Meg, Katie và tôi ngồi đong đưa trên chiếc ghế xích đu trước hiên nhà Meg. Tôi và Katie đang chăm chú nghe Meg kể về cuộc phẫu thuật tim mà bạn ấy sắp phải đối mặt. Khi cha của Meg gọi bạn vào nhà, hai chúng tôi siết chặt tay Meg và thì thầm: “Đừng sợ gì nhé! Rồi bạn sẽ chóng khỏi thôi. Hai đứa mình sẽ cầu nguyện thật nhiều cho bạn!”.
Chúng tôi là bạn thân từ khi học mẫu giáo, rồi đến cấp I, cấp II. Mỗi ngày, chúng tôi đều rủ nhau đi học và tan trường lại cùng nhau ra về. Trường học cách nhà chúng tôi không xa lắm nên cha mẹ cũng không cần đưa đón chúng tôi. Tình bạn của chúng tôi khắng khít từ những ngày thơ ấu ấy.
Trong nhóm “tam cô nương”, tôi sinh đầu năm, lớn nhất nên làm chị hai, rồi đến Katie và út là Meg. Meg nhỏ nhắn và đáng yêu như một chú mèo con. Chưa bao giờ chúng tôi có ý nghĩ rằng nhóm sẽ thiếu mất một người. Để cho tình bạn mãi dài lâu, chúng tôi giao ước với nhau, nếu ba mẹ đứa nào có ý định chuyển nhà đi thì bằng mọi giá chúng tôi phải cố thuyết phục họ ở lại. Ba chúng tôi sẽ mãi ở cạnh nhau cho tới lúc phải chống gậy đi. Lúc đó, ba đứa sẽ tổ chức một cuộc thi xem ai là người chống gậy đi nhanh nhất.
Nhưng giờ đây, nhóm “tam cô nương” đã thiếu mất một người dù chẳng có bố mẹ ai chuyển nhà đi cả. Chúng tôi vĩnh viễn không còn cơ hội thi xem ai là người chống gậy đi nhanh nhất... Meg cuối cùng đã không thể chống chọi được với căn bệnh.
Trên đường đến nhà tang lễ, nghĩ đến việc hàng ngày không còn được nhìn thấy khuôn mặt đáng yêu của Meg nữa, tôi cảm thấy cuộc đời sao quá bất công. Dù tự an ủi rằng, con người ai rồi cũng phải từ giã cõi đời, nhưng khi nhìn cơ thể nhỏ nhắn của Meg nằm bất động, tôi lại không cầm được nước mắt. Tôi hiểu rằng, từ nay mình đã vĩnh viễn mất đi một người bạn thân thiết.
Vài tuần sau, vào một buổi tối, Katie và tôi cùng đi dạo với nhau. Khi đi ngang qua nhà Meg, bất chợt chúng tôi dừng chân trước hiên nhà. Căn nhà khóa chặt cửa, yên tĩnh đến mức có thể nghe được tiếng kêu của đám côn trùng xung quanh. Katie và tôi ngồi lên chiếc ghế xích đu ngoài hiên. Mỗi đứa ngồi một đầu ghế và dành cho Meg một khoảng trống ở giữa. Và chúng tôi hát lại bài hát thường ngày ba đứa vẫn nghêu ngao trên chiếc xích đu, nhưng hôm nay đã thiếu mất một người, bài hát trở nên lạc điệu và có cả nước mắt. Cửa nhà chợt mở, mẹ của Meg đã đứng đó tự bao giờ. Mới mấy tuần không gặp, trông cô ấy đã già đi rất nhiều so với tuổi bốn mươi. Cô ngồi vào khoảng trống giữa chiếc xích đu rồi ôm lấy tôi và Katie: “Các cháu biết không, Meg rất thích ngồi xích đu, con bé đã ao ước có một chiếc xích đu từ lâu rồi. Nhưng đến khi Meg bị bệnh, chiếc xích đu này mới được mang về. Và có lần Meg đã ngủ quên trên đó, chú phải bồng Meg vào nhà. Lúc Meg còn sống, cô rất hạnh phúc khi nhìn thấy các cháu thường đến chơi với Meg và ngồi ở chiếc ghế xích đu này. Vì vậy, cô mong các cháu đừng bao giờ bỏ quên chiếc ghế này nhé...”.
Và cho đến tận hôm nay, chiếc ghế xích đu ấy vẫn mãi gắn bó với chúng tôi và gắn bó với những kỷ niệm không thể nào quên về cô bạn Meg nhỏ nhắn, đáng yêu...