Hôm đó là thứ Tư. Ông dậy sớm, nhưng Lucy còn dậy trước ông. Ông thấy cô đang ngắm bầy ngỗng hoang trên con đập.
“Chúng không đáng yêu hay sao bố,”cô nói. “Năm nào chúng cũng về. Vẫn là ba con đấy. Con cảm thấy thật may mắn khi được chúng ghé thăm, được là người chúng chọn.”
Ba. Đó sẽ là một giải pháp tốt. Ông và Lucy cùng Melanie. Hoặc ông và Melanie với Soraya.
Họ ăn sáng cùng nhau, rồi dẫn hai con chó giống Dobermanns ra ngoài đi dạo.
“Bố có nghĩ mình có thể sống ở đây, tại nơi này không?” Lucy hỏi xua tan im lặng.
“Tại sao? Con cần một người nuôi chó mới à?”
“Không, con không nghĩ tới chuyện đó. Nhưng chắc chắn bố có thể xin được việc làm tại trường Đại học Rhodes - chắc bố phải có những mối liên hệ tại đó - hoặc là tại Port Elizabeth.”
“Bố không nghĩ vậy, Lucy. Bố không còn giá trị trong nghề nữa. Vụ bê bối sẽ đi theo bố, dính chặt lấy bố. Không, nếu bố đi xin việc thì đó hẳn sẽ là công việc vô danh, kiểu như nhân viên ghi chép sổ sách, nếu vẫn còn cái nghề đó, hoặc người chăm sóc chuồng chó.”
“Nhưng nếu muốn chấm dứt sự gièm pha, chẳng phải bố nên đứng dậy bảo vệ chính bản thân hay sao? Chẳng phải lời đồn thổi sẽ cứ thế nhân lên nếu bố trốn chạy hay sao?”
Hồi còn bé, Lucy khá trầm lặng và sống khép kín, cô luôn quan sát ông nhưng theo như ông biết, cô không bao giờ phán xét ông. Giờ đây ở tuổi ngoài hai mươi, cô đã bắt đầu tách biệt. Lũ chó, việc làm vườn, những cuốn sách chiêm tinh học, những bộ đồ vô tính: trong từng thứ ông đều nhận ra lời tuyên bố độc lập, có cân nhắc, đầy mục đích. Và cả sự xa lánh khỏi đàn ông nữa. Tự xây dựng nên cuộc sống của mình. Thoát khỏi cái bóng của ông. Tốt! Ông ủng hộ!
“Có phải đó là việc con nghĩ bố đã làm không?” ông nói. “Trốn chạy khỏi hiện trường tội ác ấy?”
“Thì bố đã rút lui. Kỳ thực có gì khác biệt đâu?”
“Con không hiểu vấn đề rồi, con yêu. Việc con muốn bố làm là một việc không thể thực hiện được nữa, khốn kiếp. Trong thời đại của chúng ta thì không. Nếu bố cứ cố làm thì sẽ chẳng ai còn nghe đến tên tuổi bố nữa.”
“Không đúng. Ngay cả nếu bố là người như bố nói, một con khủng long đạo đức, thì người ta vẫn tò mò muốn nghe con khủng long ấy nói cơ mà. Con tò mò đây này. Vụ của bố là gì nào? Chúng ta cùng nói về nó.”
Ông ngần ngừ. Con bé thực sự muốn ông trút ra nhiều hơn nữa những tâm sự thầm kín của mình ư?
“Vụ của bố là về sự đúng đắn của khao khát,” ông nói. “Về vị chúa tể có thể khiến ngay cả những con chim bé xíu cũng phải run rẩy.”
Ông thấy chính mình trong căn hộ của nàng, trong phòng ngủ của nàng, với cơn mưa như trút đang rơi ngoài cửa sổ và máy sưởi trong góc phòng đang tỏa ra mùi dầu hỏa, ông thấy mình đang quỳ xuống trên người nàng, cởi từng lớp áo trên người nàng, trong khi hai cánh tay nàng thõng xuống như cánh tay người chết. Bố là kẻ phụng sự của thần Ái Tình: đó là điều ông muốn nói, nhưng liệu ông có vô liêm sỉ như thế không? Chính vị chúa tể ấy đã sai khiến bố hành động. Thật phù phiếm làm sao! Nhưng đó không phải là lời nói dối, không hoàn toàn. Trong toàn bộ câu chuyện khốn khổ này có điều gì đó cao thượng đang nỗ lực hết sức để bừng nở. Giá mà ông biết trước khoảnh khắc ấy lại ngắn ngủi đến vậy!
Ông thử lại, lần này chậm hơn. “Khi con còn nhỏ, khi hai cha con vẫn còn sống ở Kenilworth, nhà hàng xóm có nuôi một con chó, giống chó lông vàng. Bố không biết con còn nhớ hay không.”
“Lờ mờ lắm ạ.”
“Nó là chó đực. Cứ hễ khi nào một con chó cái ở khu lân cận xuất hiện là nó rất phấn khích và không kiểm soát được mình, và theo nguyên lý của Pavlov thì nó sẽ phải ăn đòn của chủ. Việc này cứ thế tiếp diễn cho đến khi con chó tội nghiệp ấy không biết phải làm gì nữa. Cứ mỗi khi ngửi thấy mùi của con cái, nó sẽ chạy khắp quanh vườn, hai tai cụp xuống và đuôi quặp vào giữa hai chân sau, rên rỉ cố gắng chạy trốn.”
Ông ngừng lại.
“Con không hiểu vấn đề,” Lucy nói. Vậy thực sự, vấn đề là gì?
“Trong khung cảnh khiến bố tuyệt vọng ấy có điều gì đó rất đê tiện. Dường như theo bố thấy, người ta có thể trừng phạt một con chó vì tội nhai nát một chiếc dép lê. Môt con chó sẽ chấp nhận thứ công lý như thế: bị ăn đòn vì nhai dép. Nhưng khao khát là một câu chuyện khác. Chẳng có loài vật nào lại chấp nhận thứ công lý là bị trừng phạt vì thỏa mãn những bản năng của nó.”
“Vậy là con đực phải được cho phép thỏa mãn những bản năng của nó mà không bị kiểm soát ạ? Như thế là đạo đức sao?”
“Không, như thế là vô đạo đức. Điều nhục nhã trong khung cảnh Kenilworth ấy là con chó tội nghiệp bắt đầu căm ghét chính tập tính của nó. Nó không cần ai đánh đập nữa. Nó đã sẵn sàng tự trừng phạt chính nó. Trong hoàn cảnh ấy tốt hơn hết nên bắn chết nó đi.”
“Hoặc là hoạn nó đi.”
“Có thể. Nhưng tận trong thâm tâm bố nghĩ bắn chết nó thì tốt hơn. Nó có thể thích điều này hơn những lựa chọn trước mắt nó: một mặt, phủ nhận tập tính của nó, mặt khác, dành toàn bộ thời gian còn lại của nó dạo quanh phòng khách, thở dài, ngửi đít mèo và ngày càng béo ú lên.”
“Bố luôn luôn có cảm xúc như thế này sao, David?”
“Không, không phải luôn luôn. Đôi khi bố chỉ cảm nhận theo mặt khác. Ham muốn là một gánh nặng mà khi không phải mang, ta vẫn sống tốt.”
“Con buộc phải nói rằng, đây là kim chỉ nam mà con luôn tuân theo.”
Ông chờ cô nói tiếp, nhưng cô im lặng. “Dù sao đi nữa,” cô nói, “quay lại chủ đề, bố đã được trục xuất an toàn. Các đồng nghiệp của bố có thể hô hấp bình thường trở lại, trong khi con dê tế thần thảnh thơi đi dạo trong thiên nhiên hoang dã.”
Một tuyên bố? Một câu hỏi? Con bé có tin rằng ông chỉ là con dê tế thần không?
“Bố không nghĩ cái trò dê tế thần là cách thể hiện tốt nhất,” ông thận trọng nói. “Trò dê tế thần hiệu quả trong thực tiễn, trong khi đằng sau nó là cả một sức mạnh tôn giáo. Con chất hết lên lưng con dê toàn bộ tội lỗi của thành phố này rồi đuổi nó đi, thế là thành phố được thanh tẩy. Nó hiệu quả bởi vì ai ai cũng biết cử hành nghi lễ như thế nào, gồm cả những vị chúa tể. Thế rồi các vị chúa tể ấy chết đi, bất thình lình con phải tự thanh tẩy thành phố này mà không còn sự hỗ trợ của đấng tối cao. Giờ là lúc đòi hỏi những hành động thật sự thay vì Chủ nghĩa Biểu tượng. Theo cách nói của người La Mã, đó là lúc nhà kiểm duyệt ra đời. Cảnh giác trở thành khẩu lệnh: cảnh giác tất cả mọi chuyện. Thanh tẩy được thay thế bằng thanh trừng.”
Ông đang bị cuốn đi; ông đang thuyết giảng. “Mà dù sao,” ông kết luận, “nói tạm biệt với thành phố này, bố sẽ phải làm gì giữa thiên nhiên hoang dã đây? Chăm sóc những con chó. Làm phụ tá đắc lực cho một phụ nữ có chuyên môn khử trùng và giúp các con vật ra đi êm ái.”
Lucy phá lên cười. “Bev ư? Bố nghĩ cô Bev là một phần trong bộ máy thô bạo hà khắc à? Cô Bev tôn sùng bố lắm đấy! Bố là giáo sư. Bà ấy chưa từng gặp giáo sư lỗi thời nào như thế. Đứng trước mặt bố, bà ấy sợ nói sai ngữ pháp lắm.”
Ba người đàn ông đang bước về phía họ trên lối đi, hoặc là hai người đàn ông và một thằng nhóc. Họ bước đi rất nhanh, với những sải bước dài của dân nông thôn. Con chó đứng cạnh Lucy bước chậm lại, lông dựng đứng.
“Chúng ta có nên lo lắng không?” ông lẩm bẩm. “Con không biết.”
Cô rút ngắn mấy sợi xích hai con Dobermann. Ba người kia tiến đến gần họ. Một người gật đầu, một người nói lời chào rồi đi lướt qua họ.
“Chúng là ai thế?” ông hỏi. “Con chưa từng thấy chúng.”
Họ đi tới ranh giới khu đất trồng rồi quay về. Những kẻ lạ mặt đã khuất tầm nhìn.
Khi về gần nhà, họ nghe thấy những con chó trong lồng sủa om sòm. Lucy vội rảo bước chân.
Ba tên kia đang đứng đó đợi chờ họ. Hai tên đàn ông đứng cách một quãng trong khi thằng nhóc đứng cạnh mấy cái lồng, xùy xùy trêu chọc lũ chó và có những cử chỉ đe dọa, khiến chúng giật mình. Trong cơn cuồng nộ, lũ chó vừa sủa vừa cắn. Con chó đứng cạnh Lucy cố gắng dứt dây xích. Ngay cả con chó bull cái kia, con chó mà ông những tưởng nó đã an phận, cũng đang khẽ gầm gừ.
“Petrus!” Lucy gọi. Nhưng chẳng thấy Petrus đâu. “Tránh xa lũ chó ra!” cô quát lên. “Cút đi!”
Thằng bé đi thong dong đến nhập hội với hai tên kia. Gương mặt thằng bé phẳng lỳ, vô cảm với cặp mắt thách thức; nó mặc áo sơ mi thêu hoa, quần dài túi hộp, đội chiếc mũ che nắng hoe vàng. Những kẻ đi cùng nó đều mặc bộ áo liền quần. Tên cao hơn trong hai tên trông đẹp trai, thậm chí là đẹp trai đến kinh ngạc, trán cao, xương gò má đẹp như tạc tượng và cánh mũi rộng, phập phồng.
Khi Lucy đến gần, lũ chó liền trấn tĩnh lại. Cô mở cửa cái lồng thứ ba cho hai con chó Dobermanns vào trong. Một cử chỉ can đảm, ông tự nhủ, nhưng liệu có thông minh không?
Quay sang phía mấy tên kia cô hỏi: “Các anh muốn gì?”
Tên trẻ hơn lên tiếng: “Chúng tôi phải gọi điện thoại.”
“Tại sao các anh phải gọi điện thoại?”
“Em gái nó” - hắn phác một cử chỉ mơ hồ về phía sau - “đang bị tai nạn.”
“Một tai nạn ư?”
“Vâng, nặng lắm.”
“Tai nạn kiểu gì?”
“Một đứa trẻ.”
“Em gái anh ta sinh con sao?”
“Vâng.”
“Các anh từ đâu đến?”
“Từ Erasmuskraal.”
Ông và Lucy liếc nhìn nhau. Erasmuskraal, bên trong khu rừng đặc nhượng, là ngôi làng nhỏ không điện đóm và cũng không điện thoại. Câu chuyện có vẻ hợp lý.
“Tại sao các anh không gọi điện từ trạm kiểm lâm?”
“Có ai ở đấy đâu.”
“Bố đợi ngoài này nhé,” Lucy thì thầm với ông, rồi quay sang thằng bé: “Ai muốn dùng điện thoại đây?”
Nó chỉ tay vào tên to lớn, đẹp trai.
“Vào đây,” cô nói. Cô mở khóa cửa sau rồi bước vào. Tên cao lớn bước vào theo. Một lúc sau tên thứ hai xô ông sang một bên rồi cũng bước vào ngôi nhà.
Ngay lập tức ông biết có chuyện không ổn. “Lucy, ra ngoài này!” ông gọi, không chắc chắn mình nên đi theo hay đợi ở đây để trông chừng thằng nhóc.
Từ căn nhà không phát ra âm thanh nào. “Lucy!” ông lại gọi, vừa dợm bước vào thì nghe thấy tiếng chốt cửa kêu cạch một tiếng.
“Petrus!” ông quát lên to hết sức mình.
Thằng nhóc quay ngoắt người lại và co giò chạy, thẳng tiến tới cửa trước. Ông cởi xích cho con chó bull. “Đuổi theo nó!” ông quát lên. Con chó nặng nề chạy đuổi theo thằng nhóc.
Tới phía trước nhà, ông bắt kịp cả hai. Thằng nhóc đã nhặt được một cành đậu và dùng nó để giữ khoảng cách với con chó. “Xùy... xùy... xùy!” nó hổn hển nói, dứ dứ cành cây. Gầm gừ khe khẽ, con chó lượn vòng hết sang trái rồi sang phải.
Bỏ mặc cả hai, ông lao vào cánh cửa nhà bếp. Tấm ván dưới khe cửa đã lệch khỏi vị trí: nó bật tung ra sau vài cú đạp mạnh. Ông bò bằng cả tứ chi vào nhà bếp.
Một cú đánh giáng thẳng xuống đỉnh đầu ông. Ông chỉ còn đủ thời gian nghĩ rằng: nếu vẫn còn tỉnh thì mình ổn cả, trước khi tứ chi ông mềm nhũn rồi khuỵu xuống.
Ông nhận thức được mình đang bị kéo lê qua sàn nhà bếp. Rồi tất cả đen ngòm.
Ông đang nằm úp mặt xuống sàn đá lạnh. Ông cố gắng đứng dậy nhưng hai chân ông chẳng hiểu sao không cử động được. Ông lại nhắm nghiền mắt lại.
Ông đang trong phòng vệ sinh, phòng vệ sinh ở nhà Lucy. Ông đứng thẳng dậy choáng váng. Cửa đã bị khóa, chìa khóa thì mất.
Ông ngồi xuống bồn cầu và cố gắng trấn tĩnh lại.
Căn nhà yên tĩnh; lũ chó đang sủa, nhưng có vẻ như chúng chỉ sủa vì bổn phận hơn là vì hoảng loạn.
“Lucy!” ông rền rĩ, rồi cố gọi to hơn nữa: “Lucy!” Ông cố gắng đạp vào cửa, nhưng ông không còn là mình nữa, thêm vào đó không gian quá chật hẹp, cánh cửa thì quá cũ và vững chắc.
Vậy là nó đã đến, ngày thử thách. Không một lời cảnh báo, không một tiếng kèn lệnh, nó đã ở đây đợi ông, và ông đang rơi vào đúng cái ngày đó. Quả tim trong lồng ngực ông đang đập mạnh tới nỗi, như thể theo cách ngu ngốc của riêng mình, nó cũng biết chuyện gì đang xảy ra. Họ sẽ đương đầu với thử thách này như thế nào, ông và trái tim ông?
Đứa con của ông đang sa vào tay những kẻ lạ mặt. Trong một phút, trong một tiếng, sẽ là quá muộn; bất kể chuyện gì đang xảy ra với con bé sẽ như được tạc vào đá, sẽ thuộc về quá khứ. Nhưng giờ vẫn chưa quá muộn. Bây giờ ông phải làm gì đó.
Cho dù cố căng tai ra nghe, ông vẫn không thể nghe thấy âm thanh nào từ căn nhà. Thế nhưng nếu con ông đang gọi, cho dù là trong câm lặng đi nữa, chắc chắn ông sẽ nghe thấy!
Ông đạp liên hồi vào cửa. “Lucy!” ông thét lên. “Lucy! Nói chuyện với bố!”
Cánh cửa bật mở, khiến ông mất thăng bằng. Ông chưa kịp đứng dậy thì tên thứ hai, tên lùn hơn, tay đang cầm vào cổ cái chai một lít trống rỗng. “Chìa khóa đâu,” hắn hỏi.
“Không.”
Hắn xô mạnh vào người ông. Ông loạng choạng lùi về phía sau, nặng nề ngồi xuống. Tên kia giơ cao cái chai lên. Gương mặt hắn lạnh tanh, không hề có một chút giận dữ. Đó chỉ đơn thuần là công việc hắn đang làm: ép ai đó phải trao ra một món đồ. Nếu việc ấy buộc hắn phải đánh ông bằng cái chai kia, thì hắn sẽ đánh ông, đánh càng nhiều lần càng tốt, nếu cần phải đánh đến vỡ cả chai, hắn sẽ đánh.
“Lấy hết đi,” ông nói. “Lấy hết mọi thứ đi. Chỉ cần để con gái tôi yên.”
Không buồn nói một lời, tên kia lấy chùm chìa khóa, và rồi một lần nữa nhốt ông lại.
Ông run rẩy. Một bộ ba nguy hiểm. Tại sao ông không nhận ra ngay từ đầu? Nhưng chúng không làm hại ông, đúng ra là chưa. Có thể nào của nả trong nhà này sẽ là đủ với chúng? Và chúng cũng sẽ không làm hại đến Lucy?
Từ phía sau ngôi nhà, vẳng đến âm thanh những giọng nói. Tiếng sủa của lũ chó ngày càng to hơn, lo âu hơn. Ông đứng lên nắp bồn cầu nhòm ra qua các chấn song cửa sổ.
Mang theo khẩu súng trường của Lucy và một túi rác phình to, tên thứ hai vừa rẽ ngoặt ở góc nhà. Tiếng cửa xe ô tô đóng sầm lại. Ông nhận ra âm thanh đó: xe của ông. Tên kia lại xuất hiện với hai tay không. Trong một lúc cả hai nhìn thẳng vào mắt nhau. “Xin chào!” hắn nói, mỉm cười độc ác rồi nói to lên mấy từ. Có một tràng cười vang lên. Một lúc sau, thằng nhóc đến nhập bọn với hắn, chúng đứng dưới cửa sổ, kiểm tra tù nhân, thảo luận về số phận của ông.
Ông nói tiếng Ý, ông nói tiếng Pháp, nhưng chẳng thứ gì cứu được ông ở nơi tận cùng đen tối giữa châu Phi này. Ông thật vô dụng, một bà dì Sally, nhân vật trong một phim hoạt hình, một nhà truyền giáo khoác áo bà xơ và đội mũ vải không vành, đợi chờ với hai bàn tay chắp lại và đôi mắt ngước lên trời, trong khi những kẻ xấu tán gẫu bằng thứ biệt ngữ khó hiểu và chuẩn bị nhúng ông vào vạc dầu sôi. Công việc của nhà truyền giáo: cái sứ mệnh nâng đỡ tinh thần con người ấy để lại được cái gì? Ông chẳng thấy gì cả.
Lúc này, tên cao lớn xuất hiện từ đâu đó phía trước căn nhà, mang theo khẩu súng trường. Bằng động tác ung dung, thành thạo hắn cho một viên đạn vào khóa nòng, rồi thọc nòng súng vào chuồng chó. Con to nhất trong giống chó chăn cừu Đức, chảy nước dãi trong cơn tức giận, cắn vào nòng súng. Một tiếng nổ nặng nề vang lên; máu và óc con chó bắn tung tóe khắp chuồng. Một lúc sau, những tiếng sủa ngưng bặt. Tên kia bắn thêm hai phát nữa. Một con chó bị bắn xuyên ngực, chết ngay lập tức; một con khác, với vết thương trên cổ họng rộng hoác, nặng nề ngồi xuống, đôi tai nó rủ về phía sau, buông ánh mắt nhìn theo những cử động của thằng người chẳng buồn ban cho nó một phát súng ân huệ.
Câm lặng bao trùm. Ba con chó còn lại không còn biết trốn đi đâu, đành rút vào phía sau chuồng, chạy vòng quanh khẽ rên rỉ. Từng con một gục xuống giữa những phát súng của hắn.
Những tiếng bước chân dọc lối đi, cửa vào nhà vệ sinh lại bật mở. Tên thứ hai đứng trước mặt ông; sau lưng hắn, ông liếc nhìn thấy thằng nhóc mặc chiếc áo sơ mi thêu hoa, đang ăn một que kem. Ông cố gắng huých vai nhào ra, đi qua tên thứ hai, rồi nặng nề gục xuống. Như kiểu bị ngáng chân: chắc chúng đã luyện trò này khi đá bóng.
Ông nằm sõng sượt, một thứ dung dịch gì đó đổ từ đầu đến chân ông. Đôi mắt ông rát buốt, ông cố gắng lau chúng đi. Ông nhận ra cái mùi này: rượu biến tính. Vất vả đứng dậy, ông lại bị đẩy vào trong nhà vệ sinh. Tiếng quẹt diêm, rồi ngay lập tức cả người ông chìm trong quầng lửa xanh mát lạnh.
Vậy là ông đã sai! Ông và con gái ông không hề được yên thân! Ông có thể bị thiêu cháy, ông có thể chết; và nếu ông có thể chết, vậy thì Lucy cũng có thể, Lucy là trên hết!
Ông đấm vào mặt mình như một thằng điên; tóc ông kêu lách tách khi bén lửa; ông lăn lộn, rú lên những tiếng thét quái dị mà đằng sau chúng chẳng có ý nghĩa gì ngoài sự sợ hãi. Ông cố gắng đứng dậy nhưng lại buộc phải gục xuống. Một lúc sau, tầm nhìn của ông rõ trở lại, ông trông thấy những bộ áo liền quần màu xanh và một chiếc giày chỉ cách mặt mình vài phân. Mũi giày uốn cong hướng lên trên; có những ngọn cỏ đang thò ra từ dưới đế giày.
Một ngọn lửa câm lặng nhảy múa trên mu bàn tay ông. Ông chật vật quỳ xuống nhúng bàn tay vào bồn cầu. Cánh cửa đóng lại sau lưng ông, có tiếng xoay chìa.
Ông cúi người xuống bồn cầu, hắt nước lên mặt, dúi cả đầu xuống bồn cầu. Có mùi tóc bị cháy xém ghê tởm. Ông đứng dậy, dập tắt những ngọn lửa cuối cùng trên quần áo.
Ông lấy mấy nắm giấy ướt lau mặt. Đôi mắt ông đang rát buốt, một bên mí mắt không mở ra được. Ông rà một bàn tay lên đầu, những ngón tay ông mở ra đen xì toàn bồ hóng. Chỉ còn khoảng da trên một bên tai ông là không bị lửa bén, dường như ông đã trụi sạch tóc; toàn bộ da đầu của ông mềm nhũn. Mọi thứ đều mềm nhũn, mọi thứ đều bị cháy. Bị cháy, đã cháy, hoàn toàn cháy.
“Lucy!” ông quát lên. “Con có đây không?”
Một hình ảnh chợt xuất hiện trong óc, Lucy đang vật lộn với hai tên mặc áo liền quần, đang vật lộn chống lại chúng. Ông nhăn nhó, cố gắng xua đi hình ảnh đó.
Ông nghe thấy tiếng xe khởi động và tiếng bánh xe lạo xạo trên mặt đường sỏi. Nó kết thúc rồi sao? Không thể tin nổi là chúng đang bỏ đi?
“Lucy!” ông quát lên, hết lần này tới lần khác, cho đến khi ông có thể nghe thấy vẻ điên dại trong giọng mình.
Cuối cùng, ơn Chúa, chìa khóa xoay trong ổ khóa. Vào lúc cánh cửa mở ra, Lucy đứng quay lưng về phía ông. Cô đang quàng khăn tắm, chân trần, tóc cô ướt đẫm.
Ông kéo lê thân mình đi theo cô qua nhà bếp, nơi chiếc tủ lạnh vẫn mở và thức ăn nằm vương vãi khắp sàn. Cô đứng chỗ cửa sau, thu vào tầm mắt cảnh tang tóc trong các chuồng chó. “Chó yêu của ta, chó yêu của ta!” ông nghe tiếng cô lẩm bẩm.
Cô mở chuồng thứ nhất ra rồi bước vào. Con chó với vết thương trên cổ họng bằng cách nào đó vẫn thở. Cô cúi người xuống nói chuyện với nó. Con chó yếu ớt vẫy đuôi.
“Lucy!” ông lại gọi, và giờ đây lần đầu tiên cô hướng ánh mắt về phía ông. Một cái nhíu mày xuất hiện trên mặt cô. “Chúng đã làm cái quái gì với bố vậy?” cô nói.
“Con yêu của ta!” ông nói. Ông đi theo cô vào chuồng cố gắng ôm cô trong vòng tay mình. Cô lảng tránh, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.
Phòng khách là một đống hỗn độn, phòng của ông cũng thế. Tất cả đều bị lấy đi: áo khoác của ông, những đôi giày tốt của ông, và đó mới chỉ là sự khởi đầu.
Ông tự soi mình trong gương. Lớp tro màu nâu là tất cả những gì còn lại của mái tóc ông, che phủ toàn bộ da đầu và trán ông. Phía dưới lớp da đầu mang một màu hồng giận dữ. Ông chạm tay vào làn da: đau đớn và đang bắt đầu rỉ mủ. Một bên mí mắt đang sưng phồng lên không mở ra được; hai lông mày đã biến mất, hai hàng lông mi cũng thế.
Ông bước đến phòng tắm nhưng nó đóng chặt. “Đừng vào đó,” giọng Lucy cất lên.
“Con có sao không? Có bị thương không?”
Những câu hỏi ngớ ngẩn; cô không đáp. Ông cố gắng phủi sạch tro dưới vòi nước trong bếp, đổ hết cốc này tới cốc khác xuống đầu. Nước chảy thành giọt sau lưng ông; ông bắt đầu run lên vì lạnh.
Chuyện này xảy ra từng ngày, từng giờ, từng phút, ở khắp mọi ngóc ngách của đất nước này, ông tự nhủ. Hãy xem mình may mắn khi đã thoát được nó mà còn sống. Hãy xem mình may mắn khi không phải là tù nhân ngồi trong xe vào lúc này, bị mang đi đâu chẳng biết, hay không phải nằm dưới khe sâu với một viên đạn giữa trán. Hãy xem như Lucy đã gặp may. Trên hết là Lucy.
Thật nguy hiểm khi sở hữu bất kỳ cái gì: một chiếc xe, một đôi giày, một bao thuốc. Không đủ để đi khắp nơi, không đủ xe, không đủ giày, không đủ thuốc. Người quá đông, đồ quá ít. Ở nơi này mọi thứ phải theo vòng tuần hoàn, sao cho ai ai cũng có thể chớp cơ hội để có được một ngày hạnh phúc. Đó là lý thuyết, hãy bám vào lý thuyết ấy và những điều an ủi lý mà thuyết ấy mang lại. Không có kẻ xấu, chỉ là một vòng tuần hoàn rộng lớn, nơi lòng trắc ẩn và nỗi khiếp đảm của tầng lớp lao động là những chuyện chẳng liên quan. Đó là cách người ta phải nhìn nhận cuộc sống ở đất nước này: theo khía cạnh giản lược như thế. Bằng không, người ta có thể hóa điên. Xe ô tô, giày dép và cả đàn bà nữa. Trong cái hệ thống ấy, chắc phải chừa một chỗ thích hợp cho đàn bà và những gì xảy ra với họ.
Lucy bước đến đằng sau ông. Cô đang mặc quần mặc nhà và áo khoác; mái tóc buộc túm lại sau gáy, gương mặt cô sạch sẽ và hoàn toàn trống rỗng. Ông nhìn vào mắt cô. “Con yêu của ta, con yêu....” ông nói, rồi nghẹn ngào vì bất thần nước mắt rơi như mưa.
Cô chẳng buồn động một ngón tay an ủi ông. “Đầu bố trông ghê quá,” cô nhận xét. “Có dầu bôi trẻ em trong tủ phòng tắm đấy. Bố bôi một ít vào. Xe bố bị lấy đi rồi à?”
“Ừ. Bố nghĩ chúng đã bỏ đi theo hướng ra Cảng Elizabeth. Bố phải gọi báo cảnh sát.”
“Không được đâu. Điện thoại bị đập vỡ rồi.”
Cô bỏ mặc ông. Ông ngồi xuống giường và chờ đợi. Cho dù đã quàng một cái chăn quanh người, nhưng ông vẫn không ngừng run rẩy. Một bên cổ tay ông sưng phồng và đau nhức nhối. Ông không thể nhớ được làm sao mà nó đau. Lúc ấy xung quanh rất tối. Cả buổi chiều dường như trôi qua chỉ trong chớp mắt.
Lucy trở lại. “Bọn chúng đã đâm xịt lốp xe tải rồi,” cô nói. “Con sẽ phải cuốc bộ đến chỗ Ettinger. Sẽ không đi lâu đâu.” Cô ngừng lại. “David, khi mọi người hỏi, nếu không phiền, bố chỉ cần tập trung vào chuyện của mình, vào những gì đã xảy ra với bố thôi được không?”
Ông không hiểu.
“Bố kể họ nghe chuyện xảy ra với bố, con sẽ kể họ nghe chuyện xảy ra với con,” cô nhắc lại.
“Con đang phạm sai lầm đấy,” ông nói bằng giọng trầm xuống thấp rất nhanh thành lời càu nhàu.
“Không phải thế,” cô nói.
“Con ta, con ta!” ông nói, hai cánh tay vươn ra về phía cô. Khi cô không ngả vào vòng tay, ông bỏ cái chăn sang một bên, đứng dậy, ôm lấy cô trong vòng tay mình. Trong vòng tay của ông, người cô cứng nhắc như tượng, chẳng nhượng bộ chút nào.