Anh quốc, năm 1206
Tin tức này sắp hủy hoại nàng.
Kelmet, viên quản sự tận tụy và trung thành phụ trách mọi công việc từ khi Nam tước Raulf Williamson rời khỏi nước Anh để thực hiện nhiệm vụ tối mật cho Đức vua, vừa nhận trách nhiệm thông báo cho bà chủ của mình một tin khủng khiếp. Viên quản gia không cố trì hoãn nhiệm vụ đáng sợ này, vì nếu cần thắc mắc với bất kỳ ai về người chồng yêu quý của Phu nhân Johanna, anh cho rằng có lẽ nàng sẽ có đôi lời muốn hỏi hai người đưa tin trước khi họ trở về Luân Đôn.
Được rồi, anh cần phải báo cho vị phu nhân dịu dàng biết càng sớm càng tốt. Kelmet đủ hiểu nhiệm vụ của anh là gì, và dù tin rằng bản thân đang nóng lòng được thực hiện điều ấy thì chân anh vẫn nặng nề như thể bị ngập đến tận đầu gối trong bùn trên suốt quãng đường đến khu nhà nguyện mới xây, nơi Phu nhân Johanna đang tham gia buổi cầu nguyện chiều.
Kelmet phát hiện ra Cha Peter MacKechnie, một linh mục đến từ lãnh địa Maclaurin trên Cao nguyên, đang thả bộ xuống dốc từ sân trong. Viên quản gia thở dài nhẹ nhõm trước khi với gọi vị linh mục.
“Con cần sự giúp đỡ của Cha, Cha MacKechnie”, Kelmet gầm lên để át tiếng gió rít.
Vị linh mục gật đầu rồi cau mày. Ông vẫn chưa tha thứ cho anh ta vì hành động thất lễ hai ngày trước.
“Con muốn ta lắng nghe lời xưng tội của con ư?”, vị linh mục hét lại, chất giọng nặng tiếng địa phương hàm chứa chút giễu cợt.
“Không, thưa Cha.”
MacKechnie lúc lắc đầu. “Con vừa tự làm vấy bẩn linh hồn mình đấy, Kelmet.”
Kelmet không đáp trả và kiên nhẫn đợi đến lúc người đàn ông Scot có mái tóc đen nhánh đến gần. Anh có thể thấy tia nhìn lấp lánh thú vị trong đôi mắt vị linh mục và biết ông đang đùa với mình.
“Có một chuyện khác quan trọng hơn việc xưng tội của con”, Kelmet bắt đầu. “Con vừa nhận được tin từ...”
MacKechnie không để Kelmet nói hết câu. “Hôm nay là thứ Sáu tuần Thánh1”, ông cắt ngang. “Chẳng gì quan trọng hơn ngày lễ này. Con sẽ không có được sự đồng cảm của ta cho đến buổi sáng ngày Lễ Phục sinh, trừ phi con xưng tội ngay hôm nay và cầu xin Chúa tha thứ. Con có thể bắt đầu bằng tội thô lỗ, Kelmet. Phải, đó sẽ là sự khởi đầu thích hợp.”
1 Nguyên văn là “Good Friday”: Là một ngày lễ linh thiêng của đạo Ki-tô giáo, diễn ra vào thứ Sáu trước Lễ Phục sinh, kỷ niệm sự kiện Chúa Giê-su bị đóng đinh vào thập giá.
Kelmet cố kiềm chế. “Con thật xin lỗi, thưa Cha, con thấy rằng Cha vẫn chưa tha thứ cho con.”
“Đúng vậy.”
Kelmet cau mày. “Như con đã giải thích hôm qua và hôm kia, con không cho Cha vào vì Nam tước Raulf đã ra chỉ thị đặc biệt là không để bất kỳ ai nhập thành khi ngài ấy đi vắng. Thậm chí cả anh trai của Phu nhân Johanna, ngài Nicholas, nếu ngài ấy đến đây. Cha, làm ơn hiểu cho con. Con là người quản lý thứ ba ở đây trong vòng chưa tới một năm, và con chỉ muốn giữ vị trí của mình lâu hơn những người khác thôi.”
MacKechnie khịt mũi. Ông không hoàn toàn mắc câu. “Nếu Phu nhân Johanna không ra mặt, giờ này ta vẫn phải cắm trại bên ngoài tường thành chứ gì?”
Kelmet gật đầu. “Vâng ạ”, anh thừa nhận. “Trừ phi Cha bỏ ngày Lễ vọng2 và trở về nhà.”
2 Ngày Lễ vọng: Là ngày trước của lễ chính, thường có Lễ vọng Phục sinh, Lễ vọng Giáng sinh.
“Ta sẽ không đi bất cứ đâu cho đến khi được nói chuyện với Nam tước Raulf về những việc mà chư hầu của ông ta đã gây ra trên lãnh địa Maclaurin. Những vụ tàn sát người vô tội vẫn đang tiếp diễn, Kelmet ạ, và ta cầu mong nam tước không hề hay biết gì về hành vi của tên Marshall xấu xa, thèm khát quyền lực kia. Nghe nói Nam tước Raulf là người ngay thẳng. Ta hy vọng điều đó là thật, bởi ông ta sẽ phải nhanh chóng chấm dứt tình trạng tàn bạo này. Tại sao ư, một số binh lính Maclaurin đã quay sang phục vụ cho gã con hoang MacBain rồi. Một khi họ trao cho hắn lời thề trung thành và hành động nhân danh hắn thì mọi việc sẽ hỏng bét. MacBain sẽ gây chiến chống lại Marshall và mọi người Anh khác đang săn bắn trên lãnh địa Maclaurin. Tên chiến binh Cao nguyên này nổi tiếng hung tợn và ưa báo thù, và ta cá bằng cả linh hồn rằng Nam tước Raulf sẽ gặp nguy hiểm khi MacBain chiếm đoạt lãnh địa Maclaurin, nơi những kẻ vô đạo dưới quyền nam tước của con đang quản lý.”
Dù không liên quan đến hoàn cảnh của những người Scot, Kelmet vẫn cảm thấy mình như người trong cuộc. Mặc khác, vị linh mục đang vô tình giúp anh trì hoãn việc thực hiện nhiệm vụ. Thêm vài phút nữa chắc cũng sẽ không ảnh hưởng gì, Kelmet nghĩ thầm.
“Cha cho rằng gã chiến binh MacBain đó sẽ đến Anh?”
“Ta không cho rằng”, vị linh mục phản đối. “Ta đang nói thực tế. Nam tước của con sẽ không mảy may nghi ngờ cho đến khi bị lưỡi gươm của MacBain kề vào cổ đâu. Tất nhiên, lúc đó thì đã quá trễ rồi.”
Người quản gia lắc đầu. “Binh lính của Nam tước Raulf sẽ giết hắn ta ngay trước khi hắn đặt chân lên cây cầu kéo.”
“Bọn họ không bao giờ có cơ hội đó đâu”, MacKechnie tuyên bố chắc nịch.
“Cha làm như gã chiến binh này bất khả chiến bại ấy.”
“Có lẽ thế. Sự thật là ta chưa từng gặp ai như hắn cả. Ta không muốn con phải rùng mình vì những câu chuyện mà ta nghe được về MacBain. Con sẽ chẳng muốn cơn thịnh nộ của hắn trút xuống đây đâu.”
“Giờ thì những điều đó không còn quan trọng nữa, Cha à”, Kelmet mệt mỏi thì thầm.
“Ôi, đó là cả một vấn đề lớn, con trai ạ”, vị linh mục cắt ngang. “Ta sẽ tiếp tục đợi nam tước của con chừng nào có thể. Sự việc nghiêm trọng đấy.”
Cha MacKechnie ngừng lại để kiềm chế bản thân. Ông biết vấn đề thị tộc Maclaurin không liên quan tới người quản sự, nhưng một khi đề cập về nó thì nỗi tức giận đã chất chứa trong lòng từ lâu chợt tràn ra trong vô thức, ông không thể gạt cơn phẫn nộ ra khỏi giọng mình. Ông buộc bản thân phải nói bằng giọng điệu bình tĩnh hơn khi thay đổi đề tài.
“Con vẫn là tội đồ đấy, Kelmet, với linh hồn già cỗi, nhưng suy cho cùng con chỉ cố hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chúa sẽ nhớ điều này khi con đứng trước Người vào Ngày Phán xét. Nếu không muốn xưng tội bây giờ thì con cần Cha giúp gì?”
“Con cần Cha giúp Phu nhân Johanna, Cha à. Tin tức đến từ vua John.”
“Và?”, MacKechnie hối thúc khi người quản sự ngưng giải thích.
“Nam tước Raulf chết rồi.”
“Ôi, Chúa lòng lành trên cao, không thể như thế được.”
“Đó là sự thật, thưa Cha.”
MacKechnie thở gấp rồi vội làm dấu Thánh. Ông cúi đầu, vừa đan tay vào nhau vừa thì thầm cầu nguyện cho linh hồn Nam tước.
Cơn gió len qua vạt áo thầy tu đen tuyền khiến nó quấn vào chân MacKechnie nhưng ông không hề hay biết, ông đang dành trọn tâm trí cho lời khấn nguyện. Kelmet nhìn lên bầu trời. Những đám mây u ám, lan rộng, trôi lững lờ trước cơn gió rít dai dẳng. Âm thanh của trận bão được báo trước thật kỳ quái và đáng lo ngại.
Vị linh mục kết thúc lời cầu nguyện, làm một dấu Thánh khác rồi quay lại với người quản sự. “Tại sao con không nói với ta ngay hả? Sao con cứ để ta luyên thuyên suốt chứ? Con nên ngắt lời ta. Lạy Chúa, giờ chuyện gì sẽ xảy ra với những người Maclaurin đây?”
Kelmet lắc đầu. “Những gì liên quan đến lãnh địa của nam tước ở Cao nguyên, giờ chỉ có Chúa mới trả lời được thôi, Cha à.”
“Đáng ra con phải nói cho ta biết ngay chứ”, MacKechnie lặp lại, vẫn bị chao đảo bởi hung tin.
“Thêm một vài phút cũng không khác biệt gì”, Kelmet trả lời. “Và có lẽ con đang lảng tránh bằng cách giữ Cha lại trò chuyện. Nhiệm vụ của con là thông báo cho Phu nhân Johanna, Cha biết đấy, và con rất cảm kích nếu được Cha giúp đỡ. Cô ấy quá trẻ, quá trong sáng. Trái tim cô ấy sẽ tan nát mất.”
MacKechnie gật đầu. “Ta mới biết nữ chủ nhân của con trong hai ngày ngắn ngủi thôi, nhưng ta thấy cô ấy có bản tính hiền lành và trái tim trong sáng. Ta không chắc mình có thể giúp gì nhiều. Nữ chủ nhân của con dường như rất sợ ta.”
“Cô ấy sợ đa số các linh mục, thưa Cha. Cô ấy có lý do riêng.”
“Tại sao?”
“Người nghe lời xưng tội của cô ấy là Giám mục Hallwick.”
Cha MacKechnie cau mày. “Con không cần nói thêm”, ông thì thào với vẻ kinh tởm. “Sự xấu xa của Hallwick nổi như cồn, ngay cả ở Cao nguyên. Chẳng có gì lạ khi nữ chủ nhân của con lại lo sợ. Thật ngạc nhiên là cô ấy đã đến giúp và khăng khăng cho ta vào, Kelmet. Giờ ta mới nhận ra cô ấy phải có lòng can đảm lắm mới làm được điều đó. Cô gái đáng thương!”, ông thở dài. “Cô ấy không đáng phải gánh lấy nỗi đau mất người chồng yêu dấu ở độ tuổi này. Cô ấy kết hôn với nam tước bao lâu rồi?”
“Hơn ba năm rồi ạ. Phu nhân Johanna chỉ lớn hơn một thiếu nữ chút xíu khi cô ấy về với nam tước. Cha à, làm ơn đi cùng con đến nhà nguyện.”
“Chắc chắn rồi.”
Hai người đàn ông bước sóng đôi. Kelmet ngập ngừng lên tiếng, “Con chẳng biết mình có thể dùng từ ngữ thích hợp không nữa. Con không chắc... phải nói thế nào...”.
“Nói trực tiếp”, vị linh mục khuyên. “Cô ấy sẽ hiểu thôi. Đừng bắt cô ấy phải suy đoán. Hẳn là sẽ có ích nếu chúng ta đưa thêm một phụ nữ đi cùng để an ủi nữ chủ nhân của con. Phu nhân Johanna chắc chắn cần sẻ chia không chỉ với riêng chúng ta.”
“Con không biết ai để nhờ vả cả”, Kelmet thừa nhận. “Ngay trước ngày rời đi, Nam tước Raulf đã lại thay toàn bộ gia nhân. Phu nhân chỉ mới biết tên một vài người trong số rất nhiều người hầu. Cô ấy ở một mình vào những ngày này”, anh nói thêm. “Phu nhân rất tốt bụng, Cha ạ, nhưng luôn giữ khoảng cách với các gia nhân và đã học cách giữ thế giới cho riêng mình. Thật sự chúng ta không thể đưa người bạn tâm tình nào đến gặp cô ấy trong lúc này được.”
“Nam tước Raulf đi bao lâu rồi?”
“Tính đến giờ là gần sáu tháng.”
“Vậy trong suốt thời gian đó, Phu nhân Johanna không bầu bạn với ai sao?”
“Không. Cô ấy chẳng tâm sự với ai, kể cả người hầu gái của mình. Nam tước nói chỉ đi một hoặc hai tuần và chúng con đã mong đợi ngài ấy quay về từng ngày.”
“Nam tước chết thế nào?”
“Ngài ấy trượt chân và rơi khỏi vách đá.” Kelmet lắc lắc đầu. “Con tin chắc là còn có nhiều lý do hơn đằng sau lời giải thích đã được nghe, vì Nam tước Raulf không phải người vụng về. Có lẽ Đức vua sẽ nói với Phu nhân Johanna cặn kẽ hơn.”
“Vậy là tai nạn hy hữu”, vị linh mục khẳng định. “Chúa luôn có quyết định của Người.”
“Đó cũng có thể là do bàn tay của quỷ”, Kelmet lầm bầm.
MacKechnie không nhận xét về khả năng đó. “Phu nhân Johanna chắc chắn sẽ tái hôn”, ông gật gù. “Cô ấy được thừa kế một tài sản khá lớn, phải không?”
“Cô ấy được hưởng một phần ba lãnh địa của chồng mình. Con nghe nói nó là vùng đất rộng mênh mông.”
“Có thể một trong những lãnh địa đó là Maclaurin mà vua John của con đã ăn cắp từ tay Đức vua Scotland và trao cho Nam tước Raulf?”
“Có lẽ thế”, Kelmet đồng ý.
MacKechnie lên tiếng. “Với mái tóc vàng và đôi mắt xanh thăm thẳm, chủ nhân của con sẽ khiến mọi nam tước còn độc thân tại Anh háo hức được kết hôn cùng. Đó là một phụ nữ đẹp tuyệt trần, và thật tội lỗi khi phải thừa nhận rằng ta hoàn toàn bị mê hoặc vào lần đầu tiên nhìn thấy cô ấy. Vẻ ngoài đó dư sức bỏ bùa các quý ngài, ngay cả khi cô ấy không có chút của hồi môn nào.”
Họ đặt chân trên bậc tam cấp hẹp dẫn lên cửa nhà nguyện khi vị linh mục kết thúc lời nhận xét.
“Cô ấy xinh đẹp”, người quản sự đồng ý. “Con từng thấy nhiều người đàn ông hồn bay phách lạc khi bắt gặp vẻ đẹp ấy. Các nam tước chắc chắn muốn có được cô ấy, chỉ là không phải trong hôn nhân.”
“Vì sao?”
“Cô ấy bị vô sinh”, Kelmet tiết lộ.
Mắt vị linh mục mở to. “Lạy Chúa”, ông thì thầm, cúi đầu làm dấu Thánh và trở lại công cuộc cầu nguyện mà lần này là cho gánh nặng của vị phu nhân đáng kính.
Phu nhân Johanna cũng đang cầu nguyện. Nàng đứng sau bệ thờ và cầu xin sự dẫn dắt của Chúa để kiên quyết thực hiện hành động đúng đắn. Nàng giữ cuộn giấy da trong tay, và khi kết thúc lời khẩn nguyện, nàng quấn cuộn giấy vào tấm vải lanh đang trải rộng trên bề mặt đá cẩm thạch.
Một lần nữa, nàng cân nhắc việc tiêu hủy chứng cớ chống lại Đức vua. Nhưng rồi nàng lắc đầu. Một ngày nào đó, sẽ có người tìm ra cuộn giấy, và nếu người đó biết được sự thật về vị vua xấu xa từng cai trị nước Anh thì có lẽ công lý sẽ được thực thi.
Johanna đặt cuộn giấy vào giữa hai miếng đá cẩm thạch bên dưới bệ thờ để nó có thể khuất khỏi tầm nhìn và không bị hủy hoại. Sau đó nàng nhanh chóng nói một lời cầu nguyện khác, rồi quỳ gối và đứng dậy bước dọc lối đi giữa các dãy ghế. Nàng mở cửa bước ra ngoài.
Cuộc đối thoại giữa Cha MacKechnie và Kelmet ngay lập tức ngừng lại.
Hình ảnh Phu nhân Johanna vẫn tác động lên vị linh mục, ông thú nhận sự thực mà không cảm thấy day dứt về tội lỗi. MacKechnie không cho rằng bản thân phạm tội dục vọng vì ông nhận thấy ánh sáng mờ ảo tỏa ra từ mái tóc nàng và khuôn mặt đáng yêu của nàng dài hơn cần thiết một chút. Trong tâm trí ông, Johanna đơn giản là một sinh linh của Chúa trời, một kiệt tác lộng lẫy, minh chứng cho khả năng nhào nặn sự hoàn hảo của Đấng tối thượng.
Johanna là người Saxon chính cống với gò má cao và hồng hào. Nàng hơi thấp hơn những người khác vì chỉ có chiều cao trung bình, nhưng lúc này trông có vẻ nhỉnh hơn vị linh mục khi nàng giữ mình đứng thẳng như một nữ hoàng.
Phải, diện mạo của nàng làm MacKechnie hài lòng, và ông tin chắc Đức Chúa trời cũng hài lòng tương tự, vì nàng thực sự sở hữu trái tim ấm áp và dịu dàng.
MacKechnie là một linh mục giàu lòng trắc ẩn. Ông đau lòng trước tai họa kinh hoàng mà vị phu nhân đáng mến phải gánh chịu. Một người phụ nữ vô sinh sẽ không có ích ở vương quốc này. Mục đích tồn tại duy nhất của nàng đã bị tước đoạt. Chắc chắn gánh nặng nàng đang mang cùng việc hiểu rõ vị trí thấp kém của mình chính là lý do mà ông chưa một lần nhìn thấy nụ cười trên môi nữ nam tước.
Và giờ đây, họ sắp sửa mang đến cho nàng một tai họa kinh hoàng khác.
“Chúng tôi có thể nói chuyện với người không, thưa phu nhân?”, Kelmet lên tiếng.
Giọng của người quản sự có lẽ đã cảnh báo trước điều gì đó không tốt lành. Đôi mắt nàng ánh lên vẻ phòng thủ cùng bàn tay cuộn lại thành nắm đấm. Nàng gật đầu và từ từ quay vào trong.
Hai người đàn ông theo sau nàng. Phu nhân Johanna đứng đối diện với họ khi đến giữa lối đi hai hàng ghế tựa bằng gỗ trong nhà nguyện. Bệ thờ nằm ngay sau lưng nàng. Bốn ngọn nến cung cấp ánh sáng duy nhất trong nhà nguyện. Lửa chập chờn bên trong những quả cầu thủy tinh đặt cách nhau khoảng một cánh tay dọc theo chiều dài bệ thờ đá cẩm thạch.
Phu nhân Johanna thẳng vai, đan tay vào nhau và giữ mắt nhìn thẳng vào viên quản sự. Nàng dường như đang chuẩn bị tinh thần cho tin tức xấu. Giọng nàng thì thầm nhẹ nhàng, mất hết cảm xúc. “Chồng ta đã trở về nhà ư?”
“Không, thưa phu nhân”, Kelmet trả lời. Liếc mắt nhìn vị linh mục, nhận lấy cái gật đầu động viên của ông, anh buột miệng, “Có hai người đưa tin từ Luân Đôn vừa đến. Một tin khủng khiếp, thưa phu nhân. Chồng người đã qua đời”.
Một phút im lặng trôi qua sau lời công bố đó. Kelmet bắt đầu siết chặt tay rồi lại thả lỏng trong khi chờ đợi hung tin dần được tiếp nhận. Nữ chủ nhân của anh không để lộ bất cứ phản ứng nào khiến anh bắt đầu nghĩ rằng nàng vẫn chưa hiểu những gì anh vừa thông báo.
“Đúng vậy, phu nhân. Nam tước Raulf đã ra đi mãi mãi”, anh lặp lại trong tiếng thì thầm khàn đặc.
Vẫn không một lời hồi đáp. Vị linh mục và người quản sự nhìn nhau lo lắng, rồi cùng nhìn Phu nhân Johanna.
Sóng nước đột ngột dâng trào trong mắt nàng. Cha MacKechnie gần như thở phào nhẹ nhõm. Nàng đã trở về với thực tại.
Và rồi ông chờ đợi phản ứng tiếp theo của nàng, trong phần lớn những tháng năm với vai trò an ủi các gia đình có tang sự, ông biết hầu hết mọi người đều phủ nhận sự thực đó.
Phản ứng của Johanna thật nhanh và mạnh mẽ. “Không!”, nàng thét. Nàng lắc đầu thật mạnh đến mức mái tóc dài phủ khắp vai nàng. “Ta không ở đây lắng nghe lời nói dối này. Ta không nghe.”
“Kelmet nói thật”, Cha MacKechnie nhấn mạnh bằng tông giọng thấp và dịu dàng.
Nàng lắc đầu với ông. “Đây là một trò lừa đảo. Nam tước không thể chết. Kelmet, cậu phải tìm ra sự thật. Ai đã nói với cậu lời dối trá như vậy?”
Vị linh mục bước thật nhanh tới trước, định vòng tay ôm lấy người phụ nữ khốn khổ. Vẻ đau đớn trong giọng nàng khiến ông muốn khóc.
Johanna không chấp nhận sự an ủi. Nàng lùi lại, siết chặt hai tay, “Đây là một trò lừa độc ác, phải không?”.
“Không đâu, phu nhân”, Kelmet lặp lại. “Tin tức đến từ Đức vua John. Có nhân chứng nữa. Nam tước đã chết.”
“Chúa cứu rỗi linh hồn nam tước”, vị linh mục ngâm.
Phu nhân Johanna òa khóc. Cả hai người đàn ông vội vã tiến tới trước. Nàng phản ứng bằng cách lùi về sau lần nữa. Họ đứng lại, không chắc phải làm gì ngoài việc đứng nhìn người phụ nữ đau khổ quay đi. Nàng khuỵu xuống, hai tay vòng quanh bụng và gập người lại như thể vừa nhận một cú đánh mạnh vào người.
Tiếng nức nở vỡ òa. Hai người đàn ông để nàng trút nỗi đau thương một hồi lâu trước khi nàng có thể lấy lại được chút ít kiểm soát và tiếng nức nở cũng nguôi dần, vị linh mục đặt tay lên vai nàng rồi thì thầm an ủi.
Nàng không gạt tay ông ra. MacKechnie nhận thấy vẻ nghiêm trang đường hoàng từ từ trở lại trên gương mặt nữ nam tước. Nàng hít một hơi thật sâu nhằm trấn tĩnh, lau mặt bằng chiếc khăn lanh ông đưa, rồi cho phép ông giúp nàng đứng dậy.
Nàng cúi đầu khi nói với họ, “Tôi muốn ở một mình lúc này. Tôi phải... cầu nguyện”.
Không chờ sự đồng thuận của họ, nàng quay lưng đi đến hàng ghế đầu tiên trong nhà nguyện, quỳ xuống và làm dấu Thánh, dấu hiệu bắt đầu cho lời cầu nguyện của nàng.
Vị linh mục ra ngoài trước. Kelmet theo sau ông. Anh vừa kéo cánh cửa đóng lại thì vị nữ chủ nhân gọi.
“Thề đi, Kelmet. Thề trên mộ của cha cậu rằng chồng ta thực sự đã chết.”
“Tôi thề, thưa phu nhân.”
Người quản sự đợi thêm chút nữa xem chủ nhân có muốn nói thêm lời nào không rồi mới kéo cánh cửa hoàn toàn khép kín.
Johanna chằm chằm nhìn bệ thờ hồi lâu. Tâm trí nàng hỗn loạn với nhiều ý nghĩ và cảm xúc đan xen.
Nàng choáng váng đến mức không thể suy nghĩ sáng suốt.
“Ta phải cầu nguyện”, nàng thì thầm. “Chồng ta đã chết. Ta phải cầu nguyện.”
Nàng nhắm mắt lại, đan hai tay vào nhau rồi bắt đầu lời cầu nguyện của mình. Đó là một bài kinh cầu đơn giản và trực tiếp xuất phát từ trái tim nàng.
“Tạ ơn Chúa, xin đội ơn Người, đội ơn Đấng tối cao!”