không quan tâm đến điểm số của con, hoặc con học trường nào”, mà bé vẫn lo lắng và sợ hãi, việc khắc phục sẽ phức tạp hơn.

Gần đây, chúng tôi có một cuộc nói chuyện về tác hại của căng thẳng và thiếu ngủ đối với bộ não đang phát triển với các học sinh lớp Mười một chuyên Anh nâng cao bị căng thẳng và kiệt sức. Các học sinh rất lịch sự, ghi chép và hỏi những câu hỏi hay, và các em có vẻ thích quan điểm rằng cuối cùng mình sẽ có thể thành công hơn nếu không bị mệt mỏi và căng thẳng kéo dài. Tuy nhiên, khi cuộc nói chuyện kết thúc, giáo viên của các em kéo chúng tôi sang một bên và nói: “Những đứa trẻ này đều nghĩ rằng nếu không đậu trường Yale, các em ấy chỉ còn có nước làm việc tại McDonald.” Điều này rất giống với những lời mà giáo viên người Anh ở một trường độc lập danh giá tại Washington nói với chúng tôi, chính xác là khi bọn trẻ vừa lên lớp Chín, “tất cả các em đều sợ hãi” khi nghĩ đến việc không vào được một trường đại học danh tiếng.

Vậy, làm thế nào để bắt đầu khắc phục điều này? Làm thế nào để bạn khuyến khích động lực nội sinh của một đứa trẻ vốn rất phụ thuộc vào các biểu hiện thành tích bên ngoài? Trước tiên, hãy hỏi con liệu con có sẵn lòng nghe một số thông tin có thể giúp con làm việc với động lực cao hơn và có thể là ít sợ hãi và lo lắng hơn một chút. Nếu con sẵn sàng, hãy nói với con sự thật: Việc học ở trường đại học nào không tạo ra khác biệt to lớn đối với sự thành công của người đó trong cuộc sống. Chia sẻ với con các dẫn chứng cho điều này. Các nhà nghiên cứu Stacy Berg Dale và Alan Krueger đã theo dõi con đường sự nghiệp của các học sinh tốt nghiệp cùng một lớp trung học trong nhiều thập kỷ. Trong số những sinh viên có điểm SAT tương đương, việc họ có học tại một trường đại học danh giá hay không tạo ra rất ít khác biệt đối với thu nhập tiềm năng của họ. Điều này đúng, cho dù họ nộp đơn vào các trường danh giá và bị từ chối, hay họ được tuyển vào các trường danh giá nhưng chọn đi học ở một trường đại học khác, ít cạnh tranh hơn.18 Một nghiên cứu khác từ Đại học Gallup và Purdue cho thấy loại trường đại học mà sinh viên theo học (ví dụ: trường công với trường tư; tính chọn lọc cao hơn với tính chọn lọc thấp hơn) tạo ra rất ít sự khác biệt đối với sự gắn bó với nơi làm việc và hạnh phúc của họ. Các yếu tố dự đoán tốt nhất về mức độ hạnh phúc là những yếu tố thuộc về trải nghiệm ở trường đại học, chẳng hạn: 1) có một giáo sư có sự quan tâm cá nhân đối với các em, thôi thúc các em học hỏi và động viên các em; 2) có một kì thực tập hoặc công việc ở trường đại học cho phép các em áp dụng những gì mình đang học; và 3) tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa hoặc các dự án có thời gian hoàn thành trong một học kì hoặc lâu hơn.19 Ngoài ra, một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2013 thông qua Trung tâm Nghiên cứu Pew cho thấy sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học công và tư cảm thấy hài lòng với cuộc sống ở mức độ như nhau, bao gồm cả sự hài lòng với cuộc sống gia đình và tài chính cá nhân, cũng như sự hài lòng trong công việc.20 Những nghiên cứu này gợi ý, nếu bạn sáng dạ và có động lực, bạn học ở đâu không quan trọng lắm. Đối với một số trẻ, biết được điều này giúp trẻ dễ dàng chú ý đến những gì thực sự quan trọng với trẻ hơn.

Bạn cũng có thể chia sẻ lí thuyết cá - lớn - ao - nhỏ với đứa trẻ Hermione của mình. Quan điểm này, do Herbert Marsh phát triển,21 cho rằng bạn sẽ nhìn nhận bản thân một cách tích cực hơn nếu bạn thể hiện tốt trong mối tương quan với các bạn cùng trang lứa. Vì vậy, là một học sinh nổi bật tại một ngôi trường ít danh tiếng hơn về lâu dài thường sẽ tốt hơn so với bị lu mờ trong đám đông tại một trường cạnh tranh hơn. Trong cuốn sách David and Goliath, Malcolm Gladwell kể câu chuyện về một sinh viên đạt thành tích cao quyết tâm thi vào ngành khoa học tại trường Brown. Cô sinh viên đó nhận thấy môi trường tại Brown làm cô mất tinh thần, và buông bỏ mối quan tâm khoa học của mình. Ở một trường khác, ít cạnh tranh hơn, cô ấy có thể cho mối quan tâm tự nhiên của mình cơ hội nở hoa. Gladwell đã viết, “Hiếm khi chúng ta dừng lại và xem xét... liệu các tổ chức có uy tín nhất có luôn mang lại lợi ích tốt nhất cho chúng ta không.”22 Hãy đề nghị con suy nghĩ xem việc trở thành con cá lớn hơn trong ao nhỏ hơn có tốt hơn không.

Hãy giúp đứa trẻ Hermione của bạn thấy rằng dù thất bại ở một việc gì đó có thể là điều đáng sợ, nhưng điểm thấp không có nghĩa là cánh cửa cơ hội đóng lại vĩnh viễn. Trên thực tế, nó có thể là sự giải phóng – như chúng ta đã thấy trong trường hợp một người bạn của chúng tôi đã thi trượt lớp Lí thuyết Âm nhạc nâng cao ở năm thứ nhất trung học. Mặc dù ban đầu cô rất sợ hãi, nhưng cuối cùng cô đã giải phóng bản thân khỏi nỗi sợ gây tê liệt vì không đạt được điểm trung bình 4.0. Khi cô thấy rằng tình huống xấu nhất thực sự đã không đánh gục mình, hay đóng chặt cánh cửa tương lai của mình, cô có nhiều sức mạnh hơn để chấp nhận mạo hiểm và có khả năng sống cuộc sống của mình mà không cảm thấy có một con quái vật đang đuổi theo cô ở mọi ngã rẽ. Và cuối cùng, điều đó giúp cô thành công hơn.

Khi con của Bill học tiểu học, anh đã nói với các con rằng mối tương quan giữa điểm số ở trường và thành công trong cuộc sống rất thấp. Anh nói rằng nếu các con muốn, anh sẽ xem báo cáo kết quả học tập của con, nhưng anh quan tâm nhiều hơn tới sự phát triển của các con trong vai trò là học sinh và là con người. Nhìn chung, các con anh dường như tin tưởng anh và rất vui khi bố mẹ không liên tục hối thúc chúng về điểm số. Rồi một đêm, khi con gái Bill – đang là học sinh trung học năm thứ hai – đến nghe một trong những bài giảng của anh về não bộ của thanh thiếu niên, tại đó anh đã chia sẻ một số ý tưởng được thảo luận trong cuốn sách này. Trên đường về nhà, cô bé nói “Con cá là bố không thực sự tin rằng điểm số ở trường trung học không quá quan trọng đối với sự thành công trong cuộc sống.”

Bill hỏi con gái tại sao con lại nghĩ vậy. Cô bé trả lời rằng các giáo viên và các cố vấn học tập ở trường luôn nói về tầm quan trọng của việc là một học sinh giỏi (mà cô bé là học sinh giỏi). Bill cam đoan với con rằng, dựa trên rất nhiều nghiên cứu, anh thực sự tin điều đó. Để chứng minh, anh đề nghị cho con một trăm đô la nếu cô bé có một điểm C trong bảng điểm, trong bất kì môn học nào. Anh làm vậy bởi vì anh rất vui nếu con được trải nghiệm việc có điểm C trong bảng điểm và con sẽ thấy rằng thế giới của con không kết thúc, rằng tất cả các lựa chọn của con cho tương lai không bị vụt mất, và con vẫn có thể tạo ra một cuộc sống đầy ý nghĩa. (Cô bé không hề chấp nhận lời đề nghị đó.)

Ned nói với mọi đứa trẻ Hermione mà anh gặp (và anh tình cờ gặp rất nhiều trẻ như thế) rằng điều quan trọng nhất trẻ có thể làm là phát triển bộ não mình muốn cho suốt quãng đời còn lại. Trẻ có muốn một bộ não căng thẳng và mệt mỏi đến mức trẻ dễ dàng lo lắng và chán nản trong suốt cuộc đời hay không? Trẻ có muốn một bộ não tham công tiếc việc hay không? Hay trẻ muốn một bộ não mạnh mẽ, nhưng cũng hạnh phúc và kiên cường? Giống như Ned, bạn có thể nói, “Rõ ràng là con đủ thông minh để làm việc này. Vấn đề là liệu việc đó có tốt cho sự phát triển lâu dài của con và nhất quán với những giá trị cao nhất của con không.” Sau đó khuyến khích trẻ nghĩ về những giá trị cao nhất của mình, những gì thực sự quan trọng nhất với con và đề nghị con xem xét, khi con nghĩ về chúng, liệu con có đang đi đúng hướng không. Sau đó, giúp con đặt mục tiêu dựa trên các giá trị, bởi vì khi đặt ra mục tiêu mà chúng ta kiểm soát được, tâm trí chúng ta sẽ hạnh phúc. Chúng tôi sẽ nói nhiều hơn về việc thiết lập mục tiêu trong Chương 10 khi thảo luận về các chiến thuật tâm trí giúp trẻ thành công.