Ngày hôm sau anh chuyển tới khách sạn Europa, một khách sạn giá tầm trung gần Via Veneto, vì Hassler hào nhoáng hơn đôi chút, anh nghĩ, loại khách sạn như vậy thường được những người mê điện ảnh ghé thăm, nên Freddie Miles hoặc những người quen Dickie giống anh ta có thể sẽ chọn ở đó nếu họ tới Rome.
Tom đã có những cuộc đối thoại tưởng tượng với Marge, Fausto và Freddie trong phòng khách sạn của mình. Marge là người có khả năng đến Rome nhất, anh nghĩ. Anh sẽ nói chuyện với cô ta với tư cách là Dickie nếu đó là một cuộc trò chuyện qua điện thoại và với tư cách là Tom nếu phải gặp mặt trực tiếp. Ví dụ, cô ta có thể xuất hiện bất ngờ ở Rome, tìm ra khách sạn và đòi lên phòng của anh, trong trường hợp đó anh sẽ phải tháo nhẫn của Dickie và thay quần áo của mình vào.
“Tôi không biết,” anh sẽ nói với cô ta bằng giọng của Tom. “Cô biết anh ấy thế nào rồi đấy – thích cảm thấy mình tự do, được thoát khỏi mọi thứ. Anh ấy nói tôi có thể dùng phòng khách sạn của anh ấy vài ngày, bởi vì hệ thống sưởi phòng tôi vô tình quá tệ… À, anh ấy sẽ quay lại sau vài ngày, hoặc sẽ có một tấm bưu thiệp nói anh ấy vẫn ổn. Anh ấy đi cùng Di Massimo tới một thị trấn nhỏ nào đó để xem vài bức tranh trong một nhà thờ.”
(“Anh không biết anh ấy đã đi về hướng Bắc hay hướng Nam à?”)
“Tôi thật sự không biết. Tôi đoán là hướng Nam. Nhưng biết điều đó thì có ích gì cho chúng ta đâu?”
(“Chỉ do tôi xui quá nên mới không gặp anh ấy đúng không? Vì sao anh ấy không nói mình đi đâu chứ?”)
“Tôi biết. Tôi cũng đã hỏi anh ấy. Đã tìm khắp phòng xem có bản đồ hay bất kỳ thứ gì khác có thể cho biết anh ấy định đi đâu hay không. Anh ấy chỉ vừa gọi cho tôi ba ngày trước và bảo tôi có thể dùng phòng của anh ấy nếu muốn.”
Tập vào vai chính bản thân mình một lần nữa là một ý hay, bởi vì có thể sẽ đến một lúc anh cần làm vậy trong vài giây và chẳng hiểu sao thật dễ quên đi âm sắc chính xác của Tom Ripley. Anh nói chuyện với Marge cho tới khi giọng của anh vang lên bên tai nghe giống hệt như trí nhớ của anh.
Nhưng phần lớn thời gian anh là Dickie, đàm thoại bằng giọng trầm với Freddie và Marge, đàm thoại từ xa với mẹ của Dickie, với Fausto, với một người lạ mặt ở một bữa tiệc tối. Anh trò chuyện bằng tiếng Anh và tiếng Ý. Cái đài radio nhỏ của Dickie được bật lên để nếu có nhân viên khách sạn nào đó đi ngang qua hành lang và tình cờ biết ngài Greenleaf ở một mình thì cũng không nghĩ là anh bị điên. Thỉnh thoảng, nếu bài hát phát trên radio là bài Tom thích thì anh sẽ khiêu vũ một mình, nhưng nhảy giống như cách Dickie sẽ khiêu vũ với một cô gái. Anh từng một lần thấy anh ta nhảy với Marge trên hiên quán Giorgio và một lần ở Giardino degli Orangi ở Naples – nhảy những bước dài nhưng khá cứng, khó có thể gọi là nhảy giỏi. Mỗi khoảnh khắc đối với Tom đều sung sướng vô ngần, dù ở một mình trong phòng hay đi bộ trên những con phố của Rome, khi anh kết hợp ngắm cảnh với việc tìm một căn hộ. Anh nghĩ không đời nào có chuyện cảm thấy cô đơn hay buồn chán chừng nào anh còn là Dickie Greenleaf.
Họ chào đón anh với cái tên Greenleaf ở American Express, nơi anh lấy thư. Bức thư đầu tiên của Marge viết:
Dickie,
Thì đúng là có hơi ngạc nhiên một chút. Em tự hỏi điều gì đột nhiên choán lấy tâm trí anh ở Rome hay ở San Remo hay bất kể nơi đó là đâu đi nữa? Tom hết sức mờ ám, chỉ nói rằng anh ta sẽ ở cùng anh. Còn việc anh ta nói sẽ về Mỹ, chừng nào được tận mắt chứng kiến em mới tin. Dù đây không phải việc của em, bạn ạ, nhưng em có thể nói là mình không thích gã đó không? Theo quan điểm của em hoặc của bất kỳ ai khác, anh ta đang lợi dụng anh vì những điều kiện của anh. Nếu anh muốn thay đổi cho tốt hơn, vì Chúa hãy đẩy anh ta ra xa. Được rồi, có thể anh ta không đồng tính. Chỉ đơn giản anh ta chẳng là cái gì cả và điều đó còn tệ hơn. Anh ta còn không đủ bình thường để có bất kỳ một đời sống tình dục nào, nếu anh hiểu ý em.
Tuy nhiên, người em quan tâm không phải Tom mà là anh. Phải, em có thể chịu đựng vài tuần không có anh, anh yêu và thậm chí là qua cả Giáng sinh, dù em không thích nghĩ về dịp lễ đó nữa. Em cũng muốn không nghĩ về anh và – như anh đã nói – cứ để mọi chuyện tự nhiên. Nhưng không thể không nghĩ về anh ở đây vì mọi ngóc ngách của ngôi làng này đều bị anh ám mất rồi, đối với em là vậy và đặc biệt trong căn nhà này, mọi nơi em nhìn đều có bóng dáng của anh, hàng cây chúng ta đã trồng, hàng rào chúng ta bắt đầu sửa và chẳng bao giờ sửa xong, những quyển sách em đã mượn anh và chẳng bao giờ trả lại. Và cả ghế của anh ở bàn, đó là điều làm em nhớ nhất.
Tiếp tục với việc chĩa mũi vào chuyện của người khác, em không nói là Tom sẽ làm bất kỳ chuyện gì xấu xa với anh, nhưng em biết anh ta có chút ảnh hưởng xấu với anh. Anh có biết là khi ở cạnh anh ta, anh xử sự như thể có phần xấu hổ không? Anh đã bao giờ thử suy nghĩ về điều đó chưa? Em nghĩ anh đã bắt đầu nhận ra tất cả những chuyện này trong vài tuần vừa qua, nhưng giờ anh lại dính với anh ta và thành thật mà nói, bạn thân mến, em không biết nên nghĩ sao nữa. Nếu anh thật sự “không quan tâm khi nào” anh ta bay về, vì Chúa hãy đuổi anh ta đi luôn đi! Anh ta sẽ chẳng bao giờ giúp anh hay bất kỳ ai khác hiểu rõ được một chuyện gì hết. Thật ra thì anh ta chỉ quan tâm đến việc làm anh rối trí và bấu víu vào anh và bố anh thôi.
Cảm ơn nhiều vì lọ nước hoa, anh yêu. Em sẽ để dành nó – phần lớn – đợi lần tới em gặp anh. Em chưa mang tủ lạnh sang nhà em đâu. Anh có thể lấy nó về bất kỳ lúc nào anh muốn.
Có thể Tom đã kể lại cho anh chuyện Skippy trốn đi. Em có nên bắt một con tắc kè và buộc dây quanh cổ nó không? Em phải xử lý bức tường nhà ngay lập tức trước khi nó mốc lên hết và đổ sập xuống người em. Ước gì anh ở đây, anh yêu – tất nhiên rồi.
Vô vàn yêu thương và nhớ viết thư đấy,
XX
Marge
Gửi tới American Express
Rome
12 tháng 12, năm 19-
Mẹ và bố thân yêu,
Con đang ở Rome, tìm một căn hộ để ở, dù con chưa tìm được căn nào ưng ý hết. Các căn hộ ở đây hoặc quá to hoặc quá nhỏ và nếu nó quá to thì mùa đông con sẽ phải đóng hết tất cả các phòng lại, chỉ trừ một phòng duy nhất để nó làm ấm hiệu quả. Con đang cố gắng tìm một chỗ cỡ vừa, giá tiền tầm tầm mà con có thể sưởi ấm hoàn toàn mà không tốn cả một gia tài cho nó.
Xin lỗi vì dạo này con ít viết thư quá. Con hy vọng mình sẽ viết nhiều hơn với cuộc sống êm đềm con đang tận hưởng nơi đây.
Con cảm thấy mình cần một sự thay đổi so với Mongibello – như hai người vẫn nói lâu nay – nên con đã chuyển đống hành lý lỉnh kỉnh và thậm chí có thể còn bán cả nhà và thuyền nữa. Con đã gặp một họa sĩ tuyệt vời có tên Di Massimo, người sẵn lòng hướng dẫn cho con trong phòng vẽ của ông ta. Con sẽ làm việc hết mình trong vài tháng xem kết quả thế nào. Đây gần như là một thời kỳ thử nghiệm. Bố, con nhận ra rằng điều này không hấp dẫn bố, nhưng vì bố vẫn luôn hỏi con dùng thời gian làm gì, thì đấy. Con sẽ sống cuộc sống yên bình, chăm chỉ cho tới hè năm sau.
Nhân đây, bố có thể gửi cho con các hồ sơ mới nhất từ Burke-Greenleaf không? Con muốn cập nhật những gì bố đang làm và lâu lắm rồi con không nhận được gì.
Mẹ, con hy vọng mẹ đã không phải bận tâm nhiều về Giáng sinh của con. Con thật sự không nghĩ ra được con cần gì cả. Mẹ thế nào rồi? Mẹ có thể đi lại nhiều không? Ví dụ như đi nhà hát, hoặc đâu đó? Cậu Edward thế nào rồi? Gửi lời chúc của con tới cậu và cập nhật tình hình cho con nhé.
Yêu thương,
Dickie
Tom đọc lại nó, quyết định rằng có thể có quá nhiều dấu phẩy nên kiên nhẫn gõ lại và ký tên. Anh đã từng đọc một bức thư dang dở Dickie gửi cho bố mẹ ở máy đánh chữ của anh ta và anh hiểu phong cách chung của Dickie. Anh biết rằng anh ta chưa từng dành hơn mười phút để viết bất kỳ bức thư nào. Nếu bức thư này có gì khác biệt, Tom nghĩ, thì chỉ có thể là ở chỗ nó có phần riêng tư và nhiệt tình hơn thường lệ. Anh cảm thấy tương đối hài lòng với bức thư khi đọc lại nó lần thứ hai. Cậu Edward là một người em của bà Greenleaf, ông ta bị ung thư gì đó và phải nằm trong một bệnh viên ở Illinois, Tom biết điều này qua bức thư gần đây nhất mẹ Dickie gửi cho anh ta.
Vài ngày sau anh bay tới Paris. Anh đã gọi điện cho khách sạn Inghilterra trước khi rời Rome: không thư từ hay điện thoại cho Richard Greenleaf. Anh hạ cánh xuống Orly lúc năm giờ chiều. Cán bộ cửa khẩu đóng dấu vào hộ chiếu của anh sau khi chỉ mới liếc vội nhìn anh, dù Tom đã làm tóc sáng lên đôi chút với thuốc nhuộm và tạo sóng cho nó nhờ dầu tóc. Vì người kiểm tra hộ chiếu, anh thậm chí còn trưng ra vẻ mặt khá căng thẳng, cau có đúng như hình ảnh trong hộ chiếu của Dickie. Tom ở tại khách sạn Hotel du Quai-Voltaire, nó được vài người Mỹ mà anh làm quen trong một quán cà phê ở Rome giới thiệu. Họ bảo nó nằm ở vị trí thuận tiện và không có quá nhiều người Mỹ. Rồi anh tản bộ trong một buổi tối tháng Mười hai mù sương, lạnh lẽo. Anh ngẩng cao đầu và mặt luôn nở nụ cười. Đó là bầu không khí của thành phố mà anh yêu thích, bầu không khí mà anh luôn nghe nói đến, những con đường quanh co, những tòa nhà tường xám với cửa sổ áp mái, tiếng còi xe inh ỏi và đâu đâu cũng có các chỗ đi tiểu và cột dán đầy áp phích nhà hát màu sắc rực rỡ. Anh muốn để bầu không khí ấy từ từ thấm vào người, có thể là qua vài ngày, trước khi anh ghé thăm bảo tàng Louvre, hoặc lên tháp Eiffel, hoặc làm những việc tương tự như vậy. Anh mua một tờ Figaro, ngồi xuống một cái bàn ở Dôme, gọi một cốc fine à l’eau, vì Dickie từng nói rằng đấy là loại đồ uống quen thuộc của anh ta ở Pháp. Tiếng Pháp của Tom không tốt lắm, nhưng Dickie cũng chẳng khá gì hơn. Có vài người quan sát anh một cách thú vị sau cửa kính của quán cà phê, nhưng không một ai tiến tới bắt chuyện. Tom đã chuẩn bị sẵn sàng chờ ai đó nhỏm dậy từ một cái bàn vào bất kỳ lúc nào, lại gần và nói, “Dickie Greenleaf! Có thật là anh đấy không?”
Anh không làm gì quá giả tạo để thay đổi diện mạo của mình, nhưng điệu bộ của anh, Tom nghĩ, giờ giống hệt Dickie. Anh đeo nụ cười chào đón đầy nguy hiểm với người lạ, mà anh cho là nên dành nó cho bạn cũ hay người tình. Đó là nụ cười đẹp và đặc trưng nhất của Dickie khi anh ta đang vui. Tom cũng đang vui. Đây là Paris. Thật tuyệt vời khi được ngồi trong một quán cà phê nổi tiếng, nghĩ đến những ngày sau đó đều là Dickie Greenleaf! Khuy măng-sét, áo lụa trắng, thậm chí đến cả những món đồ cũ – cái thắt lưng nâu cũ mèm với mặt đồng; đôi giầy da màu nâu sậm, loại được quảng cáo trong cuốn Punch là bền đến trọn đời; cái áo len màu mù tạt với hai cái túi trĩu xuống, tất cả chúng là của anh và anh yêu tất cả. Cả cây bút máy đen có những chữ cái in hoa nữa. Cả ví, chiếc ví Gucci bằng da cá sấu cũ mèm và cả đống tiền nhét bên trong đó.
Đến chiều hôm sau, anh đã được mấy người mời đến một bữa tiệc ở Đại lộ Kléber - một cô nàng người Pháp và một chàng trai người Mỹ - anh đã tán gẫu cùng họ trong một nhà hàng cà phê lớn trên đường Saint-Germain. Bữa tiệc có ba mươi đến bốn mươi người, phần lớn là trung niên, đứng đờ ra trong một căn hộ rõ rộng, lạnh lẽo, khá nghiêm túc. Tom nhận ra ở châu Âu, việc sưởi không quá ấm trong mùa đông là dấu hiệu của sự thanh lịch, như những ly martini không đá vào mùa hè. Như lần anh chuyển tới một khách sạn đắt tiền ở Rome với hy vọng được ấm áp hơn và rồi phát hiện ra khách sạn đắt tiền hơn thậm chí còn lạnh hơn. Tom cho rằng căn nhà này cũng thanh lịch đấy, theo một phong cách cổ điển u ám. Có một quản gia và một cô hầu, một bàn rộng đầy bánh nướng, gà tây thái lát, những miếng bánh gato nhỏ xinh, một cơ số rượu sâm-panh, dù vậy, vỏ bọc ghế sô-pha và những tấm rèm dài ở cửa sổ đã mòn chỉ và xơ xác theo thời gian và anh cũng nhìn thấy vài hang chuột trong hành lang cạnh thang máy. Ít nhất nửa tá vị khách mà anh được giới thiệu cho là bá tước và bá tước phu nhân. Một người Mỹ kể cho Tom biết rằng hai người đã mời anh tới đây chuẩn bị kết hôn với nhau, nhưng cha mẹ cô gái không mấy hài lòng. Không khí trong căn phòng lớn có chút căng thẳng và Tom cố gắng dễ thương hết mức có thể đối với tất cả mọi người, kể cả những người Pháp nghiêm nghị mà anh chẳng thể nói với họ nhiều hơn câu “Nó rất đẹp phải không?” Anh đã cố hết sức và ít nhất cũng giành được một nụ cười từ cô nàng người Pháp đã mời anh dự tiệc. Anh thấy mình may mắn vì được ở đó. Có bao nhiêu người Mỹ đơn độc ở Paris có thể được mời tới một ngôi nhà Pháp chỉ sau khoảng một tuần ở thành phố này? Người Pháp đặc biệt cẩn trọng trong việc mời người lạ về nhà, Tom vẫn luôn nghe nói là vậy. Có vẻ không người Mỹ nào ở đây biết tên anh. Tom cảm thấy hết sức thoải mái, trước đây anh chưa từng trải qua cảm giác như vậy ở bất kỳ một bữa tiệc nào mà anh nhớ. Anh hành xử như cách anh vẫn luôn muốn hành xử ở các bữa tiệc. Đây chính là sự khởi đầu mới mà anh đã nghĩ tới khi ở trên con tàu rời nước Mỹ. Đây chính là sự thủ tiêu quá khứ và con người cũ của anh, Tom Ripley, người được tạo nên từ quá khứ ấy, để tái sinh thành một con người hoàn toàn mới. Một phụ nữ Pháp và hai người Mỹ mời anh dự tiệc, nhưng Tom từ chối với cùng một lý do: “Vô cùng cảm ơn, nhưng ngày mai tôi sẽ rời Paris.”
Tom nghĩ kết thân với bất kỳ ai trong số họ đều không được lợi lộc gì. Một người trong đó có thể quen ai đó biết rõ Dickie, ai đó có thể có mặt ở bữa tiệc kế tiếp.
Lúc mười một giờ mười lăm, khi anh tạm biệt nữ chủ nhân của bữa tiệc cùng phụ huynh của cô ta, trông họ có vẻ vô cùng tiếc nuối tiễn anh đi. Nhưng anh muốn đến nhà thờ Đức Bà trước nửa đêm. Đêm nay là đêm Giáng sinh.
Mẹ của cô gái hỏi lại tên anh.
“Quý ông Granelafe,” cô ta nhắc lại cho mẹ. “Deekie Granelafe. Đúng không?”
“Đúng rồi,” Tom đáp, mỉm cười.
Vừa xuống tới hành lang dưới tầng, anh chợt nhớ ra bữa tiệc của Freddie Miles ở Cortina. Ngày 2 tháng 12. Gần một tháng trước! Anh đã định viết thư cho Freddie để báo anh sẽ không đến. Anh tự hỏi Marge có đi không? Anh ta sẽ thấy lạ lắm khi anh không viết thư báo việc mình không tới và Tom hy vọng chí ít thì Marge đã kể cho Freddie. Anh phải viết thư cho anh ta ngay. Có địa chỉ của Freddie ở Florence trong sổ địa chỉ của Dickie. Một sơ suất, nhưng không có gì nghiêm trọng, Tom nghĩ. Anh chỉ không được phép để một chuyện như vậy tái diễn.
Anh bước vào bóng đêm và rẽ về hướng Khải Hoàn Môn trắng lóa dưới ánh đèn. Thật lạ lùng khi lúc này anh cảm thấy vô cùng lẻ loi, nhưng đó cũng là một phần quan trọng không thể thiếu, như lúc anh ở bữa tiệc. Anh lại cảm thấy thế khi đứng bên rìa đám đông chật kín quảng trường trước nhà thờ Đức Bà. Quá nhiều người nên chắc anh không thể vào được bên trong nhà thờ, nhưng bộ loa khuếch đại đưa tiếng nhạc tới mọi ngóc ngách của quảng trường một cách rõ ràng. Những bài hát mừng Giáng sinh bằng tiếng Pháp mà anh không biết tên. “Đêm im lặng.” Một bài hát mừng trang nghiêm, rồi đến một bài hát tươi vui, sinh động. Những giọng hát nam trầm bổng. Những người đàn ông Pháp ở gần anh bỏ mũ ra. Tom cũng làm theo. Anh đứng thẳng, cao, mặt nghiêm nghị, vậy nhưng sẵn sàng nở nụ cười nếu có người chào anh. Anh có chung cảm giác như lúc ở trên tàu, chỉ là lần này mãnh liệt hơn, đầy thiện ý, một quý ông, không có gì trong quá khứ làm anh phải bận lòng. Anh là Dickie, Dickie tốt bụng, ngây thơ, cười với tất cả mọi người và có một nghìn franc cho bất kỳ ai xin xỏ. Một ông già đã hỏi xin tiền anh khi Tom rời khỏi quảng trường nhà thờ và anh cho ông ta một tờ một nghìn franc màu xanh mới coong. Nụ cười nở rộng trên mặt và ông ta ngả mũ chào anh.
Tom thấy hơi đói, dù anh khá thích ý tưởng đi ngủ với cái bụng cồn cào tối nay. Anh nghĩ mình sẽ dành khoảng một tiếng đồng hồ cho quyển sách giao tiếp tiếng Ý rồi mới đi ngủ. Anh chợt nhớ ra mình đã dự định sẽ cố gắng tăng khoảng hai ký vì quần áo của Dickie hơi rộng với anh và mặt Dickie trông to hơn anh, nên anh dừng chân ở một quán bar được bán thuốc lá và gọi một cái bánh mỳ dài giòn kẹp thịt nguội và một cốc sữa nóng, vì người đàn ông ngồi cạnh anh ở quầy đang uống sữa nóng. Sữa gần như vô vị, nguyên chất và đầy ải, như Tom hình dung một cái bánh thánh trong nhà thờ.
Anh thư thả rời khỏi Paris, ngủ qua đêm ở Lyon và cả ở Arles để ngắm những nơi mà Van Gogh đã vẽ tranh. Anh vẫn giữ vẻ bình thản, vui tươi khi phải đối diện với cảnh thời tiết tồi tệ. Ở Arles, cơn bão hung dữ gây ra mưa như trút làm anh ướt sũng khi anh đang cố tìm đến vị trí chính xác mà Van Gogh đã đứng vẽ. Anh đã mua một quyển sách đẹp đẽ có tranh sao chép của Van Gogh ở Paris, nhưng vì không thể lôi quyển sách ra dưới trời mưa nên anh phải quay lại khách sạn cả tá lần để xác nhận khung cảnh đó. Anh ghé thăm Marseille, trừ Canebière vì thấy nó thật buồn tẻ và đi tàu về phía Đông, dừng chân một ngày ở St. Tropez, Cannes, Nice, Monte Carlo. Tất cả những địa điểm này anh đều đã nghe tên và cảm thấy mê đắm khi nhìn thấy chúng, dù là trong điều kiện thời tiết tháng Mười hai mây mù xám xịt phủ kín và không có những đám đông ăn vận lòe loẹt, dù là trong đêm giao thừa ở Menton. Tom tự vẽ thêm người vào những khung cảnh đó bằng trí tưởng tượng của mình, những người đàn ông và phụ nữ xúng xính trong những bộ đầm tối thanh lịch bước xuống những bậc thang rộng của cung điện bài bạc ở Monte Carlo, những người mặc những bộ đồ tắm rực rỡ, nhẹ nhàng và chói lọi như màu nước Dufy, dạo bước dưới những cây cọ của Đại lộ des Anglais ở Nice. Người đổ về từ khắp mọi nơi – Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Ý. Lãng mạn, thất vọng, cãi cọ, giảng hòa, ám sát. Côte d’azur làm anh thích thú hơn bất kỳ chỗ nào khác mà anh từng tới trên thế giới này. Cung đường biển Địa Trung Hải này thật sự nhỏ xíu, nhưng nó có những cái tên tuyệt diệu ngân nga như tiếng hột cườm – Toulon, Fréjus, St. Rafael, Cannes, Nice, Menton và rồi San Remo.
Khi về Rome ngày mùng 4 tháng 1, anh nhận được hai bức thư từ Marge. Cô ta nói sẽ ngừng thuê nhà vào ngày mùng 1 tháng 3. Cô ta chưa viết xong bản thảo đầu tiên, nhưng vẫn sẽ gửi ba phần tư cuốn sách cùng hình ảnh tới một nhà xuất bản ở Mỹ đã có hứng thú với ý tưởng của cô ta khi cô ta viết về nó mùa hè năm ngoái. Cô ta viết:
Khi nào thì em mới gặp lại anh? Em ghét phải trải qua một mùa hè ở châu Âu sau khi đã chịu đựng một mùa đông khủng khiếp, nhưng em nghĩ mình sẽ về nhà sớm vào tháng Ba. Em nhớ nhà lắm, cuối cùng thì cảm giác đó cũng thật sự đến. Anh thân yêu, nếu chúng ta có thể về nhà trên cùng một chuyến tàu thì sẽ thật tuyệt.
Liệu có khả năng đó không? Em không nghĩ vậy. Mùa đông này anh sẽ không quay lại Mỹ dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn sao?
Em đang cân nhắc việc sẽ gửi tất cả đồ đạc của em (tám kiện hành lý, hai cái hòm, ba thùng sách và đồ linh tinh!) bằng thuyền chở hàng từ Naples và ghé qua Rome. Nếu anh có hứng thú, ít nhất chúng ta có thể ra lại bờ biển và ngắm Forte dei Marmi, Viareggio và những địa điểm khác mà chúng ta thích – một lần cuối. Em không có tâm trạng để quan tâm đến thời tiết, dù em biết nó sẽ kinh khủng lắm. Em sẽ không bắt anh đưa em tới Marseille, nơi em sẽ đón thuyền, nhưng từ Genoa thì sao? Anh nghĩ sao?...
Bức thư còn lại dè dặt hơn. Tom biết vì sao: suốt gần một tháng anh thậm chí còn chẳng gửi cho cô ta một tấm bưu thiếp. Cô ta viết:
Đã đổi ý về Riviera. Có thể cái thời tiết chết tiệt này đã lấy mất sự quyết tâm của em, mà cũng có thể là do cuốn sách của em. Dẫu sao đi nữa, em sẽ rời đi từ Naples trên chuyến tàu sớm nhất – tàu Constitution vào ngày 28 tháng 2. Tưởng tượng xem – quay lại Mỹ ngay khi em đặt chân lên tàu. Đồ ăn Mỹ, người Mỹ, dùng đô la mua đồ uống và các cuộc đua ngựa – Anh yêu, em rất tiếc vì không được gặp lại anh, như em hiểu từ sự im lặng của anh thì anh vẫn không muốn gặp em, vậy nên không cần nghĩ tới chuyện đó nữa. Hãy coi như em không còn thuộc trách nhiệm của anh nữa.
Tất nhiên em vẫn hy vọng được gặp lại anh, ở Mỹ hoặc một nơi khác. Nếu anh thấy có hứng đi một chuyến xuống Mongy trước ngày 28 thì anh biết thừa là mình được chào đón rồi đấy.
Vẫn vậy,
Marge
Tái bút: Em thậm chí còn không biết liệu anh có còn ở Rome không.
Tom có thể nhìn thấy những giọt nước mắt của cô ta lúc viết thư. Anh thấy thôi thúc muốn viết cho cô ta một bức thư dịu dàng, kể rằng anh vừa từ Hy Lạp về, hỏi cô ta đã nhận được hai tấm bưu thiếp của anh chưa? Nhưng sẽ an toàn hơn khi để cô ta ra đi mà không rõ anh ở đâu, Tom nghĩ. Anh không viết gì cho cô ta cả.
Điều duy nhất khiến anh bồn chồn, dù cũng không phải quá bồn chồn, là khả năng Marge sẽ tới gặp anh ở Rome trước khi anh kịp ổn định trong một căn hộ nào đó. Nếu cô ta lùng sục các khách sạn thì cô ta có thể tìm được anh, nhưng cô ta sẽ chẳng bao giờ có thể tìm được anh trong một căn hộ. Những người Mỹ giàu có không phải báo cáo nơi thường trú ở sở cảnh sát, dù theo luật tạm trú thì một người phải khai báo mọi thay đổi về địa chỉ với cảnh sát. Tom đã nói chuyện với một người Mỹ có căn hộ riêng ở Rome, anh ta nói rằng chưa bao giờ để tâm đến sở cảnh sát và họ cũng chẳng bao giờ làm phiền anh ta. Nếu Marge đột ngột tới Rome thật thì Tom cũng có cả đống đồ của mình treo sẵn trong tủ. Điều duy nhất anh thay đổi về mặt ngoại hình là mái tóc, nhưng việc đó luôn có thể giải thích là do tác động của ánh nắng. Anh không lo mấy. Mới đầu Tom còn tự giải trí bằng chì kẻ mày – lông mày của Dickie dài hơn và hơi cong lên ở mép ngoài – và một ít bột phấn ở đầu mũi để khiến nó dài và nhọn hơn, nhưng anh gạt đi vì chúng quá dễ gây chú ý. Điều cốt lõi khi mạo danh là giữ được thần thái và khí chất của người được mô phỏng, cũng như thể hiện đúng những biểu cảm trên mặt của người đó, Tom nghĩ. Những cái khác sẽ tự đâu vào đó.
Vào ngày mùng 10 tháng 1, Tom viết thư báo cho Marge biết là anh đã quay lại Rome sau ba tuần ở Paris một mình, Tom đã rời khỏi Rome cách đây một tháng, anh ta nói rằng sẽ tới Paris và từ đó đi về Mỹ, dù anh không hề chạm mặt Tom ở Paris. Anh cũng chưa tìm được căn hộ nào ở Rome nhưng anh đang tiếp tục tìm và sẽ báo cho cô biết địa chỉ ngay khi có thể. Anh cảm ơn cô ta một cách thái quá vì món quà Giáng sinh: cô ta đã gửi áo len trắng với cổ áo chữ V viền đỏ mà cô ta đã đan và thử kích cỡ trên người Dickie từ tháng Mười, cùng một quyển sách nghệ thuật về trường phái vẽ ở Ý thế kỷ mười lăm, một bộ đánh bóng đồ da với chữ cái viết tắt tên anh, H.R.G, trên nắp. Gói đồ mới tới ngày mùng 6 tháng 1, cũng là lý do chính để Tom viết thư: anh không muốn cô ta nghĩ rằng anh chưa nhận được nó, rồi tưởng tượng anh đã biến mất vào không khí rồi bắt đầu lùng sục anh. Anh hỏi cô ta đã nhận được món quà từ anh chưa? Anh đã gửi nó từ Paris và anh đoán nó sẽ tới muộn. Anh xin lỗi. Anh viết:
Anh lại tiếp tục vẽ với Di Massimo và tương đối hài lòng. Anh cũng nhớ em, nhưng nếu em vẫn có thể chịu đựng được màn thử nghiệm của anh thì anh mong không gặp em thêm vài tuần nữa (trừ phi em đột ngột về nhà vào tháng Hai, một điều anh vẫn còn hoài nghi!) đến lúc ấy em có khi còn không quan tâm đến việc gặp anh. Gửi lời chào tới Giorgio và vợ anh ta, cùng Fausto nếu anh ta còn ở đó, cũng như Pietro ở cảng…
Đó là một bức thư theo phong cách vô tâm và có phần sầu thảm hệt như mọi bức thư của Dickie, một bức thư không thể được gọi là ấm áp hay không và chẳng có gì quan trọng thiết yếu hết.
Thật ra thì anh đã tìm được một căn hộ trong một khu chung cư ở Via Imperiale, gần cổng Pincian và đã ký hợp đồng thuê một năm, dù anh không có ý định dành phần lớn thời gian của mình ở Rome, mùa đông lại càng không. Anh chỉ muốn có một ngôi nhà, một chỗ dừng chân đâu đó sau nhiều năm không có nơi nào. Và Rome còn sành điệu nữa. Rome là một phần cuộc đời mới của anh. Anh muốn có thể nói ở Majorca, Athens, Cairo, hay bất kỳ đâu anh tới là: “Phải, tôi sống ở Rome. Tôi giữ một căn hộ ở đó.” “Giữ” là từ dành cho các căn hộ giữa đám người ngoại quốc. Bạn giữ một căn hộ ở châu Âu như cái cách bạn giữ một gara ở Mỹ. Anh cũng muốn căn hộ của mình phải thanh lịch, dù chỉ định cho một ít người lên thăm và anh ghét ý tưởng lắp điện thoại, dù là số không có trong danh bạ, nhưng anh quyết định nó là biện pháp bảo đảm an toàn chứ không phải là một mối đe dọa, nên vẫn lắp một cái. Căn hộ có một phòng khách lớn, một phòng ngủ, một phòng chờ, bếp và nhà tắm. Nó mới được trang hoàng một phần, nhưng hợp với khu dân cư đáng kính và cuộc sống đáng kính mà anh định sống. Tiền thuê nhà một tháng tầm một trăm bảy mươi lăm đô vào mùa đông bao gồm cả khí sưởi và một trăm hai mươi lăm đô vào mùa hè.
Marge hồi âm với một bức thư ngây ngất nói rằng cô ta vừa bất ngờ nhận được chiếc áo lụa tuyệt đẹp từ Paris và nó vừa khít. Cô ta còn nói đã mời Fausto và nhà Cecchi tới ăn tối Giáng sinh ở nhà cô ta, gà tây ngon tuyệt cú mèo, cùng hạt dẻ, nước luộc gà, bánh pudding mận và đủ mọi thứ khác, chỉ thiếu mỗi anh. Anh đang làm gì, đang nghĩ gì? Anh có hạnh phúc hơn không? Fausto sẽ tới tìm anh trên đường tới Milan nếu anh gửi địa chỉ trong vài ngày tới, không thì cứ để lại tin nhắn cho anh ta ở American Express, thông báo nơi có thể gặp được anh.
Tom đoán thái độ vui vẻ của cô ta chủ yếu là do cô nghĩ giờ Tom đã từ Paris về Mỹ. Cùng bức thư của Marge còn có một bức thư của ông Pucci, kể rằng ông ta đã bán được ba món đồ của anh với giá một trăm năm mươi nghìn lia ở Napes. Ông ta cũng thông báo rằng có một người mua tàu tiềm năng, một ông Anastasio Martino ở Mongibello, người đã hứa trả khoản tiền đặt cọc đầu tiên trong vòng một tuần, nhưng căn nhà thì có thể sẽ không bán được cho tới mùa hè, khi người Mỹ lại bắt đầu tới đây. Trừ mười lăm phần trăm hoa hồng của ông Pucci, số tiền bán đồ đạc lên tới hai trăm mười đô. Tom ăn mừng buổi tối hôm đó bằng việc tới một hộp đêm La Mã và gọi một bữa tối thượng hạng mà anh thưởng thức trong yên bình một mình ở một cái bàn thắp nến dành cho hai người.
Anh hoàn toàn không ngại việc ăn uống và đi tới rạp hát một mình. Nó cho anh cơ hội tập trung làm Dickie Greenleaf. Anh bẻ miếng bánh mỳ như Dickie làm, đưa thức ăn lên miệng bằng tay trái như Dickie làm, nhìn xa xăm sang các bàn khác và những người khiêu vũ với vẻ xuất thần, sâu sắc và rộng lượng đến mức người bồi bàn phải gọi đôi lần mới nhận được sự chú ý của anh. Vài người vẫy tay chào anh từ một cái bàn và Tom nhận ra họ là cặp đôi người Mỹ mà anh đã gặp ở bữa tiệc trong đêm Giáng sinh ở Paris. Anh ra dấu chào đáp lễ. Anh thậm chí còn nhớ tên của họ, Souder. Anh không nhìn họ lần nào nữa trong suốt buổi tối, nhưng họ rời đi trước anh và dừng lại ở bàn anh để chào hỏi.
“Một mình à?” Người đàn ông hỏi. Anh ta trông có vẻ ngà ngà say.
“Phải. Tôi có cái hẹn định kỳ hàng năm với bản thân ở đây,” Tom đáp. “Tôi ăn mừng một ngày kỷ niệm đặc biệt.”
Gã người Mỹ gật đầu có phần lơ đễnh và Tom nhận ra rằng anh ta đang lúng túng tìm một câu thông minh để đáp lại. Trông anh ta bồn chồn như bất kỳ một người Mỹ tỉnh lẻ nào khi ở cùng một người thành thị điềm đạm và đĩnh đạc, giàu có và ăn mặc hào nhoáng, dù đó cũng chỉ là một người Mỹ khác.
“Anh đã nói là anh sống ở Rome phải không?” Vợ anh ta hỏi.
“Anh biết không, tôi nghĩ chúng tôi đã quên tên anh, nhưng chúng tôi nhớ anh rất rõ từ hôm Giáng sinh.”
“Greenleaf,” Tom đáp. “Richard Greenleaf.”
“À, phải rồi!” Cô ta nói, nhẹ nhõm. “Anh có căn hộ ở đây à?”
Cô ta đã sẵn sàng ghi nhớ địa chỉ của anh trong đầu.
“Tôi đang ở trong khách sạn, nhưng tôi có kế hoạch chuyển vào một căn hộ sớm, ngay khi việc hoàn thiện nội thất hoàn tất. Tôi ở Elisio. Sao hai người không gọi điện cho tôi nhỉ?”
“Được đấy. Ba ngày nữa chúng tôi sẽ tới Majorca, nhưng còn khối thời gian!”
“Rất vui được gặp hai người,” Tom nói. “Chúc buổi tối vui vẻ!”
Lại đơn độc, Tom quay lại với trạng thái mơ màng riêng tư của mình. Anh nghĩ mình phải mở một tài khoản ngân hàng cho Tom Ripley và đều đặn chuyển khoảng một trăm đô vào đó. Dickie Greenleaf có hai ngân hàng, một ở Naples và một ở New York, với khoảng năm nghìn đô trong mỗi tài khoản. Anh có thể mở tài khoản Ripley với vài nghìn và gửi số tiền một trăm năm mươi nghìn lia từ việc bán đồ đạc ở Mongibello vào đó. Sau cùng thì, anh phải chăm sóc cho tận hai người.