Tu viện Barnslay, nước Anh, năm 1200
"Thưa Đức Giám mục Hallwick, xin người giải thích cho chúng con hiểu về thứ bậc trên thiên đường và ở trần thế được không? Trong con mắt của Chúa trời, ai được coi trọng nhất?”, một nam sinh hỏi.
“Chẳng phải là các tông đồ đứng vị trí đầu tiên trong sự trọng đãi của Chúa ư?”, nam sinh thứ hai thắc mắc.
“Không”, vị giám mục thông thái trả lời. “Tổng lãnh thiên thần Gabriel, người bảo vệ phụ nữ và trẻ nhỏ, vị anh hùng đấu tranh cho những con người vô tội, đứng trên tất cả những người khác.”
“Vậy kế tiếp là ai?”, người nam sinh đầu tiên lại hỏi.
“Dĩ nhiên là tất cả những thiên thần khác”, vị giám mục trả lời. “Tiếp đến là mười hai tông đồ, đứng đầu là Thánh Peter, theo sau là các nhà tiên tri và những người ban phép lạ, rồi đến những vị thầy truyền giảng lời Chúa khắp thế gian này. Đứng cuối cùng trên thiên đường là tất cả các vị Thánh khác.”
“Nhưng ai là người quan trọng nhất nơi hạ thế, thưa Giám mục Hallwick? Ai được Chúa ban phúc lành nhiều nhất ở đây?”
“Đàn ông”, tiếng trả lời lập tức vang lên. “Và cao nhất lẫn quan trọng nhất trong số đó là Đức Giáo hoàng của chúng ta.”
Hai nam sinh gật đầu chấp nhận lời tuyên bố đó. Thomas, người lớn hơn, chồm về phía trước khi đang đứng trên phiến đá bên ngoài thánh đường. Trán anh nhăn lại với vẻ tập trung. “Kế tiếp trong tình thương của Chúa là Đức Hồng y rồi tới các mục sư”, anh cắt ngang.
“Đúng vậy”, vị giám mục đồng ý, hài lòng với suy luận của nam sinh do ông dạy dỗ.
“Ai đứng kế tiếp trong sự trọng đãi ấy?”, nam sinh thứ hai lại lên tiếng.
“Sao không phải là những người thống trị các vương quốc trên mặt đất này”, vị giám mục giải thích. Ông ngồi xuống chiếc ghế gỗ dành cho mình, trải rộng những chiếc áo choàng đen rồi tiếp tục, “Những người lãnh đạo đó làm ngân khố của nhà thờ ngày một phong phú, dĩ nhiên họ sẽ được Chúa yêu thương hơn những kẻ chỉ khư khư tích trữ của cải vì lợi ích cá nhân”.
Ba nam sinh trẻ khác đi tới để lắng nghe bài giảng của vị giám mục. Họ ngồi thành nửa vòng tròn ngay dưới chân ông.
“Những người đàn ông đã lập gia đình, đứng tiếp theo là các cậu trai trẻ chưa kết hôn?”, Thomas hỏi tiếp.
“Đúng vậy, họ có cùng vị trí như thương nhân hay chánh án, và chỉ ở ngay trên những người nông nô bị trói buộc vào đất đai.”
“Tiếp theo là ai, thưa giám mục?”, nam sinh thứ hai cất giọng.
“Động vật, bắt đầu là loài trung thành nhất, những con chó của loài người. Và cuối cùng là lũ bò đần độn. Đấy, ta tin các con đã biết các thứ bậc đầy đủ để có thể trả lời cho tông đồ của mình một khi lập lời thề và được phép trở thành người của Chúa.”
Thomas lắc đầu. “Người đã quên phụ nữ rồi, thưa Giám mục Hallwick. Họ đứng ở đâu trong tình thương của Chúa trời?”
Vị Giám mục day day trán trong khi cân nhắc câu trả lời. “Ta không quên những người phụ nữ”, rốt cuộc ông cũng lên tiếng. “Họ đứng cuối cùng trong tình thương của Chúa.”
“Dưới những con bò đần độn ư?”, nam sinh thứ hai lại hỏi.
“Đúng, dưới cả bò.”
Ba nam sinh ngồi dưới nền đất lập tức gật đầu tán thành.
“Thưa Giám mục?”, Thomas hỏi.
“Chuyện gì, con trai?”
“Những gì người vừa giảng giải cho chúng con là thứ bậc của Chúa hay của nhà thờ?”
Vị giám mục thất kinh trước câu hỏi gần như báng bổ ông. “Chẳng phải đều giống nhau sao?”
Rất nhiều đàn ông ở thế kỷ trước đã luôn tin rằng các quan điểm của Chúa luôn luôn được nhà thờ truyền đạt một cách chính xác.
Nhưng phụ nữ biết rõ hơn thế. Và đây là câu chuyện về một người trong số họ.