Anh tới thăm Capitoline và Villa Borghese, khám phá mọi ngóc ngách của quảng trường và học sáu tiết tiếng Ý từ một ông già sống cùng khu, ông ta đã treo biển gia sư trước cửa sổ và Tom đã báo tên giả cho ông ta. Sau bài học thứ sáu, anh nghĩ rằng trình độ tiếng Ý của mình đã ngang bằng Dickie. Anh nhớ nguyên văn vài câu Dickie có lần nói mà giờ anh biết rõ là sai. Ví dụ, “Ho paura che non c’è arrivata, Giorgio,” một tối nọ ở Giorgio, khi họ đợi Marge và cô ta đến muộn. Đáng ra phải là “sia arrivata” ở thể giả định sau khi biểu lộ nỗi sợ. Dickie chưa từng dùng thể giả định nhiều như đáng nhẽ nên dùng trong tiếng Ý. Tom cũng cố tình không học cách dùng đúng thể giả định.
Anh mua vải nhung đỏ sẫm làm rèm phòng khách, vì tấm rèm đi kèm trong nhà khiến anh khó chịu. Khi anh hỏi bà Buffi, vợ của người quản lý tòa nhà, liệu bà ta có biết cô thợ may nào có thể may chúng không thì bà ta đã tự tiến cử mình.
Giá của bà ta là hai nghìn lia, hơn ba đô. Tom ép bà ta nhận năm nghìn. Anh mua thêm vài món đồ nhỏ để trang hoàng cho căn hộ của mình, dù anh chưa từng mời ai lên – chỉ trừ một chàng trai hấp dẫn nhưng không thông minh cho lắm, một người Mỹ mà anh đã gặp ở quán cà phê Greco khi anh ta hỏi anh đường từ đó tới khách sạn Excelsior. Khách sạn Excelsior nằm trên đường về nhà Tom, nên anh đã mời anh ta lên uống nước. Tom chỉ muốn gây ấn tượng với anh ta một tiếng đồng hồ rồi tạm biệt anh ta mãi mãi, một việc mà anh đã thực hiện, sau khi mời anh ta loại brandy ngon nhất của mình và dẫn đi thăm thú cả căn hộ trong lúc anh diễn thuyết về khoái lạc trong cuộc sống ở Rome. Anh ta sẽ tới Munich ngày hôm sau.
Tom cẩn trọng tránh né mọi cư dân Mỹ ở Rome, những người có thể mong anh tới dự tiệc của họ và mời họ về nhà anh để đáp lễ, dù anh rất thích tán gẫu với cả người Mỹ lẫn người Ý ở quán cà phê Greco và trong nhà hàng sinh viên ở Via Margutta. Anh chỉ báo tên mình cho một họa sĩ người Ý tên là Carlino, người anh đã gặp trong quán trọ ở Via Margutta và kể với anh ta rằng anh cũng vẽ và đang học từ một họa sĩ có tên là Di Massimo. Nếu cảnh sát có điều tra các hoạt động của Dickie ở Rome, có thể là rất lâu sau khi anh ta đã biến mất và anh trở lại làm Tom Ripley, có thể trông chờ người họa sĩ Ý này thuật lại rằng ông ta biết Dickie Greenleaf đã học vẽ ở Rome trong tháng Một. Carlino chưa từng nghe tới Di Massimo, nhưng Tom miêu tả người này sống động đến mức Carlino sẽ chẳng bao giờ quên được.
Anh cảm thấy chỉ có một mình, nhưng lại chẳng hề cô đơn. Nó rất giống cảm giác trong đêm Giáng sinh ở Paris, như thể tất cả mọi người đang quan sát anh, như thể anh có một nhóm khán giả bao gồm toàn bộ thế giới này, một cảm giác khiến anh phải cố gắng hết sức mình, vì chỉ gây ra một sai lầm thôi cũng là thảm họa. Nhưng anh cảm thấy tuyệt đối tự tin rằng mình sẽ không phạm sai lầm. Nó đem đến một bầu không khí thuần khiết ngọt ngào và độc nhất cho sự tồn tại của anh. Tom nghĩ đó hẳn là cảm giác của một diễn viên tài ba khi đóng một vai quan trọng trên sân khấu, với niềm tin rằng không ai có thể thể hiện vai diễn đó tốt hơn anh ta. Anh là chính mình nhưng cũng không phải là chính mình. Anh cảm thấy vô tội và tự do, bất chấp sự thật là anh kiểm soát mọi hành động của mình một cách có tính toán. Nhưng anh không còn cảm thấy mệt mỏi sau vài giờ đóng vai như hồi đầu nữa. Anh không cần thư giãn khi ở riêng. Giờ đây, kể từ khoảnh khắc anh ra khỏi giường và đánh răng, anh là Dickie, chải răng với khuỷu tay phải chĩa ra, Dickie xoay trứng trên thìa để cắn miếng cuối cùng. Dickie luôn luôn cất lại cái cà vạt đầu tiên mà anh ta lấy ra khỏi giá và chọn cái thứ hai. Anh thậm chí còn tạo ra một bức vẽ theo phong cách của Dickie.
Đến cuối tháng Một, Tom nghĩ rằng Fausto hẳn đã đến và thậm chí còn đi khỏi Rome rồi, dù những bức thư gần đây nhất của Marge không nhắc đến tên anh ta. Cô ta viết thư, qua American Express, khoảng một lần mỗi tuần. Cô ta hỏi xem anh có cần tất hay khăn choàng không, vì ngoài việc hoàn thành cuốn sách, cô ta có vô vàn thời gian để đan lát.
Cô ta luôn chèn thêm vài mẩu chuyện vui về một người họ biết trong làng, chỉ để Dickie không nghĩ rằng cô ta đang dốc hết ruột gan cho anh ta, dù điều đó đã quá hiển nhiên. Cô ta dĩ nhiên cũng sẽ không quay về Mỹ trong tháng Hai mà không tuyệt vọng cố gặp mặt anh trực tiếp trước, Tom nghĩ, do đó mới có những bức thư dài dằng dặc, những đôi tất và khăn choàng tự đan mà Tom biết sắp được gửi tới, dù cho anh chẳng hề hồi âm. Các bức thư của cô ta khiến anh căm ghét. Anh còn chẳng muốn chạm vào chúng và sau khi đã đọc lướt qua nội dung, anh xé thư và vứt vào sọt rác ngay.
Cuối cùng anh viết:
Anh đã từ bỏ ý định có một căn hộ ở Rome trong khoảng thời gian này. Di Massimo sẽ tới Sicily vài tháng, anh có thể sẽ đi cùng ông ấy và từ đấy đi tiếp tới một chỗ nào đó. Kế hoạch của anh còn mơ hồ, nhưng chúng có ưu điểm là tự do và hợp với tâm trạng hiện thời của anh.
Đừng gửi thêm tất cho anh nữa, Marge. Anh thật sự không cần thứ gì hết. Chúc em nhiều may mắn với “Mongibello.”
Anh có một tấm vé tới Majorca – đi tàu tới Naples, rồi đi thuyền từ Naples tới Palma qua đêm 31 tháng 1 và mùng 1 tháng 2. Anh đã mua hai cái vali mới của Gucci, cửa hàng bán đồ da xịn nhất ở Rome: một chiếc vali rộng và mềm từ da linh dương, cái còn lại là một chiếc túi bằng vải bạt màu nâu sậm gọn gàng có quai da nâu. Cả hai đều có tên viết tắt của Dickie. Anh đã vứt cái vali cũ nát hơn trong hai cái vali của anh đi, cái còn lại thì anh giữ trong một cái tủ quần áo ở căn hộ của mình, dùng để chất đầy quần áo của chính anh, phòng khi khẩn cấp.
Nhưng Tom không nghĩ sẽ có tình huống như thế xảy ra. Con thuyền máy ở San Remo chưa từng được tìm thấy. Ngày nào Tom cũng đọc báo để tìm bài viết về nó.
Một sáng trong khi Tom đang xếp đồ vào vali thì chuông cửa nhà anh vang lên. Anh đoán đó là một người vận động quyên góp hoặc ai đó nhầm nhà. Anh không có tên trên chuông cửa và cũng đã bảo người quản lý là anh không muốn đính tên lên cửa vì không muốn mọi người ghé qua chơi. Nó réo lên lần thứ hai và Tom vẫn lờ tịt đi, tiếp tục quá trình xếp đồ của mình. Anh thích làm việc này và dành rất nhiều thời gian cho nó, trọn một đến hai ngày, âu yếm cất quần áo của Dickie vào vali, thỉnh thoảng lại thử một cái áo sơ mi đẹp đẽ hoặc một cái áo khoác trước gương. Anh đang đứng trước một tấm gương, cài một cái áo sơ mi thể thao có họa tiết cá ngựa màu xanh dương và trắng của Dickie mà anh chưa từng mặc thì có tiếng gõ cửa vang lên.
Anh thoáng nghĩ đó có thể là Fausto, đúng là phong cách của anh ta khi săn tìm anh ở Rome và cố làm anh bất ngờ. Thật là ngớ ngẩn, anh tự nhủ. Nhưng tay anh ướt đẫm mồ hôi khi ra cửa. Anh cảm thấy yếu ớt và sự vô lý của trạng thái yếu ớt đấy cộng với mối nguy bị ngất xỉu rồi có người phát hiện ra anh nằm sõng soài trên sàn, khiến anh kéo giật cửa bằng cả hai tay, dù anh chỉ mở ra có vài phân.
“Xin chào!” Một giọng Mỹ vang lên từ hành lang tranh tối tranh sáng. “Dickie à? Freddie đây!”
Tom lùi lại một bước, mở cửa ra. “Anh ấy – Anh không vào à? Anh ấy không ở đây giờ này. Chắc một lát nữa anh ấy sẽ về ngay thôi.”
Freddie Miles bước vào trong, nhìn quanh quất. Khuôn mặt đầy tàn nhang xấu xí của anh ta dòm ngó đủ mọi chỗ. Làm thế quái nào mà anh ta tìm ra chỗ này chứ, Tom băn khoăn. Anh nhanh chóng tuột nhẫn ra và đút chúng vào túi áo. Còn gì nữa nhỉ? Anh liếc nhìn quanh phòng.
“Anh đang ở với cậu ấy à?” Freddie hỏi với ánh mắt trợn trừng trừng khiến khuôn mặt anh ta trông khá ngớ ngẩn và hơi đáng sợ.
“À, không. Tôi chỉ ở đây vài tiếng thôi,” Tom nói, thong thả cởi cái áo cá ngựa ra. Anh còn mặc một chiếc áo khác bên dưới. “Dickie ra ngoài ăn trưa rồi. Quán Otello, tôi nghĩ anh ấy đã bảo vậy. Muộn nhất là ba giờ anh ấy sẽ quay lại thôi.” Hẳn là một người nhà Buffi đã cho Freddie vào, Tom nghĩ, cho anh ta biết phải bấm cái chuông nào và cũng kể là anh Greenleaf có nhà. Hẳn Freddie đã nói mình là bạn cũ của Dickie. Giờ thì anh sẽ phải đuổi Freddie ra khỏi nhà mà không chạm mặt bà Buffi dưới gác, vì bà ta luôn hét lên, “Chào buổi sáng, anh Greenleaf!”
“Tôi đã gặp anh ở Mongibello phải không?” Freddie hỏi. “Anh không phải là Tom sao? Tôi tưởng anh cũng tới Cortina.”
“Tôi đã không thể đi được, cảm ơn. Cortina thế nào?”
“À, ổn. Có chuyện gì với Dickie vậy?”
“Anh ấy không viết thư cho anh à? Anh ấy đã quyết định dành mùa đông ở Rome. Anh ấy bảo tôi là sẽ viết thư cho anh.” “Không một lời – trừ phi cậu ấy gửi thư tới Florence.
Nhưng tôi đã ở Salzburg và cậu ấy cũng có địa chỉ ở đó.”
Freddie ngồi nửa mông trên cái bàn dài của Tom, vò tấm lụa dài màu xanh lục. Anh ta mỉm cười. “Marge kể với tôi là cậu ấy đã chuyển tới Rome, nhưng cô ấy không có địa chỉ nào trừ American Express. Chỉ nhờ ăn may tôi mới tìm được căn hộ này của cậu ấy. Tối qua tôi gặp một người ở Greco tình cờ lại biết địa chỉ của cậu ấy. Cái ý tưởng này -”
“Ai thế?” Tom hỏi. “Một người Mỹ à?”
“Không, một thằng nhóc Ý. Chỉ là một đứa nhóc.” Freddie đang nhìn xuống giày của Tom. “Anh có cùng kiểu giày mà Dickie và tôi có. Chúng bền như mới phải không? Tôi đã mua đôi của tôi ở Luân Đôn cách đây tám năm.”
Chúng là đôi giày da của Dickie. “Đôi này mua ở Mỹ,” Tom nói. “Tôi mời anh uống nước được không hay là anh muốn thử tới Otello tìm Dickie? Anh có biết nó ở đâu không? Anh đợi ở đây cũng chẳng ích gì vì thường thì anh ấy sẽ ăn bữa trưa đến tận ba giờ. Tôi cũng sắp ra ngoài đây.”
Freddie đã bước về phía phòng ngủ và dừng lại, nhìn đống vali trên giường. “Dickie sắp đi đâu đó à hay cậu ta vừa về tới đây?” Freddie hỏi, quay người lại.
“Anh ấy sắp đi. Marge không kể với anh à? Anh ấy sẽ tới Sicily một thời gian.”
“Khi nào?”
“Ngày mai. Hoặc tối muộn hôm nay, tôi không chắc.” “Này, dạo này Dickie có vấn đề gì vậy?” Freddie hỏi, cau mày. “Cậu ấy tự tách mình ra thế này là làm sao?”
“Anh ấy nói mùa đông này anh ấy đã làm việc rất nỗ lực,” Tom nói với giọng thoải mái. “Anh ấy có vẻ muốn được riêng tư, nhưng theo tôi biết thì anh ấy vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với tất cả mọi người, kể cả Marge.”
Freddie lại mỉm cười, cởi cái áo khoác polo to đùng của mình ra. “Cậu ấy sẽ không giữ được mối quan hệ tốt đẹp với tôi nếu còn cho tôi leo cây thêm vài lần nữa. Anh có chắc là cậu ấy với Marge vẫn tốt đẹp không? Theo lời cô ấy thì tôi hiểu là họ đã cãi nhau. Tôi nghĩ có thể vì thế mà họ không tới Cortina.” Freddie nhìn anh chờ đợi.
“Theo tôi biết thì không.” Tom tiến về phía tủ để lấy áo khoác, để Freddie biết rằng anh muốn đi, rồi kịp thời nhận ra rằng cái áo khoác bằng vải flannel xám hợp với màu quần có thể bị nhận ra là đồ của Dickie, nếu Freddie từng thấy bộ vest của Dickie. Tom với lấy áo khoác trong và áo khoác ngoài của anh đang treo ở tận cùng bên trái tủ đồ. Vai áo khoác ngoài trông như thể nó đã nằm trên móc treo vài tuần rồi, mà đúng là như vậy. Tom quay người lại và thấy Freddie đang chăm chú nhìn cái vòng tay bạc định danh trên cổ tay trái của anh. Nó là của Dickie dù Tom chưa từng thấy anh ta đeo, anh tìm thấy nó trong hộp đựng khuy rời. Freddie đang nhìn nó như thể đã từng thấy nó rồi. Tom bình thản mặc áo khoác vào.
Freddie giờ đang nhìn anh với một biểu cảm khác, có phần ngạc nhiên. Tom biết anh ta đang nghĩ gì. Anh cứng người lại, cảm thấy có mùi nguy hiểm. Mày chưa hết nguy cơ đâu, anh tự nhủ. Mày chưa ra khỏi nhà đâu.
“Sẵn sàng đi chưa?” Tom hỏi. “Anh sống ở đây, đúng không?”
“Không!” Tom phản đối, cười. Khuôn mặt lốm đốm tàn nhang xấu xí dưới bụi tóc đỏ quạch chăm chú nhìn anh. Giá họ có thể đi ra ngoài mà không chạm mặt bà Buffi dưới nhà, Tom nghĩ. “Đi nào.”
“Dickie tặng anh toàn bộ số đồ trang sức của cậu ấy, theo tôi thấy.”
Tom không thể nghĩ nổi một lời nào hay một câu đùa nào để nói. “À, cho mượn thôi,” Tom nói bằng giọng trầm nhất của mình. “Dickie chán đeo nó nên đã bảo tôi có thể dùng một thời gian.” Ý anh là cái vòng tay, nhưng rồi anh nhận ra còn cả cái kẹp cà vạt bạc trên cà vạt của mình nữa, nó có chữ G ở trên. Tom đã tự mua cái kẹp đó. Anh có thể cảm nhận sự thù địch đang dâng lên trong Freddie Miles một cách rõ ràng. Tựa như cơ thể đô con của anh ta đang tỏa ra một luồng nhiệt mà đứng tận bên kia phòng anh cũng có thể nhận thấy. Freddie là một con bò có thể nện nhừ tử một người mà anh ta nghĩ là đồng tính, đặc biệt trong hoàn cảnh thuận lợi như thế này. Tom sợ ánh mắt của anh ta.
“Phải, tôi sẵn sàng đi rồi,” Freddie nói một cách dứt khoát rồi đứng dậy. Anh ta đi ra cửa và đột nhiên quay phắt đôi vai rộng lại. “Cái quán Otello đó không xa Inghilterra đúng không?”
“Phải,” Tom nói. “Anh ấy đã đến đó lúc gần một giờ.” Freddie gật đầu. “Rất vui được gặp lại anh,” anh ta nói một cách hầm hè và đóng cửa lại.
Tom chửi thề. Anh mở hé cửa và lắng nghe tiếng lộc cộc gấp gáp khi giày của Freddie nện xuống nền cầu thang. Anh muốn bảo đảm anh ta ra ngoài mà không nói chuyện với một người trong nhà Buffi nữa. Và rồi anh nghe tiếng Freddie nói “Chào buổi sáng, thưa bà,” Tom rướn ra ngoài cầu thang. Dưới đó ba tầng, anh có thể nhìn thấy một phần ống tay áo của Freddie. Anh ta đang nói chuyện bằng tiếng Ý với bà Buffi. Giọng người phụ nữ vang lên rõ ràng hơn.
“… Chỉ có anh Greenleaf thôi,” bà ta đang nói. “Không, chỉ có một… Anh nào cơ?... Không, thưa anh… Tôi không nghĩ hôm nay anh ta đã ra ngoài, nhưng có thể tôi nhầm lắm chứ!” Bà ta cười.
Tom bóp tay vịn cầu thang như thể đó là cổ Freddie. Rồi anh nghe tiếng bước chân của Freddie chạy lên cầu thang. Tom lùi lại vào trong nhà và đóng cửa lại. Anh có thể khăng khăng tuyên bố rằng anh không sống ở đây, Dickie đang ở Otello, anh không biết Dickie ở đâu, nhưng Freddie sẽ không chịu ngừng lại cho tới khi tìm ra Dickie. Hoặc Freddie sẽ lôi cổ anh xuống nhà và hỏi bà Buffi anh là ai.
Freddie gõ cửa. Tay đấm cửa xoay tròn. Nó đã bị khóa. Tom nhặt một cái gạt tàn thủy tinh nặng trịch lên. Tay anh không thể giữ lấy nó mà phải cầm ở mép. Anh cố gắng nghĩ thêm hai giây nữa thôi: không còn lối thoát nào khác sao? Anh sẽ làm gì với cái xác? Anh không nghĩ ra. Đây là lối thoát duy nhất. Anh mở cửa bằng tay trái. Tay phải cầm gạt tàn của anh vung ra sau.
Freddie bước vào phòng. “Nghe này, anh có phiền nói cho tôi -”
Mép gạt tàn bo tròn đập xuống chính giữa trán anh ta. Freddie trông có vẻ choáng. Rồi đầu gối anh ta khuỵu xuống và anh ta gục xuống như một con bò tót bị búa đập vào giữa trán. Tom đá cửa vào. Anh tiếp tục nện mép gạt tàn vào gáy của Freddie hết lần này đến lần khác, sợ anh ta có thể chỉ đang giả vờ và một cánh tay khổng lồ của anh ta có thể đột ngột ôm lấy chân anh và lôi anh xuống. Tom đập sượt qua trán anh ta và máu chảy ra. Anh tự chửi mình. Anh chạy đi lấy một cái khăn từ phòng tắm và đặt nó dưới đầu của Freddie. Rồi anh sờ cổ tay anh ta xem có mạch đập không. Vẫn có, yếu ớt và nó có vẻ run rẩy tắt dần đi khi anh chạm vào, như thể áp lực từ các ngón tay anh khiến nó ngừng đập. Trong giây tiếp theo nó biến mất hẳn. Tom nghe xem có âm thanh nào sau cửa không. Anh mường tượng ra cảnh bà Buffi đang đứng sau cửa với nụ cười ngập ngừng mỗi khi cảm thấy mình đang lên quấy rầy. Nhưng không có gì hết. Chẳng có một tiếng động lớn nào, anh nghĩ thầm, dù là từ cái gạt tàn hay khi Freddie gục xuống. Tom nhìn xuống dáng vóc đồ sộ của anh ta trên sàn và đột nhiên cảm thấy ghê tởm và vô vọng.
Mới mười hai giờ bốn mươi, còn vài tiếng nữa trời mới tối. Anh tự hỏi liệu có ai đó đang chờ Freddie ở đâu đó không? Có thể là trong một cái ô-tô dưới nhà chẳng hạn? Anh lục túi anh ta. Một cái ví. Quyển hộ chiếu Mỹ trong túi ngực trái của áo khoác ngoài. Xu Ý lẫn với một loại xu khác. Một cái vỏ đựng chìa khóa. Có hai chìa khóa ô-tô trên một cái vòng có chữ Fiat. Anh lục ví tìm giấy đăng ký. Có rồi, với đầy đủ chi tiết: Fiat 1400 màu đen – mui trần – 1955. Anh có thể tìm được nó nếu nó nằm ở trong khu vực này. Anh lục tất cả các túi và cả túi trong của chiếc áo vest màu da bò để tìm vé đỗ xe, nhưng không thấy gì. Anh ra cửa sổ đằng trước rồi suýt mỉm cười vì mọi chuyện quá đơn giản: chiếc xe mui trần màu đen đang đỗ bên kia đường, gần như trực diện căn nhà. Anh không dám chắc nhưng anh nghĩ không có ai ở trong cả.
Đột nhiên anh biết mình sẽ làm gì. Anh bắt đầu sắp xếp căn phòng, lôi các chai rượu gin và vermouth từ tủ rượu của anh ra, rồi anh nghĩ lại và mang thêm cả rượu Pernod nữa vì mùi nó nặng hơn nhiều. Anh đặt mấy chai rượu lên chiếc bàn dài và trộn martini vào một cái cốc cao với vài viên đá ở trong, uống một ít rượu để làm bẩn cốc, rồi đổ một ít rượu vào một cốc khác, đưa nó tới chỗ Freddie và ép các ngón tay mềm oặt của anh ta vào cốc rồi mang nó về bàn. Anh nhìn vết thương và phát hiện ra nó đã dừng chảy máu hoặc đang ngừng và đã không thấm qua khăn tắm xuống sàn nhà nữa. Anh dựng Freddie dựa vào tường và rót một ít gin nguyên chất từ chai rượu xuống thẳng cổ họng anh ta. Nó không thuận lợi cho lắm, phần lớn rượu chảy xuống ngực áo của anh ta, nhưng
Tom không nghĩ cảnh sát Ý sẽ thật sự tiến hành thử máu để xem Freddie đã xỉn đến mức nào. Tom lơ đãng nhìn khuôn mặt ủ rũ, nhợt nhạt của anh ta trong giây lát và dạ dày anh co thắt dữ dội đến mức anh phải nhanh chóng quay đi. Anh không được phép lặp lại chuyện đó. Đầu anh ong ong, anh cảm thấy như thể mình sắp xỉu đến nơi.
Cũng tuyệt đấy, Tom nghĩ khi lảo đảo đi về phía cửa sổ, nếu như ngất xỉu ngay bây giờ! Anh cau mày nhìn cái ô-tô đen bên dưới và hít thật sâu bầu không khí trong lành. Anh tự dặn mình không được ngất xỉu. Anh biết chính xác những việc mình sẽ phải làm. Vào phút cuối cùng, rượu Pernod, cho cả hai bọn họ. Thêm hai cái cốc có rượu Pernod và dấu vân tay của họ. Và cái gạt tàn phải đựng đầy tàn thuốc. Freddie hút Chesterfields. Rồi đường Appian. Một trong mấy chỗ tối đen phía sau những nấm mồ. Có những đoạn đường dài dằng dặc trên đường Appian không hề có đèn đường. Ví của Freddie bị mất. Mục tiêu: ăn trộm.
Anh có vài tiếng đồng hồ, nhưng anh không hề ngừng lại cho tới khi căn phòng đã sẵn sàng, một tá điếu thuốc hiệu Chesterfield cùng khoảng một tá điếu Lucky Strikes cháy rụi và bị dụi vào gạt tàn, một cốc Pernod vỡ tan tành và chỉ mới được dọn qua loa trên sàn phòng tắm. Điều đáng ngạc nhiên là khi anh dàn dựng khung cảnh một cách tỉ mỉ, anh tưởng tượng mình có thêm vài tiếng đồng hồ để dọn dẹp. Giả dụ như giữa chín giờ tối nay, khi cái xác có thể bị phát hiện, cho đến nửa đêm, khi cảnh sát quyết định rằng phải thẩm vấn anh, vì ai đó có thể biết rằng hôm nay Freddie đã định đi gặp Dickie Greenleaf. Anh biết rằng mình sẽ phải dọn dẹp xong tất cả trước tám giờ, bởi vì căn cứ vào câu chuyện mà anh định kể thì Freddie sẽ rời nhà anh lúc bảy giờ (vì thật sự là anh ta sẽ rời nhà anh lúc bảy giờ) và Dickie Greenleaf là một chàng trai khá ngăn nắp, dù đã uống vài cốc. Nhưng điều quan trọng khi để căn nhà bừa bộn là sự bừa bộn ấy là minh chứng cho chính anh thấy về câu chuyện mà anh sắp kể và do đó chính anh phải tin đã.
Và anh vẫn sẽ đi tới Naples và Palma lúc mười rưỡi sáng mai, trừ phi vì một lý do nào đó mà cảnh sát ngăn cản anh. Nếu sáng mai anh đọc trên báo thấy cái xác đã được tìm thấy và cảnh sát không cố liên hệ với anh thì anh cũng nên tự nguyện kể cho họ biết rằng Freddie Miles đã ở nhà anh tới tận cuối giờ chiều, Tom nghĩ. Nhưng anh đột nhiên nghĩ ra là một bác sĩ có thể phán đoán được việc Freddie đã chết từ trưa. Và anh không thể lôi anh ta ra ngoài ngay bây giờ, giữa thanh thiên bạch nhật. Không, hy vọng duy nhất của anh là cái xác sẽ không bị phát hiện trong một thời gian đủ dài để bác sĩ không thể phán đoán được chính xác anh ta đã chết bao lâu. Và anh phải cố gắng ra khỏi nhà mà không bị ai nhìn thấy – liệu anh có thể vác Freddie xuống một cách tương đối dễ dàng như vác một gã bợm rượu đã xỉn ngoắc cần câu không – để nếu anh có bị lấy lời khai thì anh có thể nói rằng anh ta đã ra khỏi nhà vào khoảng bốn, năm giờ chiều.
Anh căm ghét năm đến sáu tiếng chờ đợi tới khi màn đêm buông xuống đến mức có những lúc anh đã nghĩ mình không thể chờ nữa. Cái đống thịt trên sàn! Và anh không hề muốn giết anh ta. Đó là một việc không cần thiết, chỉ tại Freddie và những hồ nghi dơ bẩn, xấu xa của anh ta. Tom đang run bần bật, ngồi ở mép ghế, siết chặt nắm tay. Anh muốn ra ngoài đi dạo nhưng lại sợ khi bỏ cái xác nằm đó. Tất nhiên, phải có tiếng ồn nếu anh và Freddie tán gẫu và uống rượu cả chiều. Tom bật radio tới một kênh phát nhạc nhảy. Ít nhất thì anh có thể uống rượu. Đó là một phần vở kịch. Anh pha hai cốc martini có đá khác. Anh thậm chí chẳng muốn uống nhưng vẫn cứ phải uống.
Rượu chỉ càng khiến những suy nghĩ lúc trước của anh mãnh liệt hơn. Anh đứng nhìn xuống cơ thể cao to, nặng nề của Freddie trong cái áo khoác polo đang gục dưới chân mình. Anh chẳng có năng lượng mà cũng chẳng có tâm trí để kéo thẳng người anh ta ra, dù cảnh tượng này làm anh bực bội. Anh nghĩ đến cái chết đáng buồn, ngớ ngẩn, vụng về, nguy hiểm và không cần thiết của anh ta, nó bất công một cách tàn nhẫn với Freddie. Tất nhiên, người ta cũng có thể căm ghét anh ta. Một gã khốn nạn ích kỷ, ngu ngốc đã khinh bỉ một trong những người bạn thân nhất của mình – Dickie chắc chắn là một trong những người bạn thân nhất của anh ta – chỉ vì nghi ngờ người ấy có xu hướng tình dục lệch lạc. Tom cười nhạo cái cụm từ “xu hướng tình dục lệch lạc.” Tình dục nào? Lệch lạc nào? Anh nhìn Freddie và nói to đầy cay đắng, “Freddie Miles, mày là nạn nhân của chính đầu óc bẩn thỉu của mày.”