Tôi có mặt lúc ông Nghi lâm chung. Là lính từng hàng chục lần vác xẻng đi đào huyệt chôn cất đồng đội trong rừng, không lạ cái chết, nhưng ông Nghi lăn lóc mãi, mắt nhắm nghiền, miệng khò khè vừa thở dốc vừa gọi Bua, hai tay chới với như cố tìm hơi ấm người đàn bà ông đợi, tôi cứ đầy trong ngực. Lúc đấy ông nghĩ gì, hối hận hay nuối tiếc, không ai biết. Chỉ có điều, tôi nghĩ, chắc chắn ở giây cuối cùng của đời người, Bua là cái tên thân thiết nhất với ông. Buồn sao, Bua lại không ở đây. Để ông đi thanh thản, anh em phải nhờ cô y tá của Trung tâm Điều dưỡng ôm lấy ông, thì thầm vào tai: “Em đây, Bua đây”. Không biết ông có nghe thấy tiếng cô y tá không, có cảm thấy lồng ngực ấm nóng của cô y tá không mà tay ông níu giữ lưng cô y tá, thở nhẹ dần rồi ngừng, không trăng trối lời nào. Gia sản ông để lại, xếp không đầy chiếc ba lô cóc. Tôi nhận cuốn ghi chép đủ thứ chuyện ở Lào của ông để sau này chuyển lại cho Bua.
Còn bây giờ là buổi sáng khởi hành mát lành.
Cao nguyên thanh tân trở lại sau những năm tháng chiến tranh bụi bặm lùi xa. Cây cỏ sinh sôi xanh mướt mát, khâu kín những nứt nẻ bom đạn dưới khung trời xanh cao không một gợn mây. Có lần tôi đi trong đoàn đại biểu quân sự Việt Nam đến thăm ông Cay-xỏn Phôm-vi-hản - Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, nghe ông nói: “Các anh nên đến Cánh Đồng Chum, chỉ hít thở không khí ở đó, người cũng thấy khỏe lại”. Ê-ga Bua, nhà tình báo Mỹ ở Lào nhiều năm chỉ chúi mũi vào chiến tranh và kích động phe phái, nhưng cũng có lúc ngẩng mặt lên mà thừa nhận, không nơi nào ở xứ Đông Dương thiên nhiên trong suốt như Cánh Đồng Chum. Đúng là trong suốt. Không gian thảo nguyên rộng mở, không vật cản, luồng không khí rười rượi tràn ngập vào lồng ngực, làm tôi bừng tỉnh. Trên vòm trời chan chứa ánh nắng có những đốm sáng nhấp nháy. Những đốm sáng hiện hình dần là những con chim đại bàng đất. Loài chim làm chủ cao nguyên mùa khô mạnh mẽ ghê gớm, ngày hai lần bay chếch nắng, từ Nam sang Bắc rồi từ Bắc quay về Nam như là để đọ sức với nắng gió hơn là kiếm sống. Thiên nhiên hùng vĩ, chim chóc trong môi trường ấy cũng khỏe khoắn tương xứng.
Những con đại bàng bay vút qua đầu tôi, dũng mãnh và đẹp lạ thường. Tôi nói với Bua, theo cách nói hay ví von của người Lào, rằng ông Nghi cũng là con đại bàng, bay từ Đông sang Tây, may mắn đậu xuống tay Bua. Bua lại không nghĩ về ông Nghi cụ thể, mà nghĩ về hồn, Bua gọi là vong của ông. Bua bảo, từ khi thỉnh vong ông Nghi ở Trung tâm Điều dưỡng Quảng Bình về chùa Phu Kẹt, vong nhập vào một ngôi sao chứ không nhập vào Bua. Nhiều đêm Bua ngửa mặt nhìn sao, nhắc đến ông Nghi thì ngôi sao bỗng sáng xanh, đến nỗi ngồi ở sân nhà cũng có thể xỏ kim khâu áo.
Tôi theo Bua lên chùa Phu Kẹt để nghe cô hỏi về ngôi sao và nghe câu giảng của sư thầy.
Ở Lào nhà sư là đại diện tinh thần cho dân chúng. Nhà sư khổ hạnh nhưng thông tuệ, có trái tim rộng lượng và bao quát, chia sẻ và nâng dắt mọi kiếp người. Nhà sư nằm ở ngôi cao nhất trong tâm trí người Lào.
Bua thiết lễ đồ chay, xôi trắng, muối trắng và hoa sở trắng muốt, rồi ngồi khiêm cung ở góc chiếu, hai tay chắp trước ngực, chờ nghe sư thầy giảng giải về sao. Nhìn gương mặt từ bi của Bua, tôi có cảm giác cô có thể ngồi nhiều ngày, thậm chí cả một phần đời còn lại như thế kia để được nghe sư thầy nói về ngôi sao của cô.
Bua ngồi trước ban thờ gợi tôi nhớ đến mẹ ngồi chắp tay trước Phật Bà Quan Âm ở chùa làng Bầu. Có hai nơi mẹ tôi ngồi đắm đuối, ấy là chùa làng và đêm đêm ở bậu cửa, mắt đăm đắm nhìn ra cổng, nơi chỉ có đom đóm bay chập choạng và tiếng ễnh ương kêu ệnh ạng dưới ao bèo. Mẹ tôi đêm nào cũng ngồi lặng đi từ khi nhận được giấy báo bố tôi ở đơn vị Tiểu đoàn 48 Hải ngoại bị mất tích ở chiến trường Lào. Năm đó tôi học lớp năm trường xã đã biết chút ít về những vết hằn đau khổ và nhọc nhằn trên mặt mẹ. Mất tích, nghĩa rằng mẹ tôi còn một phần nghìn tia hy vọng rằng người sẽ trở về. Tia hy vọng đêm nào cũng le lói khi mẹ tôi ngồi nơi bậu cửa nhìn ra cổng. Ở nghĩa trang xã, có ngôi mộ đề tên bố tôi, nhưng là mộ không hài cốt. Ngôi mộ gió chỉ làm dày thêm thành tích kháng chiến của xã, không an ủi được mẹ tôi dù chỉ thoáng chốc.
Một đêm khuya lắm rồi, vẫn thấy mẹ ngồi thẫn thờ ở bậu cửa, tôi bảo mẹ:
“Đi ngủ mẹ ơi”.
Mẹ rầu rĩ:
“Mẹ có ngồi đây nhớ bố anh, thì bố anh dù đã mất vẫn còn quanh quẩn ở cái nhà này. Người chết mà không ai nhớ nữa, mới là chết hẳn”.
Có một lần tôi biết và lần mò tìm con dao cầm ở tay khi thoáng thấy bóng một người đàn ông hiện ra trong đêm đến trước mặt mẹ tôi, thì thầm nói: “Chẳng lẽ cô cứ tự chôn sống mình thế này à?”.
Tôi nghe tiếng mẹ tôi nhổ bã trầu, rồi dằn giọng: “Xin ông đi đi, để mẹ con tôi được yên”.
Sau đêm đó tôi thấy mẹ hay mặc chiếc áo bộ đội đã cũ của bố tôi để lại.
Tôi luôn nghĩ đến mẹ tôi và những người đàn bà như mẹ tôi, những người bị thương tật lâu dài nhất dù chiến tranh đã kết thúc.
Bây giờ ở đây, tôi ngồi chắp tay cạnh Bua, nhìn ông sư già có cái đầu phần trán quá to như để chứa cả pho kinh Phật, nhưng má lép, chảy dài có nhiều vết hằn sâu sau mấy chục năm tụng kinh gõ mõ sống khổ hạnh ở ngôi chùa ven núi. Hết nhìn sư thầy, tôi lại nhìn làn khói hương bay lên nóc chùa. Trên đó và cả bốn bức tường xung quanh gian thờ vẽ nhiều bức tranh ảnh về con người ở thế giới cực lạc, không có ngục tối, đầy màu sắc, cưỡi rồng, cưỡi mây thấp thoáng trong vườn đào, không có nét kham khổ của thực tại. Cái chết với người Lào là hết đau khổ tình ái ở kiếp nhân sinh, chuyển sang sống vĩnh hằng ở kiếp khác lộng lẫy hơn, an nhàn hơn. Nắng đã qua khỏi rặng cây hoa đại, hắt lên lưng áo thon gọn của Bua một mảng vàng, rồi quét xuống nền nhà chùa những vệt sáng lung linh hình rẻ quạt.
Bua đợi. Tôi cũng đợi. Nhưng sư thầy không trả lời, chỉ đọc kinh Agutstura bằng giọng đều đều, trầm lắng, u hoài, ru ngủ nhiều hơn là thức tỉnh: Chớ vội tin những điều phỏng đoán, chớ vội tin một lời dạy bảo. Các người hãy tự xem xét và chiêm nghiệm lấy…
Sau lưng, nắng đã qua khỏi rặng cây hoa đại.
Sau hàng cây hoa đại là con đường nhỏ hai bên ven trồng hoa quỳ màu vàng rực. Ngoài kia là cao nguyên. Con đường trên mặt cỏ nối chùa Phu Kẹt với chùa Thẩm ở ven cao nguyên phía bên kia. Hai ngôi chùa đối diện nhau, bên kia là đại thừa, khuyến khích con người vượt cao hơn cả khả năng của mình, còn bên này là tiểu thừa, không gạt bỏ bất cứ điều gì về cuộc sống con người, luôn giữ con người ở trạng thái thức tỉnh. Giáo lý hai bên khác nhau, nhưng tôn trọng nhau, cùng tồn tại. Bua theo tiểu thừa, Phật giáo nguyên thủy của nước Lào thịnh hành trong dân chúng từ thời vua Phạ Ngừm dựng nước.
Tôi hỏi nhỏ:
- Bua có hài lòng về lời sư thầy giảng không?
Bua bảo:
- Hài lòng hay không là ở mình.
Tôi chợt nghĩ, Bua quả thật là đại diện hoàn hảo cho tâm lý phụ nữ Lào. Họ ôn hòa, bình thản, sẵn lòng bỏ qua, sẵn sàng co hẹp, không bộc lộ để bước qua cả những điều chưa hài lòng, chưa hoàn thiện. Những người như thế ít có xung đột, luôn tự thu xếp để vừa lòng với những gì mình có.
- Sao không ghi tên tôi và tên Bua vào thẻ cầu phúc để sư thầy cúng dường tam bảo cho luôn? - Tôi lại hỏi.
Bua nói:
- Hương linh ông Nghi đã siêu sinh, thoát hóa, ai dâng lễ cũng được duyên phúc, không phải ghi tên.
Bua nói, cô nghiệm điều này từ khi thỉnh được vong ông Nghi về chùa Phu Kẹt, thấy công việc làm ăn khấm khá, sức khỏe dồi dào. Tôi không biết thực hư chuyện này, cũng không thạo việc nhà chùa, việc cúng bái và duyên phúc, nghe Bua nói sao biết vậy, chỉ nhìn ảnh ông Nghi đeo quân hàm thượng úy, đội mũ cối, vái mấy vái định quay ra, nhưng Bua bảo tôi nán lại, chờ sư thầy phát lộc là những chiếc oản bọc giấy bóng đỏ, bánh nếp và mấy quả chuối chín.
Ở Lào, Bua bảo, chùa không tu tập nữ giới, kể cả xin làm bõ, làm vãi quét sân, nên Bua tu tại gia, tháng đôi lần sửa lễ lên chùa. Đã có lúc Bua bảo, tính làm vợ người đàn ông để về già có nơi nương tựa. Đàn bà giỏi giang mấy vẫn cần một chỗ tựa vai. Mới ngoài năm mươi, lại rỗi rãi, làm vợ cũng chẳng muộn mằn gì. Nhưng Bua không nhận lời ai vì tìm được người đàn ông hợp với mình đâu dễ. Với lại, có lúc lại nghĩ, ông Nghi là hình bóng chồng ở mặt kia sau lưng Phật, chứ còn ai nữa, mà tìm. Tôi nghĩ Bua nói thật. Hình dung theo ghi chép dở dang của ông Nghi thì bà Bua có lẽ chỉ khác trước không còn mái tóc tết hai cái đuôi sam ở hai bên tai, thay vào là mái tóc dài chín chắn bỏ lửng sau lưng. Trong nghi chép, ông Nghi dành rất nhiều yêu thương cho Bua. Quả là Bua vẫn còn chút thanh xuân và gia tài là gương mặt khả ái để làm vợ nhưng vì cái tình với người đã khuất, nên đứng lại.
- Sống không được là vợ chồng, thì chết nghĩ về nhau cũng là duyên phúc, phải không anh? - Bua hỏi tôi.
Tôi nói:
- Phải, dù âm dương cách biệt, nhưng phần vong có nhau cũng là được an ủi.
Trên sân chùa, hoa đại lác đác rơi sau một cơn gió nhẹ có vài con chim sâu nhỏ xòe cái đuôi nhiều màu, lích chích bay chuyền. Trong nắng, hoa đại trắng nõn trắng nà, ngát hương. Tôi hình dung, buổi sáng đã lâu lắm rồi ông Nghi cúi nhặt bông hoa đại, xứ này gọi là chăm pa, trắng như thế kia rồi nói với Hạt xa đi, nhà sư tu luyện lâu năm trong rừng rằng: “Tôi nghe lời Phật dạy, tay cầm hoa thì thơm, cầm cá thì tanh. Ở bên người thiện được hưởng phúc lộc, ở cùng người ác sẽ gặp họa. Tôi muốn Hạt xa đi cho tu tập ở chùa rừng của thầy để học thêm đạo Phật”.
Hạt xa đi bảo:
“Cái lán tre nứa này chỉ là chỗ ta trú tạm, không phải chùa, không chiêu tập người tu”.
Nghi vẫn kính cẩn nói:
“Vậy con xin ở lại để được gần thầy.”
Hạt xa đi bảo:
“Rửa cõi tâm, ấy là đạo Phật, chứ không phải ở chùa gần thầy, gần Phật”.
Bữa ấy giữa mùa khô mà trời đất bỗng trái nết, đột ngột mưa gió và sấm chớp hãi hùng. Nóc rừng ngả nghiêng như có trăn gió di chuyển. Sét bổ bửa đôi cây trám trắng cao ngất, quả vung vãi như mưa đá.
Trong mưa sầm sập có một tốp người xác xơ và hoảng loạn kéo đến cửa lán của Hạt xa đi, phủ phục xuống mà nói:
“Chúng con vừa đến cánh rừng, vội làm lán ở thì trời đổ mưa và sấm chớp. Hay là trời nổi giận không cho người toong lưởng hái lượm ở cửa rừng này để sống, phải đi tìm chỗ khác?”.
Hạt xa đi bảo:
“Mưa gió là việc của trời. Chống mưa gió là việc của người. Không có Phật nào giáng họa cho ai cả. Phật chỉ khuyên con người dưỡng tâm làm việc thiện”.
Nghi bám theo những người toong lưởng hoảng loạn từ hôm đó, cùng làm lán, cùng ăn rau củ, cùng ngủ trên tấm đệm hoa lau trong túp lều lợp lá.
Sau mưa, Hạt xa đi đến thăm người toong lưởng.
Gặp Nghi, Hạt xa đi nói:
“Cứu khổ, cứu nạn là hành thiện của cửa Phật”.
Hành thiện của Nghi là sống với người toong lưởng ngót năm năm, khuyên các gia đình ai có con bị bắt đi lính phỉ Vàng Pao thì gọi về, rồi đưa được cả một bộ tộc bao năm sống du cư trong rừng bồng bế nhau ra định cư ven cao nguyên Cánh Đồng Chum, dựng nhà to, bản lớn, cái đói không còn vẽ chằng chịt làm nhàu nát mặt người. Năm năm để trở thành người toong lưởng, Nghi phải trải qua nhiều lần chịu đựng gần như quá sức.