T
iếng khóc thút thít của Nhung Nhung khiến Linh Chí định thần lại.
Ảo ảnh đã biến mất hoàn toàn. Mặt trời đã lên, những cơn gió ôn hòa thổi qua bờ sông khô cạn, tất cả những giết chóc tàn sát, yêu hận oán trách đều tan biến theo màn đêm vừa qua.
“Ngươi khóc cái gì?” Linh Chí đứng dậy hỏi.
“Ta khóc cho Tiểu Thiện đáng thương.” Nhung Nhung sụt sịt mũi nói: “Còn có cả Yến Chân ấy nữa... Trông ông ấy chẳng có gì là hung ác cả. Ông ấy thật sự là tiền nhân của người sao?”
Thời Vũ trả lời thay Linh Chí: “Ngươi nên tự thương xót cho bản thân mình thì hơn. Tối qua kẻ nào suýt nữa đã bị nuốt sống, ngươi quên rồi sao?”
“Ta bị ai nuốt chứ?” Nhung Nhung giật bắn mình. Nàng chỉ nhớ được mình đã nhảy lên một tảng đá, sau đó mọi thứ chợt tối sầm lại, khi tỉnh lại thì đã ngồi bên bờ sông rồi.
Thời Vũ không nhìn bóng người đang dính đầy máu kia nữa, nói giọng mỉa mai: “Ta sai rồi, ngươi không đáng thương, người cứu ngươi mới đáng thương.”
“Nếu một ngày nào đó các ngươi gặp chuyện, ta cũng sẽ xả thân cứu giúp!” Nhung Nhung nói những lời sáo rỗng mà ngay cả bản thân cũng không tin. Nàng ta trước nay luôn sống dưới sự che chở của Thanh Dương, sau này khi xuống phàm trần thì việc gì cũng nhờ vào Thời Vũ, bây giờ lại ỷ lại vào Linh Chí, thế nên cho dù trời có sập xuống thì với nàng ta cũng không sao, vì đã có bọn họ chống đỡ rồi.
Nhung Nhung rất tự tin vào khả năng quan sát và vận may của mình, những người đã lọt vào tầm mắt của nàng thì chắc chắn đều là những nhân vật phi phàm. Bọn họ cái gì cũng tốt, duy chỉ có tính cách là chẳng ra làm sao.
Nàng đưa mũi ngửi mùi trên người mình rồi nhăn nhó hỏi tên người phàm dễ gần nhất: “Có phải ta hôi lắm không?”
“Chỉ là hôi hơn cá mắm một chút thôi, ta vừa nôn một lần nên cũng quen rồi.” Tạ Trân quả nhiên trả lời rất ôn hòa.
“Tất cả những cảnh tượng trong ảo ảnh của Thời Vũ đều là ký ức của trai tinh Tiểu Thiện, vậy thì ta hẳn đã từng gặp bà ta rồi, sao ta lại không nhớ chút gì thế nhỉ?” Nhung Nhung vỗ đầu, rồi chợt nhớ ra một chuyện, “Linh Chí, Tiểu Thiện vừa rồi đã nói thầm gì với người vậy?”
Thời Vũ lạnh lùng nói: “Tất nhiên là chuyện không muốn người ngoài biết rồi.”
“Hừ! Ta hỏi Linh Chí mà. Biết đâu ta giúp được thì sao?”
“Điều duy nhất mà ngươi giúp được chính là ngậm miệng lại.”
“Thời Vũ thối tha, ta không tin là ngươi không muốn biết đâu!”
“Bà ấy bảo ta quay lại Phúc Lộc trấn.” Linh Chí ngán ngẩm ngắt lời họ, càng ngán ngẩm hơn khi hắn nhận ra mình đang dần quen với sự ồn ào này.
“Là Phúc Lộc trấn mà chúng ta vừa rời khỏi ấy à? Tại sao chứ?”
Linh Chí nhớ lại cảnh tượng ban nãy, điều mà trai tinh đã nói với hắn chính là: “Ta biết ngươi muốn tìm điều gì. Ngươi giết ta đi, sau đó quay về vùng đất bẩn thỉu của đám người phàm bên kia núi, đó mới là nơi bắt nguồn mọi chuyện. Hãy nhớ kỹ, những gì mà ngươi nhìn thấy đều chỉ là hư ảo. Đừng giống như ta, né tránh được kiếp nạn trời định nhưng lại không né tránh được sự lừa gạt.”
Hắn nói lại câu nói của trai tinh, nhưng bỏ qua câu nói cuối cùng.
“Thứ mà người muốn tìm không phải Triều Tịch Thủy sao? Sao lại trở thành Phúc Lộc trấn rồi?” Nhung Nhung càng nghe càng thấy khó hiểu.
Thời Vũ thì đã hiểu được ý định của Linh Chí. “Chủ nhân vốn tưởng sẽ tìm được thứ ấy ở Triều Tịch Thủy.”
Linh Chí không phủ nhận.
Thời Vũ nói đúng. Thật ra thứ mà Linh Chí đang tìm là mảnh Phủ Sinh và cách để ghép các mảnh vỡ lại.
Từ thuở hỗn độn sơ khai đến nay, Cô Mộ Sơn chính là thông đạo nối giữa thiên với địa, giữa người và thần, ở đó có cất giữ bảo bối trấn thủ phổ độ chúng sinh vạn vật, thế nên được tôn là Thánh Sơn. Phủ Sinh là tâm núi của Cô Mộ Sơn, tất cả sức mạnh đều bắt nguồn từ đó. Trận chiến của các thần vào một vạn tám ngàn năm trước tương truyền là bắt nguồn từ việc phân chia sức mạnh của Phủ Sinh. Trận chiến này đã làm thiệt mạng vô số thiên thần, nhưng cuối cùng chỉ khiến Cô Mộ Sơn sụp đổ, tâm núi vỡ nát. Sau khi Phủ Sinh không còn nguyên vẹn thì Thanh Linh khí bắt đầu tan đi, các thiên thần cũng lực bất tòng tâm, thời đại của thần linh dần dần kết thúc.
Lồng giam các nguyên linh mà Bạch Ô thị đang trấn thủ tuy gọi là Phủ Sinh Tháp, nhưng thật ra chỉ được tạo thành từ hai mảnh Phủ Sinh mà bên thắng cuộc sau trận chiến Cô Mộ Sơn có được. Các mảnh còn lại không rõ tung tích, ngay cả cách ghép các mảnh lại cũng không ai biết được.
Họ đã dùng hai mảnh này để giam cầm nguyên linh của các nghịch thần cho đến tận bây giờ. Phủ Sinh sau khi bị vỡ thì sức mạnh không còn như trước, oán khí trong tháp lại ngày một tăng lên, đến ngay cả Bất Tận Thiên Hỏa vì mất đi thiên địa linh khí nên cũng không còn được “bất tận” nữa. Bạch Ô thị khổ sở cầm cự, một khi Thiên Hỏa bị tắt hoặc mảnh vỡ có tổn hại thì hậu quả sẽ khôn lường.
Nhưng điều đau buồn hơn chính là, những đại thần đã từng trải qua trận chiến Cô Mộ Sơn đều lần lượt quy tịch, Phủ Sinh Tháp và Bạch Ô thị hệt như đã bị lãng quên ở Tiểu Thương Sơn, trên thế gian còn mấy ai hiểu được nỗi khổ của Bạch Ô? Thanh Dương quân từng là chỗ dựa cuối cùng của Bạch Ô thị, sau khi Hạo Anh mất thì hai lần Phủ Sinh Tháp xuất hiện vết nứt đều phải nhờ ngài ra tay tương trợ, nhưng vì việc này mà ngài bị hao tổn nguyên khí, khoảng thời gian phải bế quan tĩnh dưỡng càng lúc càng dài.
Bạch Ô thị bị cô lập không còn nơi nương tựa, chỉ có tìm ra các mảnh Phủ Sinh còn lại thì mới có đường sống. Nhưng khi Thiên Đế chưa về Quy Khư đã dốc hết sức tìm các mảnh vỡ mà vẫn không có chút thu hoạch gì, ngay cả những tiên nhân của Bạch Ô vốn có quan hệ mật thiết với Phủ Sinh cũng không cảm nhận được sự tồn tại của các mảnh vỡ.
Từ lúc đại chưởng chúc đời trước là Lễ Phong tiếp quản Bạch Ô đến nay thì tộc nhân đã không còn kỳ vọng gì vào bên ngoài nữa. Tiêu diệt cả tộc Chấn Mông chính là lần thay trời hành hình cuối cùng của Bạch Ô, từ đó về sau họ đoạn tuyệt qua lại với bên ngoài, cất Lôi Việt đi, không cho ai được ảo tưởng về mảnh Phủ Sinh nữa, chuyển sang tăng cường kiểm soát Liệu Nô và Thiên Hỏa, dốc hết toàn lực của tộc ra đấu với oán khí trong tháp.
Lần đầu tiên khi nghe nói đến trận chiến ở Cô Mộ Sơn và mảnh Phủ Sinh, Linh Chí đã hỏi Ôn Kỳ, tại sao lại không tiếp tục đi tìm. Ôn Kỳ trả lời, có lẽ mấy mảnh Phủ Sinh còn lại cũng đã vỡ tan theo ngọn núi, Lễ Phong tiền bối không muốn cứ mang mãi trong mình những kỳ vọng không đáng, vì Bạch Ô không còn thời gian chờ đợi nữa.
Linh Chí trước nay luôn thẳng thắn với Ôn Kỳ, thế nên lại truy hỏi: “Đại chấp sự, người có tin những mảnh Phủ Sinh khác vẫn còn tồn tại không?”
Ôn Kỳ đáp: “Ta tin theo Liên Phách.”
Trong lòng Liên Phách, tin hay không không quan trọng, bà chỉ quan tâm việc đó có tác dụng hay không. Linh Chí thầm nghĩ, nếu gạt đi thân phận của mình, Ôn Kỳ có khi sẽ đưa ra câu trả lời khác, nói không chừng ông cũng từng rất tin, nếu không ông đã không chống lại lệnh của Lễ Phong tiền bối mà ra ngoài lang bạt nhiều năm như vậy. Linh Chí và Sương Xung đều từng nghe vài tin đồn trong tộc, rằng Ôn Kỳ từng là người được kỳ vọng sẽ kế nghiệp Lễ Phong, nhưng vì ông đã làm trái lời bà nên chức đại chưởng chúc cuối cùng mới rơi vào tay Liên Phách, một người có cung cách hành xử giống hệt Lễ Phong.
Ôn Kỳ sau khi nhận ra Linh Chí quá quan tâm đến mảnh Phủ Sinh thì tuyệt nhiên không nhắc đến nó nữa. Song lúc đó Linh Chí đã nhìn thấy bức họa của Hạo Anh, luôn tin rằng bức tranh ấy có ẩn ý. Thay vì cứ kẹt ở Tiểu Thương Sơn này cùng chôn mình với Phủ Sinh Tháp đến chết thì chi bằng cứ có bệnh mà vái tứ phương đi.
Linh Chí lén rời khỏi Tiểu Thương Sơn, còn chưa ra khỏi Lương Phong Ao thì đã bị Ôn Kỳ ngăn lại. Ôn Kỳ bảo hắn quay về, nhưng Linh Chí không chịu cúi đầu. Hắn nói với Ôn Kỳ, cho dù lần này không thành công, có giam hắn sáu mươi năm, thậm chí là sáu trăm năm sau, thì sau khi được thả ra hắn vẫn sẽ trốn tiếp, nhất quyết không cam tâm.
Ôn Kỳ lúc ấy đã bật cười. Linh Chí chưa bao giờ cãi lại mệnh lệnh của Liên Phách, nhưng sự cố chấp của hắn quả thực quá giống Liên Phách, mà thật ra người hắn giống đâu chỉ có Liên Phách.
“Nhân lúc còn có cơ hội, ra ngoài một chuyến cũng được. Nhân gian rất náo nhiệt, ngoài trách nhiệm bên mình thì những sinh linh ở đó còn sống vì mục đích khác. Thế sự tốt xấu lẫn lộn, thiện ác giao hòa, lúc tụ lúc tán, thế nên mới sinh ra yêu hận, được mất, buồn vui. Bản lĩnh của con đủ để tự bảo vệ bản thân, không phải lo lắng, trời không tuyệt đường người, chỉ cần nghe theo trái tim là được. Con nên tận mắt đi ngắm sen ở Giang Nam, ngắm tuyết ở Bắc U, rượu ở Trường An Quỷ Thị cũng rất ngon đấy.” Đó là những lời dặn dò Ôn Kỳ dành cho Linh Chí trước khi từ biệt.
Linh Chí chỉ mới được uống rượu ở Quỷ Thị, còn những thứ còn lại thì vẫn chưa có cơ hội trải nghiệm. Không biết có phải do số mệnh an bài hay không mà chính chén rượu đó lại là thứ dẫn hắn tìm được đến Triều Tịch Thủy!
Thứ mà Hạo Anh trước khi lao mình vào Bất Tận Thiên Hỏa cứ mãi không quên, Linh Chí luôn cho rằng đó hẳn phải là một vật rất quan trọng đối với Bạch Ô tộc, ngoài mảnh Phủ Sinh ra thì không thể là gì khác được. Nhưng đến bây giờ hắn mới biết mình đúng là quá ngây thơ. Trong mắt một người sắp phát điên như Hạo Anh thì trọng trách ở Phủ Sinh Tháp hay sự tồn vong của Bạch Ô tộc hoàn toàn chẳng còn liên quan gì đến bà nữa. Thứ cuối cùng bà muốn tìm lại chẳng qua chỉ là một khoảng hồi ức đặc biệt mà thôi.
Rốt cuộc Hạo Anh có biết được có một mảnh Phủ Sinh đã bị trai tinh Tiểu Thiện nuốt vào bụng hay không, Linh Chí cũng không rõ nữa, hắn chỉ đoán có lẽ bà không biết điều ấy, vì đến ngay cả Thanh Dương quân cũng không biết về bí mật này. Hạo Anh đã mất, không ai còn biết được tâm tư suy nghĩ của bà, cũng may sự cố chấp của Linh Chí đã không uổng công, mảnh Phủ Sinh thật sự còn tồn tại ở nhân gian, chỉ là hắn đã đến chậm mất một trăm năm thôi.
Chỉ tiếc cho một báu vật quý giá nhất thiên địa như mảnh Phủ Sinh, nếu nó đến tay Thanh Dương quân thì có thể cứu vớt thiên địa, đến tay Bạch Ô thì có thể tu sửa Phủ Sinh Tháp, nhưng cuối cùng lại rơi vào tay của một Liệu Nô, e sẽ khó tránh khỏi một phen sóng gió. Vậy mà trong suốt một vạn tám ngàn năm sở hữu nó, Tiểu Thiện cũng chỉ mượn sức mạnh của nó để ẩn mình, âm thầm chờ đợi một nguyên linh mãi mãi không thuộc về mình.
Trong tay Linh Chí vẫn còn cầm một mảnh vỏ trai, trông nó giống như một viên đá đã bị thiêu rụi, nhưng trong ánh đen vẫn có chút ánh sáng lấp lánh. Hắn dùng bàn tay cầm kiếm nhiều năm của mình nhẹ nhàng mân mê vỏ trai. Hắn vẫn chưa hiểu được “tình là gì”, cũng vẫn chưa hiểu được tại sao “họ lại làm như vậy”, chỉ cảm thấy lồng ngực của mình như có một móng vuốt đã bị bào đi vẻ sắc nhọn khẽ cựa vào, không đau đớn nhưng đủ để khiến hắn xao động.
“Có cần chôn cất không?” Tạ Trân vỗ nhẹ lên vai hắn.
“Gì chứ?” Linh Chí không hiểu.
“Theo quan niệm của người phàm bọn ta, người chết cần được chôn cất mới có thể yên nghỉ, siêu thoát.”
Linh Chí buông tay ra, vụn vỏ trai rơi xuống khe hở của đống đá bên dưới.
“Không cần, bà ấy đã được giải thoát rồi.”
Đất cát không là nơi mà trai tinh thuộc về, cho dù có ở đâu thì bà và Yến Chân cũng không bao giờ được gặp lại nhau.
“Vậy còn bọn chúng thì sao?” Tạ Trân hất cằm chỉ về phía xác mấy con Chuột Hỏa Cán đang nằm la liệt bên bờ sông, giả vờ vu vơ nói: “Nếu bị chó hoang tha đi khắp nơi sẽ khiến người ta sợ chết khiếp đấy.”
Đầu của con “chuột đầu đàn” kia nằm cách chân của Linh Chí không xa, máu của nó đã khô lại, nhưng hai mắt vẫn mở trừng trừng.
Linh Chí đốt cháy gỗ Bất Tận rồi thiêu hết số thi thể ấy. Trong ánh lửa chợt hiện lên một đôi mắt, đôi mắt đó từng nhìn hắn đầy vẻ thuần phục, đôi mắt ấy có màu hổ phách, hắn vẫn còn nhớ rất rõ.
“Nhìn kìa, vừa rồi có một con sẻ bay ngang qua đấy.” Tạ Trân chỉ lên bầu trời, ngạc nhiên kêu lên.
“Ở đâu, ở đâu thế?” Nhung Nhung ngơ ngác nghểnh cổ nhìn, tuy rằng cũng không hiểu một con chim thì có gì mà đáng xem.
Thời Vũ hóa thành cú tuyết, bay xung quanh Linh Chí. Hắn vốn định đậu lên vai Linh Chí, nhưng chợt nhớ ra Tạ Trân không thấy được hình dạng này của hắn, hắn sẽ chỉ thấy cảnh đường đường một nam tử mà lại ngồi lên vai của Linh Chí, cảnh tượng ấy thật sự là quá đáng sợ, hắn không dám nghĩ nữa, đành phải quay đầu bay vào cánh rừng trong Ô Vỹ Lĩnh.
“Ơ, sao Thời Vũ cũng bay đi rồi?” Tạ Trân có hơi sợ sệt, “Lần trước hắn cũng bay lên như vậy rồi lao đến cắn ta một cái...”
Nhung Nhung tất nhiên không muốn bỏ lỡ chuyện kỳ lạ này, vội vàng truy hỏi đến cùng. Tạ Trân giải thích đôi lời với nàng, Nhung Nhung cười đến mức lộ ra cả đôi tai lông nhung của mình, chuyện này chắc chắn sẽ đủ cho nàng ta chọc ghẹo Thời Vũ tận năm trăm năm.
Linh Chí cũng hơi nhếch mép. Hắn không phải không hiểu thiện ý của Tạ Trân, quay đầu lại mỉm cười với bằng hữu.
Tạ Trân ngoài mặt có vẻ thoải mái, nhưng Linh Chí phát hiện ra khí sắc của hắn không ổn, rõ ràng đám chuột Hỏa Cán đã đi xa rồi nhưng trán hắn vẫn cứ đầm đìa mồ hôi.
“Có phải ngươi lại đau đầu rồi không?” Linh Chí nghi hoặc. Từ sau ngày Tết Thượng Tỵ lần trước khi hắn dùng lực Bạch Ô giúp giảm đau đầu cho Tạ Trân thì cơn đau đầu của hắn dường như không tái phát thường xuyên nữa.
“Cũng không phải, chỉ là ta cảm thấy cả người cứ choáng váng.” Tạ Trân ôm trán nói, “Chắc là do rượu uống từ đêm hôm trước còn chưa tỉnh, về ngủ một giấc là khỏi thôi.”
Nhung Nhung cười ha hả: “Chắc chắn là tác dụng của Tư Vô Tà quá mạnh rồi!”
“Lần sau ta sẽ đưa các ngươi đi nếm thử Nguyệt Quế Hương do nhà ta ủ, màu rượu nhìn giống như, giống như...”
“Giống như cái gì? Không bịa nổi rồi chứ gì?” Nhung Nhung thè lưỡi chọc Tạ Trân, đúng lúc ấy thì thấy cả người hắn đổ gục xuống.