T
ôi đã kể cho các bạn nghe câu chuyện về hôn lễ cổ tích của Gene và Helen Edwards. Còn một câu chuyện khác xảy ra trong chuyến đi đến thành phố New York năm đó của vợ chồng tôi. Khi chúng tôi đến nơi, Tiến sĩ Laubach mời chúng tôi dùng bữa tối cùng ông vào đêm trước ngày cưới. Vợ chồng tôi đã hết sức ngỡ ngàng. Ông là một trong những người nổi tiếng và được kính trọng nhất thế giới. Ông là một nhà truyền giáo và cũng là người phát triển chương trình xóa mù chữ trên toàn thế giới. Năm 1984, ông trở thành nhà truyền giáo người Mỹ duy nhất được vinh dự in hình lên tem thư Hoa Kỳ. Và vợ chồng tôi sắp được dùng bữa tối cùng ông.
Sau bữa tối, Tiến sĩ Laubach mời vợ chồng tôi về nhà. Điều tôi nhớ nhất khi bước vào căn nhà chính là nhìn thấy đủ loại giải thưởng mà ông nhận được. Trong số đó có một tấm bảng khắc vài lời đơn giản: “Frank Laubach, Người Đàn Ông của Năm”.
Tôi không thể ngờ được những thay đổi xảy ra với cuộc đời mình vào buổi tối hôm đó. Khi ấy tôi là một chàng trai trẻ tràn đầy nhiệt huyết nhưng chỉ có duy nhất một tham vọng trong đời. Một tham vọng khiêm tốn thôi, đó là dành trọn cuộc đời mình để truyền bá phúc âm cho tất cả mọi người trên thế giới.
Một chuyện xảy ra tại nhà của Tiến sĩ Laubach vào tối hôm ấy đã chuyển hướng cuộc đời tôi. Lúc sắp ra về, tôi nhờ Tiến sĩ Laubach đặt tay lên Helen và tôi để cầu nguyện cho chúng tôi. Ông ngồi trên ghế, còn vợ chồng tôi quỳ trước mặt ông.
Chuyện xảy ra tiếp theo hơi khó để giải thích thành lời.
Tôi nghe ông nói. Tôi chưa từng được nghe những lời nào như vậy.
Tôi đã vô thức quen với cách cầu nguyện mang tính chiếu lệ của các Ki-tô hữu trong thời đại của mình. Nhưng những gì tôi đang nghe không giống như vậy, mà lại như ai đó đang trò chuyện với một người bạn rất gần gũi và thân thiết. Lời cầu nguyện này không kiểu cách; thật ra nó không có vẻ gì là lời cầu nguyện. Đây rõ ràng là những lời mà một người dành cho người bạn vô cùng thân thiết.
Tôi mở mắt ra. Và khi tôi nói: “Tôi mở mắt ra”, bạn có thể hiểu câu đó theo hai tầng nghĩa.
Tôi nhìn thấy Frank Laubach đang mở mắt cầu nguyện, và ông ngước nhìn lên trời theo cách mà ai nhìn thấy thì cũng tin chắc là ông đang nhìn Thánh nhan Chúa.
Tôi đã quỳ ở đó, hai bàn tay tôi đan chặt vào nhau, toàn thân căng cứng, và tôi đang thành tâm cầu nguyện. Mặt khác, người đàn ông trước mặt tôi và những lời tôi nghe không giống với bất kỳ điều gì tôi từng biết ở bất kỳ phương diện hay thời không nào. Tại đó, khi quỳ trước Tiến sĩ Laubach và được ông đặt tay lên người, tôi lần đầu cảm thấy mình kết nối với Thiên Chúa theo một cách hoàn toàn khác.
Đó là lúc đời sống tâm linh của tôi bắt đầu thay đổi. Đó cũng là lúc tôi dần hiểu ra đôi chút về thế giới vô hình và những thứ mang ý nghĩa tâm linh.
Nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó.
Nhiều năm sau, khi gần bước sang tuổi tứ tuần, tôi nhấc điện thoại lên và gọi cho Bob Laubach - con trai của Tiến sĩ Frank Laubach. Lúc đó Tiến sĩ Laubach đã về với Cha trên trời. Tôi hỏi Bob liệu tôi có thể ghép nội dung của một quyển sách của cha anh - một quyển sách nhỏ không còn xuất bản và đã hết hạn bản quyền - vào một quyển sách khác không. Cả hai quyển sách đều quá mỏng nên khó bán chạy. Chúng giống như tập sách mỏng dùng để giới thiệu thông tin hơn là một quyển sách đúng nghĩa.
Quyển đầu tiên là một chuyên luận bốn trăm năm tuổi mang tựa Practicing the Presence of God (tạm dịch: Tập Sống Trong Sự Hiện Diện Của Chúa).
Quyển sách của Tiến sĩ Laubach viết về việc tuân giữ lời răn của Chúa để tập sống trước Thánh nhan Chúa. Nội dung của hai quyển này rất hợp với nhau.
Bob chấp thuận đề nghị của tôi, vì vậy tôi gộp hai quyển lại thành một quyển sách có tựa Practicing His Presence (tạm dịch: Tập Sống Trước Thánh Nhan Chúa). Tôi hồi hộp không biết độc giả sẽ đón nhận quyển sách như thế nào. Tôi đã viết lại nhiều nội dung của cả hai quyển, trong đó tôi cập nhật các thông tin và giải thích thêm những điểm cần thiết. Tôi đã sử dụng tác phẩm của hai trong số những Ki-tô hữu mộ đạo nhất trong lịch sử giáo hội - đó là Thầy Lawrence và Frank Laubach - và biến tác phẩm của họ thành một quyển sách có hệ thống và dễ đọc hơn để phù hợp với độc giả ngày nay. Vì vậy nội dung sách cũng dễ phổ biến đến nhiều người hơn.
Quá trình tôi “hiện đại hóa” quyển sách ấy đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi. Tôi nhận thức được rằng chúng ta hoàn toàn có thể có được mối quan hệ cá nhân sâu sắc và thân mật với Đức Giê-su Ki-tô, và đó là mối quan hệ quan trọng hơn bất kỳ điều gì khác trên đời.
Và mọi chuyện bắt đầu vào năm 1954 tại một căn hộ ở thành phố New York, khi đôi mắt tâm hồn của tôi được mở ra trong lúc Tiến sĩ Frank Laubach ngước mắt lên trời cầu nguyện. Điều gì đó đã nảy nở trong tôi vào đêm ông cầu nguyện cho chúng tôi.
Giờ đây tôi đã bằng tuổi của Frank Laubach khi ông tham dự lễ cưới của vợ chồng tôi.
Có gì đó trong quyển sách Thầy Lawrence viết cách đây gần bốn trăm năm và quyển sách mà Tiến sĩ Laubach viết cách đây gần một trăm năm đã được ươm mầm và nảy nở trong sâu thẳm tâm hồn tôi.
Tôi muốn gửi một lời cảm ơn vượt thời gian đến hai vị: “Cảm ơn những vị đạo hữu đáng kính của tôi, vì đã gieo vào lòng tôi những hạt giống quý giá khi tôi còn trẻ”.