Hướng Đông Bắc.
Chúng tôi đi theo tọa độ, trên con đường nhỏ luồn dưới bóng cây gỗ dầu. Xỉ trước, Bua giữa, cuối cùng là tôi, vừa đi vừa nói đủ thứ chuyện linh tinh. Thỉnh thoảng trên đường rừng có gặp một vài người Lào, cả đàn ông và đàn bà. Họ lên rừng đào củ và hái quả. Mùa này hầu hết các loại quả trong rừng đều chín rộ giúp cho chim chóc và muông thú đều no nê. Một tốp ngược đường ba chúng tôi có hai cô gái, trang phục rất lạ, áo rộng, hai tà trước và sau dài chấm đầu gối, quần lại bó chặt lấy mông và ống chân cuốn vải, trên đầu đội khăn thêu hoa văn tưng bừng màu xanh đỏ. Xỉ bảo, hai cô là người Lào Cang, giống như người Lô Lô bên Việt Nam. Tôi khen cô Lào Cang có gương mặt xinh xắn và khăn đội đầu rất đẹp. Cô cười ỏn ẻn, hỏi, có muốn lấy khăn không? Tôi lúng túng, chẳng lẽ nhận luôn. Bua bảo, để em. Bua nói gì đó, cô gái cởi ngay chiếc khăn đang đội đầu đưa cho Bua. Bua đưa cho tôi, bảo tôi nhận khăn, cảm ơn cô gái, để Bua trả tiền. Tôi nhìn thấy số kíp Bua trả cô gái, đổi sang tiền Việt Nam chừng năm chục nghìn. Tôi gập khăn cẩn thận, ấn vào túi ba lô cóc. Thêm một hiện vật sưu tầm về chuyến thăm Thượng Lào.
Tiếng là chuyến đi thăm thú lại chiến trường xưa, như du lịch, nhưng phòng khi lỡ độ đường phải ngủ rừng, nên trên vai mỗi chúng tôi vẫn ba lô với tăng võng, đồ dùng cá nhân cùng đồ ăn thức đựng không khác hành quân thời đánh giặc. Vùng rừng Thượng Lào sau mấy chục năm hòa bình vẫn thưa thớt người. Ngày chiến tranh trong rừng có lẽ còn vui hơn bây giờ vì có những bản làng sơ tán khá tấp nập, nay bản làng rút về cao nguyên hoặc thành phố, trả lại hoang sơ cho rừng. Lào đất rộng, người thưa, chừng trăm người trên một ki-lô-mét vuông, vùng rừng thì không tới. Nhiều vùng núi chiến tranh dùng cho việc dàn trận nay hòa bình thì bỏ không, cho cây mọc. Khăm Xỉ kể với tôi, một lần thăm một nước lớn, ông chủ của quý quốc nói với ông Xu-pha-nu-vông, bấy giờ là Chủ tịch nước Lào, rằng, Lào ít người, nên cho mười bảy triệu người dân tộc của “đại quốc” cùng nhân dân Lào xây dựng một xã hội lớn mạnh ở Đông Dương. Hoàng thân Xu-pha-nu-vông cảm ơn lòng hào hiệp của quý quốc và nói rằng, người Lào khiêm nhường, chỉ muốn xây dựng đất nước nhỏ bé sống thanh bình, không có tham vọng trở thành nước lớn, không nhận viện trợ người.
Chuyện phiếm trên đường thì Khăm Xỉ - người dẫn đường của tỉnh đội nói hăng hái nhất. Xỉ kể, thời trẻ anh đi tu ở chùa làng để học chữ. Tu mười năm đến chức a chan xổm đệt thì về nhà, đi bộ đội. Hết nghĩa vụ lại được cử sang Việt Nam học đại học; từ ngày biết nhiều chữ, đâm ra nói nhiều.
Ở chỗ nghỉ, Khăm Xỉ rót rượu ra cái nắp bi đông nhựa, nói với tôi:
- Đây không phải chén rượu của Nguyễn Bính, “Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy/ Tôi uống cả em và uống cả/Một trời quan tái mấy cho say”, cũng không phải rượu của Trần Huyền Trân: “Rót đau lòng ấy vào đau lòng này”, mà là rượu của văn nhân Thăng Long, uống để đàm đạo và thấu hiểu.
Bấy giờ tôi mới biết thêm Khăm Xỉ từng học Đại học Tổng hợp Hà Nội. Anh am hiểu nhiều về văn hóa Thăng Long, đọc nhiều thơ các nhà thơ Việt, và cách uống rượu của các văn nhân Việt. Chúng tôi mỗi người uống ba nắp bi động, kể cả Bua rồi bàn nên đi tiếp tìm dấu xưa của Trung đoàn Tình nguyện và Đội công tác sáu tám trong rừng hay về bản Hủa.
Khăm Xỉ bảo:
- Nên về bản. Dấu xưa của Trung đoàn Tình nguyện và Đội công tác chỉ còn ở trong bụng người sống thôi, không còn dấu trong rừng, ngoại trừ đi tìm hài cốt. Viết sử cần tinh thần, cần ký ức của người đương thời, đâu cần hài cốt.
Tôi cũng nghĩ như Khăm Xỉ, rất ngại đọc các cuốn sử lổn nhổn hài cốt người ta cố tình dựng dậy làm cho quá khứ phát sáng.
Chúng tôi đi vào cánh rừng bằng lăng thoáng, đầy nắng, gió thổi lạo xạo lớp lá khô dưới chân. Ở xứ rừng này, thiên nhiên khắc nghiệt mấy, rừng vẫn hào phóng. Một cành hồng với những quả chín đỏ chim ăn dở còn treo lơ lửng như mời gọi trước mặt. Tôi ngắt được ba quả, chưa kịp ăn, thì nghe thấy tiếng người ồn ào. Nhô ra ở sau gốc cây là một tốp mặc quân phục bộ đội Việt mang vác cồng kềnh, mặt mũi phờ phạc, đen đủi, kiểu người thiếu ăn, thiếu ngủ.
Khăm Xỉ nhận ra người quen trong tốp bộ đội, cất tiếng reo:
- Ôi, anh Báu! - Rồi Khăm Xỉ hỏi - Các anh vẫn còn cất bốc ở rừng này à?
Anh Báu là người lớn tuổi nhất trong tốp bảy người nở nụ cười toàn răng trên gương mặt sạm nắng.
Khăm Xỉ vỗ vai tôi:
- Đây là đồng hương của các anh đang đi sưu tầm chuyện ngày xưa của Trung đoàn Tình nguyện.
Anh Báu chìa bàn tay với các ngón gầy và đen, lành lạnh bóp tay tôi, nhưng không nói gì, mà mở tấm sơ đồ nét vẽ xanh đỏ bằng màu chì đã phai nhạt ra trước mặt Khăm Xỉ, nói giọng kim khàn khàn như người mắc chứng viêm phổi:
- Theo sơ đồ này thì ngày xưa mai táng ở đây sáu liệt sĩ đánh đồn Phu Lốc Cốc. Chúng tôi dò mười ngày nay mới tìm được ba.
Anh chỉ ba cái bọc ni lông xanh trên vai mấy anh lính đứng phía sau. Những bộ hài cốt thường được cõng trên lưng người bốc mộ suốt nhiều ngày trong rừng. Có khi một người cõng đến ba, bốn bộ, đi thì trên lưng, ngủ thì đặt cạnh người phòng thú rừng càm cắp mất.
- Ba bộ hài cốt, thì có hai còn dép cao su - Anh Báu nói tiếp - Chắc là bộ đội Việt rồi. Nhưng mộ thứ ba chỉ còn lại hai cái đế giày vải. Lạ là ở bộ hài cốt này có cái bi đông nhựa, đựng nước vốn là trang bị cho bộ đội tình nguyện. Mấy chục năm mà nước vẫn đầy trong bi đông.
Anh Báu lắc lắc cho mọi người nghe rõ tiếng nước óc ách, rồi mở mắp bi đông:
- Đây này - Anh Báu nghiêng bi đông đổ ra vài giọt nước trong vắt.
Nước suối hay nước mưa mà ba mươi năm vẫn trong? Những giọt nước người lính chưa kịp uống còn lại sau hơn ba mươi năm trong lòng đất khác gì giọt nước hôm nay?
Tôi hỏi anh Báu:
- Các anh chỉ tìm mộ có biết mộ nào là của chiến sĩ mất tích không?
Anh Báu ngớ người vì câu hỏi của tôi.
- Ai mà biết được. Đã nằm dưới đất thì mất tích hay có danh đều như nhau. Mộ chiến sĩ mất tích đương nhiên không có tên trong sơ đồ mộ chí. Tuy nhiên nhiều chiến sĩ hy sinh anh em mai táng vội giữa trận đánh cũng không kịp ghi tên vào sơ đồ. Chúng tôi tìm được phần nhiều là do ngắm địa thế núi non hoặc bà con dân bản mách bảo. Như ba bộ hài cốt chúng tôi tìm thấy, thì hai là vô danh…
Tôi nhớ một con số, đến nay trên các chiến trường xưa vẫn còn hơn ba mươi vạn hài cốt chưa tìm thấy. Ba mươi vạn hài cốt còn “mất tích” trong đó có bố tôi.
Gặp tốp của anh Báu, tôi lại nhớ hôm mới sang Xiêng Khoảng, cùng ông Khánh tổ trưởng viết sử trung đoàn đến thăm ông Chủ tịch tỉnh Xiêng Khoảng đã nghỉ hưu. Bà chủ nhà đang ngồi cùng với chồng tiếp khách, nghe thấy tiếng chiêng chùa bỗng đứng dậy, bước ra cửa, đứng chắp tay hướng mặt lên núi. Ông Thíp-phạ-vôn bảo, cả mấy chục năm nay, đến mùa khô rừng tạnh ráo thì các bộ phận đi quy tập hài cốt đồng đội từ Việt Nam sang lại hoạt động trong rừng núi bao quanh Cánh Đồng Chum. Suốt mấy chiến dịch của những năm sáu tám, sáu chín, bảy mươi, bảy mốt có trận ta thắng to, hy sinh ít, nhưng cũng có trận ta tổn thất lớn, nhiều chiến sĩ Tình nguyện ngã xuống trên vùng núi xung quanh Cánh Đồng Chum, nên bao nhiêu năm tìm kiếm vẫn chưa thu gom hết hài cốt. Đêm nào thấy ánh lửa của các anh tìm hài cốt chấp chới trên núi, nhà chùa lại dóng chuông cho các chị, các mẹ hướng lên núi cầu mong hương hồn các liệt sĩ được an lành về đất Mẹ. Mấy chục năm nay các đoàn tìm hài cốt từ Việt Nam vẫn chưa dừng công việc. Từ hôm ở nhà ông Thíp-phạ-vôn về, đêm đêm tôi hay nhìn lên núi. Có đêm thấy ánh lửa bập bùng. Cũng có đêm chỉ thấy vài chấm nhỏ như sao mờ ảo chấp chới sau các làn sương đêm. Người ta đã tính, hậu quả kéo dài hàng trăm năm nếu chiến tranh chỉ xảy ra chừng một tháng. Ở đây chiến tranh tính từ khởi đầu đến kết thúc kéo dài gần ba mươi năm thì hậu quả còn phải kéo dài đến nhiều đời sau.
Lại nhớ đến ông Ngân - Trung đoàn trưởng Trung đoàn Tình nguyện nói với tôi: “Suốt ba chiến dịch phản kích giành lại Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, nếu trở về đông đủ thì quân số trung đoàn ta phải bằng mấy trung đoàn”. Ông nói rồi cúi gập người mà ho, chiến trận một thời còn cồn cào trong ngực ông.
Rẽ qua bãi rậm lau lách và cây dại, Bua đưa chúng tôi đến bãi đất nhô cao ở ven rừng, có những gốc cây gỗ dầu bị đốn sát gốc, chồi đã mọc lên um tùm to cỡ bắp đùi. Mùa này lá dầu đang khô đanh, vàng và cứng như cái bánh đa hơ lửa. Bua hăng hái đi mấy vòng bãi đất như tìm kiếm thứ gì từng đánh rơi ở đây. Cuối cùng Bua tìm thấy không phải vật rơi mà là ký ức về lần đầu gặp ông Nghi.
- Đúng là cái bãi đất này rồi - Bua xác nhận - Ngày ấy - Bua nói tiếp - Bua làm liên lạc của đơn vị Pa-thét, thỉnh thoảng phải lùng xuống các bản mua thực phẩm cho đơn vị. Bua đến bản Hủa đúng lúc dân bản làm lễ căng tai cho ông Nghi. Bản ở rìa cao nguyên, nhưng làm lễ căng tai bà con lại gọi nhau vào rừng cho giống ngày xưa.
Đàn ông toong lưởng trước kia đến tuổi trưởng thành thì cưa răng căng tai để làm đẹp. Nay bỏ tục cưa răng, chỉ căng tai. Dân bản Hủa làm lễ căng tai để ông Nghi được công nhận là người toong lưởng. Một bếp lửa được đốt lên, dân bản kéo nhau ra ngồi quanh. Khi ông Nghi được mời ngồi xuống chiếc ghế gỗ giữa vòng người để người già xỏ lỗ tai, đeo khuyên gỗ thì vòng người bắt đầu đàn hát. Bua nhìn gương mặt ông Nghi căng lên vì nín chịu đau khi căng tai, mồ hôi vã ra đầm đìa, thương ông ấy, muốn nói với ông một câu an ủi, nhưng không có lúc nào nói được vì trai bản mời Bua vào vòng múa. Dân tộc toong lưởng sống kham khổ thế mà đàn ông, đàn bà vóc dáng rất đẹp và tài ca hát. Họ đánh trống, đánh đàn và múa hát những bài hát, điệu múa từ xa xưa, về Giàng, về Ma, về tình yêu của những người đàn ông thợ săn tráng kiện múa dao mưa không ướt đầu và những người đàn bà đẹp, ngực như hai vầng trăng úp, mặc váy áo khâu bằng chỉ vàng lấp lánh với nhịp điệu rộn rã về cái thời khỏe khoắn, hớn hở vì no đủ. Bài hát, điệu múa con cháu toong lưởng hôm nay là dấu vết còn sót lại của một thời kỳ dài đất nước ba phần tư là rừng núi này bị cát cứ bởi rất nhiều ông vua. Có ông vua hùng mạnh, đạo binh được ví triệu thớt voi, đánh đông dẹp bắc. Nhưng cũng có ông chỉ làm vua một bộ tộc nhỏ, chiếm cứ mảnh đất hẹp với đội quân vài chục tay giáo mác và cung nỏ. Đất nước nhiều vua luôn xung đột thôn tính lẫn nhau để mở rộng quyền kiểm soát, nhiều ông vua bị mất ngôi, còn thần dân thì tháo chạy. Con dân của những quốc vương nhỏ bé hóa dần thành kẻ lang thang cơ nhỡ trong rừng, do đói khổ mà đánh rơi mọi thứ, chỉ còn giữ lại được vài tập tục và tiếng hát của ông bà. Tôi nghĩ, người toong lưởng ở bản Hủa cũng giống như các dân tộc nhỏ bé, thô sơ và nghèo đói tôi đã gặp sống rải rác trên khắp bán đảo Đông Dương. Họ thích phóng đại, thích tô vẽ màu mè về quá khứ. Đó là thứ men rượu ru ngủ để con người hiện tại quên những khốn khổ thực tại.
Bua nói với tôi:
- Ông Nghi được căng tai, đeo hai cái khuyên hạt gỗ, nhìn gương mặt vuông vức, ngăm đen hiền và đẹp, kiểu đàn ông vác trên vai bó lúa thì nhìn hiền hơn vác con dao phát.
Bua khen ông Nghi đẹp trai vì căng tai, theo cái chuẩn nhìn người đàn ông vác trên vai bó lúa. Bua nói, cô có cảm tình với ông Nghi từ hôm đó, buộc chỉ vào cổ tay anh kết xiều.
Khăm Xỉ nhìn Bua cười cười:
- Chuyện cũ rồi mới dám hỏi, quý nhau thế, anh chị đã gì với nhau chưa?
Bua chối bay:
- Ngày ấy đâu dám. Vượt dốc, anh Tình nguyện đi trước muốn kéo cô bộ đội Lào đi sau lên, cũng không kéo bằng tay, mà chìa cái gậy ra cho cô bám vào đầu gậy mà kéo.
Khăm Xỉ bảo:
- Rõ là không biết sướng!
Tôi bảo:
- Ngày xưa thôi, chứ bây giờ vừa quen đã dính vào nhau rồi.
Tôi biết mình lỡ lời, ăn nói suồng sã, nhưng may Bua không nghe thấy hoặc nghe thấy mà không nói gì.
Bấy giờ Bua cũng không biết, ông Nghi bị rắc rối vì cái tai căng dài xuống tận má. Sau gần năm năm ở rừng Lào, ông được cấp trên cho về phép thăm nhà. Ông mong mỏi gặp lại người vợ trẻ làm kế toán nông trường mới cưới, ăn ở với nhau chưa kịp bén hơi đã phải chia tay biền biệt lâu nay. Bao thương nhớ dồn lại đêm gặp mặt. Nhưng buồn thay, đêm gặp lại, người vợ trẻ bỗng giật thột như chợt nhận ra làm tình với người lạ, ngồi phắt dậy, mắt kinh ngạc nhìn đôi tai lạ lẫm của chồng. Nghi biết vợ chưa quen với hình hài khác lạ của mình, nhưng ông nghĩ, rồi ăn ở với nhau, vợ sẽ quen dần. Đã không ít những người chồng từ mặt trận trở về với gương mặt chằng chịt vết sẹo, qua dăm bảy ngày, người vợ rồi cũng quen.
Nhưng với anh, sau đêm ân ái dở dang, vợ đóng cửa vì chưa quen, lại vì đôi tai bị căng dài.
Đêm đêm ông Nghi ngồi hút thuốc khan chờ vợ bước ra cửa, nở nụ cười hiền hậu và mở vòng tay đón ông. Nhưng cửa buồng vẫn không mở cho đến ngày ông trả phép. Ba tháng sau khi trở lại bản Hủa, ông nhận được lá thư dài và đơn xin ly hôn, vợ là nguyên đơn. Người vợ đã nói thật, ngửa tay ngàn lần xin lỗi chồng, vì trước khi chồng về cô đã phải lòng một người đàn ông cùng công trường. “Bây giờ anh có băm vằm em trăm mảnh em cũng xin chịu”. Cô thề thốt trong thư. Từ chối, mắng mỏ, trách móc hay chấp nhận? Ông Nghi uống rượu trắng đêm, rồi ký vào đơn, với lời ghi chú: “Tôi bận công tác xa, xin tòa xử theo nguyên đơn”, rồi gửi trả lại vợ theo đường quân bưu. Ông Nghi chôn chặt nỗi buồn vì nói ra giống tự xát muối vào lòng.
Lại gặp con suối trong xanh dưới bóng cây. Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi và chuẩn bị ăn cơm nắm. Đã lâu rồi tôi mới có dịp nhìn gương mặt mình trên chiếc gương là dòng nước suối trong thấy rõ từng hòn sỏi dưới đáy. Tôi là người không ưa nhìn, cao, gầy, mặt mũi thô, với đôi mắt màu gio dưới đôi lông mày rậm, tự bảo vệ bằng lớp vỏ khó phá vỡ ấy là giàu lòng tự trọng, khả năng chịu đựng các thử thách để vươn lên và luôn chìa tay cùng nụ cười điềm đạm với người vừa gặp mặt. Tôi không có khả năng hấp dẫn chỗ đông người, nhưng trong chè tam tửu tứ, tôi thường nổi lên với những câu chuyện biếm họa về con người và đời sống xung quanh. Tôi không đạt điểm cao trong mắt đàn bà. Tuy nhiên những người đàn bà tôi gặp thường để lại những tình cảm lâu dài về phía sau bởi sự tin cậy. Với Bua, tôi cũng vậy, bắt đầu chỉ nhợt nhạt như mọi mối quan hệ công tác, nhưng chúng tôi lại có dịp đi cùng nhau, Bua dần nhìn xuyên qua được lớp vỏ cứng và vì vậy, càng ngày, Bua thân mến và tin cậy tôi hơn.
Ở chỗ ngồi nghỉ, tôi suýt chạm đầu vào mạng lưới nhện giữa hai cành cây khô để bắt mồi. Tấm lưới mỏng manh mà con chuồn chuồn ớt lao vào, cố giãy để thoát, càng giãy lưới càng cuốn chặt, đành chịu chết. Khăm Xỉ bảo tôi, các cụ người Việt tài thật, chỉ nhìn cái mạng nhện mà có câu hát tỏ tình tuyệt hay: Con nhện giăng mùng. Dây nhót còn sót lại chùm quả đỏ ở dưới lưới nhện như mời gọi người đi rừng khát nước. Tôi bứt vài trái, cầm ở tay, nước bọt đã ứa chân răng. Thấy tôi và Khăm Xỉ nhai cơm nắm một cách khổ sở vì thiếu rau, Bua bảo tôi đi với cô. Bua có năng lực đặc biệt nhìn vào rừng là biết chỗ nào con người có thể hái lượm. Bua dẫn tôi lội qua, lội lại suối ba lần, thì reo lên:
- Kia rồi!
Đó là cây mắc coọc, quả vỏ màu nâu, ăn cũng ngọt dôn dốt và thơm như lê, sai trĩu cành.
Bua bảo:
- Anh trèo lên hái quả. Hái nhiều nhiều vào để ăn trên đường. Ngày xưa chiến tranh trẻ con Lào vào rừng chỉ bòn loại quả cây này.
Tôi hào hứng đu lên cành thấp nhất, xoài người với hái chùm quả ở đầu cành phía trên. Ở dưới, Bua đưa hai tay căng chiếc khăn hứng quả tôi thả xuống, như hứng dừa trong tranh dân gian. Bua có vẻ vui thú với trò hứng quả này, cười nói ríu ran. Tôi ném quả xuống, vô tình ném vào chỗ làm Bua đỏ mặt. Bua ngước lên nhìn tôi, nói:
- Anh xấu nhé.
Cú ném trái cây bất nhã của tôi hóa ra lại được việc. Từ đấy hai người gần gũi thân mật nhau hơn, đỡ khí khái, xa lạ, thoải mái nói chuyện kể cả những bí mật tình tang. Việc hái quả sẽ còn vui và kéo dài nếu tôi không vội vã trèo lên cao hơn, không may bị trượt chân, ngã lộn nhào xuống gốc, suýt chụp lên người Bua. Nằm đo đất đến mấy phút sau, Bua mới lật tôi dậy lo lắng, hỏi:
- Anh bị đau không?
Tôi bảo:
- Anh có trèo cây cao đâu mà ngã đau.
Bua nhìn tôi cười hóm hỉnh:
- Ai cấm anh trèo cao.
Chúng tôi nói vui để an ủi nhau. Thực tình là tôi đau ở khuỷu chân phải. Cú ngã làm khuỷu chân đập vào đúng mỏm đá, không gãy, nhưng trẹo khớp, đứng dậy không nổi. Bua lo lắng thật sự, tay xoa lên vết thương ở chân tôi, bảo:
- Em có lỗi dẫn anh đi để anh ngã.
Tôi bảo:
- Không phải lỗi ở em. Lỗi do anh trèo cây không cẩn thận. Không sao đâu, chỉ lát nữa là khỏi thôi.
Bua dìu tôi quay trở lại nơi Khăm Xỉ hẳn đang sốt ruột chờ bên bờ suối vì chúng tôi biến đi lâu quá.
Lúc lên đường, Bua bảo tôi, mở ba lô ra, san bớt sang ba lô của Bua và Khăm Xỉ.
- Anh làm phiền đến hai bạn đường rồi. Vì anh vô ý mà em và Khăm Xỉ phải vất vả - Tôi nói.
Bua bảo:
- Khăm Xỉ đeo ba lô còn em dìu anh đi.
Vết thương càng lúc càng sưng mọng, bước bước nào đau tận óc bước ấy. Gió rừng thổi nhẹ làm mái tóc có mùi lá sả và hương hoa bưởi của Bua bay lòa xòa lên mặt tôi. Tôi bước bên cạnh Bua, mồ hôi chảy dòng trên má.
Bua bảo:
- Kể chuyện cho đỡ đau đi. Bao nhiêu năm mà anh cũng một mình à?
Tôi nói với Bua, tôi lớn lên không có bố ở bên. Mặc dù vậy, tôi vẫn là đứa trẻ được mẹ nuôi dạy chu đáo, đi bộ đội sau khi tốt nghiệp phổ thông. Tôi nghĩ, con một nên việc xa con là khó khăn của mẹ. Tuy nhiên mẹ không những không cản trở tôi, mà còn động viên tôi lên đường. Tôi thầm cảm ơn về việc này. Lính trẻ chúng tôi được xếp lên tàu, đi ngược về Thái Nguyên. Bãi tập ngày đầu mùa hè của chúng tôi là những quả đồi sim mua lúp súp. Chúng tôi tập bắn, tập bò, tập đào công sự trên mặt cỏ khô cháy. Sau một buổi tập, trên đường về doanh trại, bỗng tôi thấy mẹ tôi đứng trong đám bà con đi làm đồng về, đứng nhường đường cho bộ đội. Tôi không thể ngờ sao mẹ lại biết tôi ở đây mà theo chân con. Chỉ biết mẹ đã ở nhờ trong làng, ngày ngày đứng ở bờ tre ngóng bóng con trên bãi tập. Đại đội trưởng biết việc, mời mẹ về ký túc xá ở tạm, rồi cho tôi nghỉ ba ngày đưa mẹ về quê. Về đến quê tôi mới biết thêm, trong nhà còn có một “cô Tấm”. Bấy lâu nay mẹ vắng nhà, “cô Tấm”, tên là Huệ nhà bên, là bạn học với tôi thuở cấp hai, rồi nghỉ học vì nhà nghèo, ngày ngày sang trông nom nhà, chăn lợn, chăn gà cho mẹ. Mẹ bảo, mẹ già rồi, ở một mình trống vắng, nên mẹ mời cô Huệ thỉnh thoảng sang nhà cho vui. Những ngày mẹ đi vắng, cô Huệ trông nom nhà cửa. Mẹ muốn làm cái lễ dạm ngõ để tôi và cô Huệ đính hôn, bao giờ cưới cũng được. Chỉ có một ngày ở nhà, tôi lo toan được tất cả theo ý mẹ. May mà cô Huệ cũng đồng ý việc tôi làm. Tôi trở về đơn vị, Huệ tiễn tôi ra ga. Chúng tôi ngồi chờ tàu trong cái quán nước phong phanh ở đầu nhà ga. Chúng tôi nắm chặt tay nhau khi Huệ chia tay để tôi lên tàu. Đó là sự gần gũi duy nhất tôi có với Huệ. Bởi bốn năm sau tôi được về thăm nhà thì Huệ không còn nữa. Mẹ khóc day dả, bảo, vì mẹ mà con Huệ mất. Chả là những ngày tôi vào chiến trường, mẹ không đêm nào ngủ được. Mẹ nhớ tôi quá, xui Huệ đi thanh niên xung phong, vào chiến trường để xem xem có gặp được tôi không. Bảy cô gái cùng thôn Bầu đi thanh niên xung phong một đợt, sau hòa bình chỉ còn có ba cô nguyên vẹn trở về. Huệ đã hy sinh trên cung đường Tây Trường Sơn.
Bua nghe tôi kể rồi bảo:
- Sao đàn ông Việt hay cơ nhỡ.
Tôi bảo:
- Chỉ có tôi và ông Nghi cơ nhỡ thôi, chứ họ đều êm ấm cả.
Bua nói chữa lại:
- Vậy là số của Bua gặp người cơ nhỡ. - Tôi bảo:
- Không số kiếp gì ở đây. Ông Nghi là người tốt. Ông ấy là người của một thời, đầu óc rất quy củ, coi trách nhiệm cao hơn cả bản thân, không cho phép mình vượt quá các giới hạn để tới một tình yêu cách nhau một đường biên giới mà thời chiến người ta không khuyến khích.
Bua nghe tôi nói, chỉ lặng im.