Tom ra ngoài trước tám giờ sáng để mua báo. Không có tin tức gì. Có thể phải mất rất lâu họ mới tìm được xác anh ta, Tom nghĩ. Chẳng mấy ai sẽ đi dạo quanh một ngôi mộ bình thường như ngôi mộ mà anh đã bỏ Freddie lại. Tom cảm thấy khá vững tin về sự an toàn của mình, nhưng cơ thể anh thì thấy thật khủng khiếp. Anh đang vật vã sau cơn say rượu, cảm giác chuếnh choáng, khủng khiếp khiến anh bỏ dở mọi việc đang làm, thậm chí đang đánh răng dở cũng bỏ đấy đi xem liệu tàu của anh thật sự khởi hành vào lúc mười giờ ba mươi hay mười giờ bốn lăm. Nó rời đi lúc mười giờ ba mươi.
Đến chín giờ anh đã hoàn toàn sẵn sàng, ăn vận chỉn chu, áo khoác ngoài và áo mưa đặt trên giường. Anh thậm chí còn nói chuyện với bà Buffi để báo cho bà ta biết là anh sẽ đi ít nhất ba tuần hoặc có thể còn lâu hơn. Bà Buffi vẫn hành xử như thường lệ, Tom nghĩ và cũng không đề cập tới vị khách người Mỹ của anh ngày hôm qua. Tom cố gắng nghĩ ra điều gì đó để hỏi bà ta, một điều có vẻ bình thường khi xét đến những câu hỏi ngày hôm qua của Freddie, để xem bà Buffi thật sự nghĩ gì, nhưng anh chịu không nghĩ được gì và quyết định cứ để yên là tốt nhất. Mọi chuyện đều ổn. Tom cố gắng trấn an bản thân để thoát khỏi dư âm của cơn say, vì anh chỉ uống nhiều nhất có khoảng ba ly martini và ba ly Pernod. Anh biết đây là do trạng thái tinh thần, anh thấy chuếnh choáng vì định giả vờ đã nốc cả đống rượu cùng Freddie. Và giờ thì điều đó không cần nữa nhưng anh vẫn đang giả vờ, một cách mất kiểm soát.
Điện thoại reo, Tom nhấc điện thoại lên và nói một cách cục cằn. “Tôi nghe.”
“Đó có phải anh Greenleaf?” Một giọng Ý hỏi.
“Vâng.”
“Đây là đồn cảnh sát số tám mươi mốt. Anh có phải là bạn của một người Mỹ tên là Fred-derick Mee-lays?”
“Frederick Miles? Vâng,” Tom nói.
Giọng nói vội vã, căng thẳng thông báo rằng xác của Fred-derick Mee-lays đã được tìm thấy sáng hôm nay ở đường Appian và ngày hôm qua anh Mee-lays đã ghé thăm anh một lúc, có đúng là như thế không?
“Đúng vậy.”
“Chính xác là vào lúc nào?”
“Khoảng từ trưa tới – có lẽ là năm, sáu giờ chiều gì đó, tôi không chắc lắm.”
“Anh có thể vui lòng trả lời vài câu hỏi được không?... Không, anh không cần phải tự đi tới đồn cảnh sát làm gì cho phiền phức. Điều tra viên sẽ tới chỗ anh. Liệu mười một giờ sáng nay có tiện không?”
“Tôi sẽ rất sẵn lòng giúp nếu có thể,” Tom nói bằng giọng phấn khích vừa phải. “Nhưng điều tra viên không thể tới ngay bây giờ à? Tôi cần phải rời khỏi nhà lúc mười giờ.”
Đầu dây bên kia phát ra một âm thanh than vãn và nói không chắc lắm, nhưng họ sẽ thử xem sao. Nếu họ không thể đến trước mười giờ thì tốt hơn là anh không nên rời khỏi nhà.
“Được rồi,” Tom nói một cách chấp thuận và dập máy. Chết tiệt! Giờ thì anh sẽ nhỡ cả tàu lẫn thuyền. Tất cả những gì anh muốn là ra ngoài, rời Rome và rời cả căn hộ của mình. Anh bắt đầu tập dượt những gì mình sẽ khai với cảnh sát. Nó thật đơn giản đến mức làm anh phát chán. Sự thật tuyệt đối. Họ đã uống rượu, Freddie kể cho anh về Cortina, họ cũng nói rất nhiều chuyện, rồi anh ta ra về, có thể là hơi say nhưng tâm trạng rất vui vẻ. Không, anh không biết Freddie đã đi đâu. Anh cứ tưởng anh ta có hẹn tối hôm đó.
Tom vào phòng ngủ và đặt bức tranh sơn dầu mà anh đã bắt đầu vẽ cách đây vài ngày lên giá. Màu vẽ trên khay vẫn còn ướt vì anh đã cất nó dưới nước trong một cái chảo trong bếp. Anh trộn một ít màu xanh với màu trắng và bắt đầu điểm thêm bầu trời màu xanh xám. Bức tranh vẫn theo phong cách của Dickie – các mái nhà và bức tường mang sắc nâu đỏ rực và trắng lóa lấy cảm hứng từ khung cảnh Rome ngoài cửa sổ phòng anh. Bầu trời là điểm khác biệt duy nhất, vì bầu trời mùa đông ở đây u ám đến mức Dickie hẳn cũng sẽ vẽ nó thành màu xám xanh thay vì màu xanh dương, Tom nghĩ. Anh cau mày, hệt như cách Dickie vẫn làm mỗi khi vẽ.
Điện thoại lại reo. “Chết tiệt!” Tom rủa và đi nghe máy.
“Tôi nghe.”
“Xin chào! Fausto đây!” Giọng nói vang lên. “Anh khỏe không?” Sau đó là tiếng cười trẻ trung, rộn ràng quen thuộc.
“Oh- h! Fausto! Tôi khỏe, cảm ơn anh! Thứ lỗi nhé.” Tom tiếp tục nói tiếng Ý bằng giọng cười đùa, lơ đễnh của Dickie, “Tôi đang tập trung vẽ - đang cố gắng.” Nó được tính toán để nghe giống giọng của Dickie sau khi mới mất một người bạn như Freddie và cũng là giọng của Dickie vào một buổi sáng miệt mài làm việc thông thường.
“Chúng ta ăn trưa nhé?” Fausto hỏi. “Tàu của tôi sẽ khởi hành tới Milan lúc bốn giờ mười lăm.”
Tom rên rỉ, hệt như Dickie. “Tôi lại đang chuẩn bị đến Naples. Phải, ngay bây giờ, sau hai mươi phút nữa!” Nếu anh có thể trốn Fausto bây giờ thì anh ta sẽ không biết cảnh sát đã gọi anh, Tom nghĩ. Tin tức về Freddie chắc phải đến trưa hoặc chiều mới lên báo.
“Nhưng tôi đang ở đây! Ở Rome! Nhà anh ở đâu? Tôi đang ở ga tàu!” Fausto nói vui vẻ, cười lớn.
“Anh lấy được số điện thoại của tôi ở đâu thế?”
“À! Tôi đã gọi hỏi thông tin. Họ bảo tôi là họ sẽ không tiết lộ số điện thoại đâu nhưng tôi đã kể cho cô nàng trực điện thoại một câu chuyện dài về tấm vé số mà anh trúng ở Mongibello. Tôi không biết liệu cô ấy có tin không nhưng tôi đã tỏ ra đó là một chuyện rất quan trọng. Một cái nhà, một con bò, một giếng nước và thậm chí cả tủ lạnh nữa! Tôi đã phải gọi lại cho cô ấy ba lần, cuối cùng cô ấy mới tiết lộ cho tôi. Vậy Dickie, giờ anh ở đâu thế?”
“Điều đó không quan trọng. Tôi sẽ ăn trưa với anh nếu không có chuyến tàu này, nhưng-”
“Được rồi, tôi sẽ giúp anh mang túi! Cứ báo cho tôi địa chỉ của anh và tôi sẽ đưa một cái taxi đến chỗ anh!”
“Thời gian gấp quá. Sao tôi không gặp anh ở ga tàu trong khoảng nửa tiếng nữa nhỉ? Tôi đi chuyến tàu lúc mười giờ ba mươi tới Naples.”
“Được!”
“Marge sao rồi?”
“À - người yêu của anh,” Fausto cười. “Anh sẽ gặp cô ấy ở Naples chứ?”
“Tôi không nghĩ vậy. Tôi sẽ gặp anh sau vài phút nữa, Fausto. Phải đi gấp đây. Tạm biệt.”
“Rivederch, Deeki! Tạm biệt!” Anh ta dập máy.
Khi Fausto đọc báo chiều hôm đó, anh ta sẽ hiểu vì sao anh không đến ga tàu, mà không thì Fausto cũng sẽ chỉ nghĩ họ đã bị lạc nhau sao đó. Nhưng chắc là đến trưa Fausto sẽ đọc được báo thôi, Tom nghĩ, vì các tờ báo Ý sẽ phóng đại nó lên – vụ sát hại một công dân Mỹ trên đường Appian. Sau cuộc lấy cung với cảnh sát, anh sẽ lên một con tàu khác tới Naples – sau bốn giờ, để Fausto không còn lảng vảng ở ga tàu nữa – và ở Naples chờ con thuyền tiếp theo khởi hành tới Majorca.
Anh chỉ hy vọng là Fausto sẽ không mò được cả địa chỉ từ tổng đài cung cấp thông tin và quyết định sẽ ghé qua đây trước bốn giờ. Anh hy vọng anh ta sẽ không đến đây đúng lúc có mặt cảnh sát.
Tom đẩy hai vali xuống dưới gầm giường rồi mang cái còn lại ra tủ và đóng cửa tủ lại. Anh không muốn cảnh sát nghĩ rằng anh chuẩn bị rời thành phố. Nhưng anh lo lắng về cái gì vậy nhỉ? Chắc chắn họ chẳng có manh mối nào. Có thể một người bạn của Freddie biết là ngày hôm qua Freddie tìm gặp anh, nhưng chỉ có thế. Tom lấy một cái bàn cọ và làm ướt nó trong cốc dầu thông. Để làm màu trước mặt cảnh sát, anh muốn trông như thể mình không quá sầu thảm trước tin Freddie chết đến mức không thể vẽ vời đôi chút trong khi chờ họ, dù anh đã ăn vận để sẵn sàng ra ngoài, bởi vì anh đã nói mình định ra ngoài. Anh sẽ vào vai một người bạn của Freddie, nhưng không phải một người bạn quá thân thiết.
Bà Buffi cho cảnh sát vào lúc mười giờ ba mươi. Tom nhìn xuống cầu thang và thấy họ. Họ không dừng lại để hỏi han bà ta. Tom quay vào căn hộ của mình. Mùi dầu thông hăng hắc tỏa khắp phòng.
Có hai người: một người lớn tuổi mặc trang phục sĩ quan và một người trẻ hơn mặc đồng phục cảnh sát bình thường. Người lớn tuổi lịch sự chào anh và hỏi xem hộ chiếu của anh. Tom trình nó ra, đôi mắt sắc bén của viên sĩ quan hết nhìn Tom lại nhìn hình Dickie và anh chuẩn bị tinh thần nghe chất vấn, nhưng nó không xảy ra. Ông ta trả lại hộ chiếu cho anh, hơi cúi người chào và mỉm cười. Ông ta trông giống như mọi người đàn ông trung niên Ý khác, hơi thấp, hàng lông mày và bộ ria ngắn rậm rạp màu xám đen. Trông ông ta không quá thông minh cũng không quá ngu ngốc.
“Anh ấy đã bị giết như thế nào?” Tom hỏi.
“Anh ta bị đập vào đầu và gáy bởi một vật nặng,” viên sĩ quan đáp, “và còn bị cướp nữa. Chúng tôi nghĩ anh ta đã say. Chiều hôm qua khi rời khỏi căn hộ của anh, anh ta có say lắm không?”
“À – ngà ngà say. Cả hai bọn tôi đều uống rượu. Chúng tôi đã uống martini và Pernod.”
Viên sĩ quan ghi lại thông tin đó vào sổ và ghi thêm cả khoảng thời gian mà Tom khai Freddie đã ở nhà anh, từ khoảng mười hai giờ cho tới tầm sáu giờ.
Viên cảnh sát trẻ, đẹp trai với khuôn mặt vô cảm, đang đi quanh căn hộ, tay chắp sau lưng, cúi xuống gần giá vẽ với vẻ thư thái như thể đang ở một mình trong bảo tàng.
“Anh có biết anh ta định đi đâu khi ra về không?” Viên sĩ quan hỏi.
“Tôi không biết.”
“Nhưng anh nghĩ là anh ấy có thể lái xe chứ?”
“Có chứ. Anh ấy không say đến mức không thể lái xe, không thì tôi đã đi cùng anh ấy rồi.”
Viên sĩ quan hỏi thêm một câu nữa mà Tom giả vờ không hiểu lắm. Ông ta hỏi lại lần hai, chọn cách dùng từ khác và thoáng cười với viên sĩ quan trẻ. Tom liếc nhìn hai người bọn họ, có phần ghét bỏ. Viên sĩ quan muốn biết quan hệ của anh với Freddie là gì.
“Bạn bè,” Tom nói. “Không thân thiết lắm. Đã hai tháng nay tôi không gặp hay nghe tin gì từ anh ấy rồi. Tôi đã buồn khủng khiếp lúc biết về thảm họa ấy sáng nay.” Tom để vẻ mặt lo lắng bù đắp cho vốn từ có phần đơn giản của mình. Anh nghĩ là nó có tác dụng. Anh thấy việc thẩm vấn có phần chiếu lệ và họ sẽ rời đi trong khoảng một phút nữa. “Chính xác thì anh ấy đã bị giết lúc mấy giờ?” Tom hỏi.
Viên sĩ quan vẫn đang ghi chép. Ông ta rướn hàng lông mày rậm rạp lên. “Rõ ràng là ngay sau khi anh ta rời khỏi nhà của anh, vì bác sĩ tin rằng anh ta đã chết được ít nhất mười hai tiếng rồi, có thể còn lâu hơn.”
“Anh ấy được tìm ra lúc nào vậy?”
“Lúc bình minh. Bởi một người lao động đang đi bộ trên đường.”
“Chúa ơi!” Tom lầm bầm.
“Hôm qua anh ta không hề đề cập tới việc đi dạo ở đường Appian khi rời khỏi nhà anh à?”
“Không,” Tom nói.
“Vậy hôm qua anh đã làm gì sau khi anh Mee-lays ra về?”
“Tôi đã ở đây,” Tom nói, ra hiệu bằng hai tay như Dickie sẽ làm, “rồi tôi ngủ một lúc, sau đó ra ngoài đi dạo vào khoảng tám giờ hay tám giờ rưỡi gì đó.” Một người đàn ông sống trong nhà, tên thì Tom không biết, đã thấy anh vào nhà tối qua lúc chín giờ kém mười lăm và họ đã chào nhau.
“Anh tản bộ một mình à?” “Phải.”
“Anh Mee-lays cũng đã rời khỏi đây một mình sao? Anh ta không đi gặp ai đó mà anh quen à?”
“Không. Anh ấy không nói gì.” Tom tự hỏi Freddie có người bạn nào ở cùng trong khách sạn, hay bất kỳ nơi nào mà anh ta đã ở không. Tom hy vọng cảnh sát không để anh đối chứng với bất kỳ người bạn nào của Freddie có thể quen Dickie. Giờ thì tên anh – Richard Greenleaf – sẽ xuất hiện trên báo Ý, cả địa chỉ của anh nữa, Tom nghĩ. Anh sẽ phải chuyển nhà. Thật kinh khủng. Anh tự rủa mình. Viên sĩ quan nhìn thấy, nhưng nó trông chỉ như một tiếng lầm bầm chửi thề số phận buồn thảm đã giáng xuống đầu Freddie, Tom nghĩ.
“Vậy -” Viên sĩ quan nói, mỉm cười và đóng quyển sổ của mình lại.
“Ông nghĩ kẻ gây án là -” Tom cố gắng nghĩ ra từ dành cho bọn lưu manh “- bọn du côn, đúng không? Có manh mối nào không?”
“Giờ chúng tôi đang tìm dấu vân tay trên xe. Kẻ sát nhân có thể là một người mà anh ta cho đi nhờ xe. Sáng nay chiếc xe đã được phát hiện gần quảng trường Spagna. Chúng tôi hẳn sẽ có manh mối nào đó trước tối nay. Cảm ơn anh rất nhiều, anh Greenleaf.”
“Không có gì! Nếu tôi có thể trợ giúp gì thêm -”
Viên sĩ quan đang ra đến cửa thì quay lại. “Chúng tôi có thể tìm anh ở đây trong vài ngày tới, trong trường hợp cần hỏi gì thêm không?”
Tom ngập ngừng. “Ngày mai tôi định tới Majorca.” “Nhưng những câu hỏi có thể liên quan tới việc nhận dạng ai là ai, người đó có thể là nghi phạm không,” viên sĩ quan giải thích. “Anh có thể cho chúng tôi biết mối liên quan giữa người đó với người đã mất như thế nào.” Ông ta ra dấu.
“Được thôi. Nhưng tôi không nghĩ mình biết rõ anh
Miles lắm. Có thể anh ấy có những người bạn thân thiết hơn trong thành phố đấy.”
“Ai?” Viên sĩ quan đóng cửa lại và lấy sổ ra.
“Tôi không biết,” Tom nói. “Tôi chỉ biết anh ấy có vài người bạn ở đây, những người hiểu rõ anh ấy hơn tôi.”
“Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi vẫn mong có thể liên lạc được với anh trong mấy ngày tới,” ông ta bình tĩnh nhắc lại, như thể không cần phải tranh cãi thêm về việc đó với Tom, cho dù anh có là người Mỹ đi nữa. “Chúng tôi sẽ báo cho anh biết ngay khi anh có thể đi. Tôi rất tiếc nếu anh đã lên kế hoạch cho chuyến du lịch. Có lẽ vẫn còn thời gian để hủy đấy. Chúc một ngày tốt lành, anh Greenleaf.”
“Chúc một ngày tốt lành.” Tom đứng yên ở đó sau khi họ đã ra về. Anh nghĩ mình có thể chuyển ra khách sạn nếu anh báo cho cảnh sát biết khách sạn đó ở đâu. Anh không muốn bạn bè của Freddie hay bất kỳ bạn bè nào của Dickie tới thăm sau khi họ thấy địa chỉ của anh trên mặt báo. Anh cố gắng đánh giá biểu hiện của mình từ góc độ của cảnh sát. Họ không hề chất vấn gì anh cả. Anh không thể hiện vẻ hoảng sợ trước tin Freddie chết, nhưng điều đó khớp với việc anh cũng không hẳn là một người bạn thân đặc biệt của anh ta. Phải, mọi chuyện không tệ lắm, chỉ trừ việc anh luôn phải sẵn sàng đợi lệnh.
Điện thoại reo nhưng Tom không nghe máy, vì anh có cảm giác đó là Fausto đang gọi anh từ ga tàu. Bây giờ là mười một giờ năm phút và tàu tới Naples hẳn đã rời bến. Khi điện thoại ngừng reo, Tom nhấc máy lên và gọi tới khách sạn Inghilterra. Anh đặt một phòng, thông báo mình sẽ có mặt sau khoảng nửa tiếng nữa. Rồi anh gọi tới đồn cảnh sát – anh nhớ nó là đồn số tám mươi ba – và sau gần mười phút vất vả vì không thể tìm được ai biết hoặc thèm quan tâm xem Richard Greenleaf là ai, anh cũng đã để lại được một tin nhắn báo rằng họ có thể tìm được anh Richard Greenleaf ở Albergo Inghilterra, trong trường hợp cảnh sát muốn gặp anh.
Chưa đầy một tiếng sau anh đã đến khách sạn. Ba vali của anh, hai trong số đó là của Dickie còn một cái của anh, khiến anh phiền muộn: anh đã xếp vali cho một mục đích hoàn toàn khác. Thế mà giờ lại thế này!
Buổi trưa anh ra ngoài mua báo. Mọi tờ báo đều đưa tin đó: MỘT NGƯỜI MỸ BỊ SÁT HẠI KINH HOÀNG TRÊN ĐƯỜNG APPIAN… VỤ GIẾT NGƯỜI RÙNG RỢN TỐI QUA Ở APPIAN: NẠN NHÂN FREDERICK MILES LÀ NGƯỜI MỸ… PHÁT HIỆN MỘT NGƯỜI MỸ CHẾT CHƯA RÕ NGUYÊN NHÂN Ở ĐƯỜNG APPIAN… Tom đọc từng từ một. Thật sự không có một manh mối nào, ít nhất là chưa, không dấu vết, không dấu vân tay, không nghi phạm. Nhưng mọi tờ báo đều đề tên Herbert Richard Greenleaf và đăng địa chỉ của anh là nơi cuối cùng người ta thấy Freddie. Tuy nhiên, không một bài viết nào ám chỉ rằng Herbert Richard Greenleaf nằm trong diện tình nghi. Các tờ báo đều nói rằng Miles rõ ràng đã uống vài ly rượu này rượu kia, đúng đặc trưng phong cách đưa tin của báo Ý, tất cả đều được liệt kê ra từ americano cho tới rượu scotch whiskey, brandy, sâm-panh, lẫn rượu nho Ý. Chỉ có gin và Pernod nằm ngoài danh sách.
Tom ở lại trong phòng khách sạn qua giờ ăn trưa, đi đi lại lại trong phòng, cảm thấy phiền muộn và bị mắc kẹt. Anh gọi điện cho văn phòng du lịch ở Rome, nơi đã bán cho anh vé tới Palma và tìm cách hủy vé. Anh sẽ được nhận lại hai mươi phần trăm số tiền đã trả, họ nói. Trong khoảng năm ngày tới không còn con thuyền nào tới Palma nữa.
Khoảng hai giờ chiều, điện thoại của anh réo liên hồi. “Xin chào,” Tom trả lời bằng giọng lo lắng, bực bội của Dickie.
“Chào, Dick. Van Houston đây.”
“Ồ,” Tom nói như thể quen biết anh ta, vậy nhưng nó chẳng truyền đi một chút ngạc nhiên hay ấm áp nào.
“Anh thế nào rồi? Lâu lắm rồi đấy nhỉ,” giọng nói khàn khàn, căng thẳng hỏi.
“Chắc chắn rồi. Anh đang ở đâu đấy?”
“Ở Hassler. Tôi đã kiểm tra vali của Freddie cùng cảnh sát. Nghe này, tôi muốn gặp anh. Hôm qua có vấn đề gì với Freddie vậy? Anh biết đấy, tôi đã cố gắng tìm anh suốt tối qua, vì Freddie đáng nhẽ phải về khách sạn lúc sáu giờ. Tôi không có địa chỉ của anh. Chuyện gì đã xảy ra hôm qua vậy?”
“Giá như tôi biết được! Freddie đã rời nhà tôi lúc khoảng sáu giờ. Bọn tôi đều đã uống kha khá martini, nhưng trông anh ấy vẫn đủ khả năng lái xe, không thì theo lẽ tự nhiên, tôi đã chẳng để anh ấy đi. Freddie bảo để xe dưới nhà. Tôi không thể tưởng tượng nổi chuyện gì đã xảy ra, chắc có lẽ anh ấy đã cho ai đó đi nhờ xe, rồi kẻ đó chĩa súng vào anh ấy hoặc sao đó.”
“Nhưng anh ấy không bị giết bằng súng. Tôi đồng ý với anh là có kẻ hẳn đã ép anh ấy lái xe ra ngoài đó, hoặc anh ấy đã bị làm ngất, vì anh ấy sẽ phải băng qua cả thành phố mới tới được đường Appian. Hassler thì chỉ cách nơi anh sống vài khu phố.”
“Anh ấy đã bao giờ bị mù tạm thời chưa? Khi đang lái xe ấy?”
“Nghe này, Dickie, tôi có thể gặp anh không? Giờ tôi đang rảnh, chỉ có điều hôm nay tôi không được phép rời khỏi khách sạn.”
“Tôi cũng vậy.”
“Thôi nào. Cứ để lại tin nhắn báo nơi anh sẽ đến và qua đây.”
“Tôi không thể, Van. Cảnh sát sẽ tới trong khoảng một tiếng nữa và tôi phải có mặt ở đây. Sao lát nữa anh không gọi lại cho tôi nhỉ? Tôi có thể gặp anh tối nay.”
“Được rồi. Mấy giờ?”
“Gọi cho tôi vào khoảng sáu giờ nhé.”
“Được. Giữ vững tinh thần nhé, Dickie.” “Anh cũng vậy nhé.”
“Gặp anh sau,” giọng nói vang lên yếu ớt.
Tom dập máy. Lúc cuối giọng Van như thể anh ta sắp khóc tới nơi. “Xin chào?” Tom nói, bấm máy để nối với tổng đài khách sạn. Anh để lại tin nhắn báo rằng anh sẽ không tiếp ai trừ cảnh sát và họ không được cho bất kỳ người nào lên gặp anh cả. Tuyệt đối không một ai.
Sau đó điện thoại không hề reo suốt cả chiều. Khoảng tám giờ, khi trời đã tối, Tom đi xuống tầng để mua số báo chiều. Anh nhìn quanh cái sảnh nhỏ xíu, nhìn vào cửa quầy bar nằm ngay cạnh hành lang chính của khách sạn, tìm xem liệu có ai đó có thể là Van không. Anh đã chuẩn bị tinh thần cho tất cả mọi chuyện, thậm chí sẵn sàng nhìn thấy Marge đang ngồi đó đợi anh, nhưng anh chẳng thấy ai, kể cả một người trông giống cảnh sát. Anh mua tờ báo chiều và ung dung ngồi đọc trong một nhà hàng nhỏ cách đó vài con phố. Vẫn không có manh mối. Anh biết thêm một số thông tin trên báo rằng Van Houston là bạn thân của Freddie, hai tám tuổi, dành một kỳ nghỉ đi du lịch cùng anh ta từ Áo tới Rome và trạm cuối ở Florence, nơi mà cả Miles và Houston đều có nhà. Người ta đã thẩm vấn ba thanh niên Ý, hai đứa mười tám và một đứa mười sáu tuổi, vì nghi ngờ chúng đã gây ra “hành vi ghê sợ” đó, nhưng rồi chúng cũng được thả ra. Tom nhẹ nhõm khi đọc được rằng không tìm thấy dấu vân tay nào được xem là mới hay hữu ích trên chiếc “Fiat 1400 mui trần màu đen của Miles.”
Tom từ tốn ăn món đùi cừu, nhấp rượu và đọc lướt qua mọi cột báo để xem có tin giờ chót nào không, thỉnh thoảng vẫn có những tin tức được đưa lên báo Ý ngay trước khi chúng được đem đi in. Anh không tìm thấy gì về vụ án của Miles nữa. Nhưng ở trang cuối cùng của tờ báo cuối cùng anh thấy:
PHÁT HIỆN VẾT MÁU TRÊN XÁC TÀU ĐẮM GẦN SAN REMO
Anh đọc vội vàng, cảm thấy còn hãi hùng hơn cả lúc đem vứt xác của Freddie hay lúc cảnh sát thẩm vấn. Đây như một quả báo, một cơn ác mộng thành sự thật, đến tiêu đề bài báo cũng có ý nghĩa như vậy. Chiếc xuồng được miêu tả chi tiết và nó gợi lại cảnh tượng đấy trong anh, Dickie ngồi ở đuôi tàu điều khiển động cơ, Dickie cười với anh, cơ thể Dickie chìm xuống nước với những bong bóng nổi lên. Bài báo nói các vết ố bị nghi là vết máu, chứ chưa chắc chắn. Nó không nói cảnh sát hay ai đó định làm gì với con xuồng. Nhưng cảnh sát sẽ làm gì đó, Tom nghĩ. Người giữ thuyền có thể báo cho họ biết cái ngày con xuồng mất tích. Sau đó cảnh sát có thể kiểm tra các khách sạn. Ông chủ thuyền người Ý thậm chí còn có thể nhớ ra có hai người Mỹ không mang thuyền đem trả. Nếu cảnh sát chịu khó kiểm tra những người đăng ký ở khách sạn trong khoảng thời gian đó, cái tên Richard Greenleaf sẽ nổi lên bần bật như một lá cờ đỏ. Trong trường hợp như vậy, tất nhiên, Tom Ripley sẽ là người mất tích và người có thể bị giết vào hôm đó. Trí tưởng tượng của Tom lao đi theo vài hướng khác nhau: giả sử họ tìm kiếm xác của Dickie và tìm ra thì sao? Giờ thì nó sẽ được xem là xác của Tom Ripley. Dickie sẽ bị tình nghi là kẻ giết người. Vậy thì Dickie cũng sẽ bị nghi đã giết Freddie. Qua một đêm Dickie sẽ bị xem là “loại người nguy hiểm.” Mặt khác, ông chủ thuyền người Ý có thể không nhớ ra là ngày hôm đó, một trong những chiếc thuyền của ông ta đã không được đem trả. Mà dù ông ta có nhớ thì cảnh sát cũng chưa chắc sẽ kiểm tra khách sạn. Họ có thể không thấy hứng thú với việc đó lắm. Có thể có hoặc có thể không.
Tom gấp các tờ báo lại, trả hóa đơn và đi ra ngoài.
Anh hỏi bàn lễ tân xem có tin nhắn nào gửi cho mình hay không.
“Vâng thưa ông. Có bốn lời nhắn. -” Nhân viên lễ tân trải chúng ra trên mặt bàn trước mặt anh như một người chơi bài đặt xuống một bộ bài thắng cuộc.
Hai tin nhắn từ Van. Một tin nhắn từ Robert Gilbertson. (Không phải có một người tên Robert Gilbertson trong sổ địa chỉ của Dickie sao? Nhớ kiểm tra.) Một từ Marge. Tom cầm nó lên và đọc tiếng Ý một cách cẩn thận: cô Sherwood đã gọi điện lúc ba giờ ba mươi lăm phút chiều và sẽ gọi lại. Cuộc điện thoại được gọi từ Mongibello.
Tom gật đầu và nhặt chúng lên. “Cảm ơn nhiều.” Anh không thích ánh mắt của người lễ tân sau bàn. Người Ý thật tò mò quá thể!
Ở trên gác, anh ngồi sụp xuống trong một cái ghế bành, hút thuốc và ngẫm nghĩ. Anh đang cố phán đoán một cách logic xem nếu anh án binh bất động thì chuyện gì sẽ xảy ra, anh có thể làm gì để mọi chuyện diễn ra theo ý mình. Nhiều khả năng Marge sẽ tới Rome. Rõ ràng là cô ta đã gọi cho cảnh sát Rome để xin địa chỉ của anh. Nếu cô ta xuất hiện thì anh sẽ phải gặp cô ta với tư cách là Tom, cố gắng thuyết phục cô ta là Dickie tạm thời đi vắng, như anh đã làm với Freddie. Và nếu anh thất bại – Tom xoa lòng bàn tay vào nhau một cách lo lắng. Anh không được gặp Marge, đành thế. Nhất là không phải bây giờ khi vụ chiếc xuồng đang nổi lên. Mọi thứ sẽ loạn hết lên nếu anh gặp cô ta. Nó sẽ kết thúc tất cả! Nhưng nếu anh có thể ở yên một chỗ thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra hết. Thời điểm này hơi khó khăn với vụ khủng hoảng nho nhỏ của cái thuyền và vụ sát hại Freddie Miles chưa được phá, anh nghĩ. Nhưng chắc chắn sau đó mọi thứ sẽ lại êm xuôi, sẽ không có chuyện gì xảy ra với anh hết, nếu anh tiếp tục nói và làm những điều đúng đắn với tất cả mọi người. Rồi anh sẽ tới một nơi nào đó xa, thật xa, Hy Lạp hoặc Ấn độ. Ceylon. Bất cứ nơi nào mà không một người bạn cũ nào có thể tới gõ cửa nhà anh hết. Anh đúng là ngớ ngẩn khi nghĩ mình có thể ở lại Rome! Sao không dọn tới nhà ga trung tâm hoặc đưa mình ra triển lãm ở bảo tàng Louvre cho rồi!
Anh gọi điện đến ga Termini, hỏi về chuyến tàu tới Naples ngày mai. Có bốn đến năm chuyến. Anh ghi lại thời gian của tất cả các chuyến. Phải năm ngày nữa mới có tàu từ Naples đi Majorca và anh sẽ dành thời gian đó ở Naples, anh nghĩ. Tất cả những gì anh cần là lệnh thả của cảnh sát và nếu ngày mai vẫn không có chuyện gì xảy ra thì anh sẽ được phép ra đi. Họ không thể cứ giữ một người lại mãi khi thậm chí còn chẳng có một nghi vấn nào, chỉ để thỉnh thoảng thẩm vấn anh ta vài câu! Anh bắt đầu cảm thấy ngày mai mình sẽ được thả, việc đó hoàn toàn hợp logic thôi.
Anh lại nhấc điện thoại lên và báo với tổng đài viên là nếu cô Marjorie Sherwood gọi lại thì anh sẽ nhận. Nếu cô ta gọi lại thì trong vòng hai phút anh có thể thuyết phục cô ta rằng mọi chuyện đều ổn, vụ sát hại Freddie chẳng dính dáng gì tới anh, việc anh chuyển ra khách sạn chỉ để tránh những cuộc gọi phiền nhiễu từ đủ kẻ xa lạ, mà vẫn nằm trong tầm kiểm soát của cảnh sát phòng trường hợp họ muốn anh nhận diện bất kỳ nghi phạm nào mà họ phát hiện ra. Anh sẽ bảo với cô ta là mai hoặc ngày kia anh sẽ bay tới Hy Lạp, vậy nên cô ta có tới Rome cũng chẳng ích gì hết. Hiển nhiên là anh có thể bay từ Rome tới Palma, anh nghĩ. Trước đây anh thậm chí còn chẳng nghĩ tới điều đó.
Anh mệt mỏi nằm xuống giường, nhưng chưa sẵn sàng thay đồ, vì anh có linh cảm một chuyện gì đó sẽ diễn ra tối nay. Anh cố gắng tập trung vào Marge. Anh tưởng tượng ra lúc này cô ta đang ngồi ở Giorgio, hoặc tự thưởng cho mình một cốc Tom Collin ở quán Miramare, đắn đo xem có nên gọi lại cho anh hay không. Anh có thể thấy đôi lông mày cau lại, mái tóc xõa tung khi cô ta ngồi đăm chiêu nghĩ về chuyện có thể đang xảy ra ở Rome. Cô ta sẽ ngồi một mình một bàn, không tán gẫu với ai hết. Anh thấy cô ta đứng dậy, đi về nhà, xếp một vali và đón chuyến xe buýt trưa mai. Anh ở đó trên con đường trước bưu điện, hét lên bảo cô ta đừng đi, cố ngăn cản xe buýt, nhưng nó vẫn cứ lăn bánh…
Cảnh tượng ấy tan ra trong một đốm xám pha vàng xoáy tròn, màu của cát ở Mongibello. Tom thấy Dickie cười với mình, mặc đúng bộ vest nhung mà anh ta đã mặc ở San Remo. Bộ vest ướt đẫm, cà vạt nhỏ nước tong tỏng. Dickie cúi xuống, lắc anh. “Tôi đã bơi!” Anh ta nói. “Tom, tỉnh dậy đi! Tôi vẫn ổn! Tôi đã bơi! Tôi còn sống!” Tom vặn người tránh khỏi sự động chạm của anh ta. Anh nghe tiếng Dickie cười mình, tiếng cười trầm và vui vẻ. “Tom!” Giọng nói ấy ngày một trầm hơn, giàu âm sắc hơn, hay hơn hẳn những gì Tom có thể mô phỏng được. Anh nhổm dậy. Cơ thể anh nặng như chì và chậm chạp, như thể anh đang cố nhấc mình lên khỏi vùng nước sâu.
“Tôi đã bơi!” Giọng của Dickie lại vang lên, ngân vang trong tai Tom như thể anh nghe thấy nó qua một đường hầm dài.
Tom nhìn quanh phòng, tìm kiếm Dickie trong quầng sáng vàng dưới cây đèn, trong bóng tối cạnh tủ quần áo cao sừng sững. Tom cảm thấy đôi mắt của mình mở to, hoảng hốt và dù biết nỗi sợ bây giờ thật vô lý, anh vẫn tiếp tục tìm kiếm Dickie khắp nơi, dưới tấm rèm khép hờ nơi cửa sổ, trên sàn nhà bên kia giường. Anh dựng dậy, băng qua phòng, mở một cửa sổ ra. Rồi mở tiếp một ô cửa sổ khác. Anh cảm thấy say thuốc. Có kẻ nào đó đã cho thứ gì vào rượu vang của mình, đột nhiên anh nghĩ. Anh quỳ xuống dưới cửa sổ, hít không khí lạnh giá vào, chống lại cảm giác chuếnh choáng như thể có thứ gì đó sẽ chiếm lấy anh nếu anh không cố gắng hết sức. Cuối cùng anh vào phòng tắm, hắt nước lên mặt cho tỉnh táo. Cảm giác chuếnh choáng dần biến mất. Anh biết mình không bị chuốc thuốc. Anh đã để trí tưởng tượng của mình đi quá xa. Anh đã mất kiểm soát.
Anh đứng thẳng dậy và bình tĩnh cởi cà vạt ra. Anh cử động hệt như Dickie, thay đồ, tắm rửa, mặc đồ ngủ và nằm xuống giường. Anh cố nghĩ đến những gì Dickie sẽ nghĩ. Mẹ anh ta. Bức thư gần đây nhất của bà đính kèm hai bức ảnh của bà và ông Greenleaf ngồi uống cà phê trong phòng khách, cảnh tượng hệt như anh nhớ từ buổi tối đến nhà họ dùng bữa. Bà Greenleaf bảo rằng ông Herbert đã tự chụp bức ảnh đó bằng cách bóp một cái bầu. Tom bắt đầu soạn bức thư kế tiếp để gửi họ. Họ hài lòng vì anh viết thư thường xuyên hơn. Anh phải trấn an họ về vụ Freddie, vì họ cũng biết anh ta. Trong một bức thư bà Greenleaf từng hỏi thăm Freddie Miles. Nhưng Tom vẫn căng tai chờ điện thoại trong lúc cố soạn thư và anh không thể thật sự tập trung.