Rẽ hướng tây bắc.
Chúng tôi gặp bản chừng bốn chục nóc nhà, nằm hai bên đường ô tô, từ đây có thể đi Mường Xủi, Xa-la-phu-khun, hoặc rẽ ra thị xã Phôn-xa-vẳn. Ngày xưa dịp mùa khô, cả ba nhánh đường về ba huyện lỵ miền Thượng Lào này là ba con đường chiến tranh bom đạn băm nát từng vuông đất. Bây giờ cây hai ven đường um tùm, cành lá giao nhau, rợp bóng, râm ran tiếng ve. Bản Lào ở trong rừng hay phố đều giống nhau về sự yên lành, với những ngôi nhà không rào giậu, không đóng cửa và những chủ nhân đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ, khói bếp tỏa thơm mùi xôi nếp. Bản làng, nhà cửa với người Lào là nơi trú ngụ tĩnh dưỡng, khác với ta coi đó là nơi khoe khoang giàu sang và bày biện phô trương sở thích và cá tính.
Chủ nhà ra đón, thoáng nhìn ông như thành viên của Hoàng gia thời trước năm một chín bảy lăm. Tóc mượt chải ra phía sau, mặc áo lụa mỡ gà, cổ đứng, may thuôn dài ôm hông, không xẻ tà, đi đứng phải thẳng lưng. Ăn mặc và ẩm thực của hoàng gia thường lưu lại lâu dài trong dân chúng, đặc biệt là với lớp người trung lưu, thành một thứ mốt cưỡng lại sự phổ biến quá nhanh với lòe loẹt màu sắc và ăn nhậu vô độ của lối sống thời nay. Tôi nhìn vầng trán rắn đanh như cái hạt đào khô của chủ nhà cứ ngờ ngợ người này đã gặp ở đâu.
Ở đâu? Ở đâu?
Tôi lục tìm trong ký ức. Ông chủ nhìn tôi cũng nói, nhìn anh quen quen. Rõ chán cho cả hai. Kỷ niệm chiến tranh lâu ngày giống như tấm ảnh đen trắng ố mốc, mặt người không còn các đường nét riêng biệt. Rồi sau vài câu thăm hỏi, tôi mới ồ lên:
- Ông “Tín xằng xịt” phải không?
Ông Tín cười hơ hơ:
- Còn ai vào đây nữa.
Bây giờ tôi mới nhớ ra ông này hay nói hai từ “xằng xịt”. Xằng xịt với ông là câu chê lính ta đánh đấm không đâu vào đâu, hoặc nhận xét thằng phỉ chả ra gì, xằng xịt thôi. Chúng tôi theo nhau bước lên sàn nhà. Ông Tín nhận ra ngay từng bước tập tễnh của tôi. Bua nói với ông Tín gì đó. Ông Tín quay sang bảo tôi, ngồi xuống ghế mây này, để ông chữa cái chân cho tôi. Ông lấy chai nhựa nước màu xanh đục, treo lủng lẳng ở vách nhà, đưa cho Bua:
- Ba cái thứ rượu ngâm mật gấu xằng xịt này, chữa bong gân được đấy.
Bua kéo chiếc ghế ngồi xuống cạnh tôi, bảo: “Để em bóp cho anh”. Bàn tay Bua thật nhẹ nhàng xoa bóp bên ngoài vết thương cho tôi.
Tôi ngồi để Bua bóp thuốc, mắt hướng về phía ông Tín.
Thời ông Tín là trung đội trưởng trinh sát, bạn cùng quê với ông Nghi thì tôi là người làm bản tin Chiến thắng của Trung đoàn Tình nguyện. Không biết từ ai mách bảo, trung đoàn ép tôi tiếp nhận công nghệ in thổ tả có từ thời in truyền đơn hô hào phá kho thóc của Nhật và ủng hộ Vệ quốc. Tôi phải vác từ hậu phương vào chiến trường một mặt đá hình chữ nhật như viên gạch lát 30 nhân 40, nặng trịch, chưa kể mực viết, mực in và đồ nghề in. Công việc khởi đầu của bản tin là vác mặt đá xuống suối, dùng cát mịn đánh phẳng như gương. Chờ mặt đá khô, “thợ sắp chữ” là tôi dùng bút lá tre, cặm cụi viết những dòng chữ ngược bằng mực tím pha đặc lên mặt đá. “Sắp chữ” xong, dùng nước chanh hoặc nước khế chua quét nhẹ lên mặt chữ. Nét chữ sẽ “ăn” vào mặt đá. Công việc in sau đó đơn giản hơn, chỉ dùng ru-lô lăn mực in lên mặt chữ. Mực in sẽ dính vào những dòng chữ viết ngược. Đặt giấy trắng lên, xoa nhẹ, những dòng chữ viết ngược in sang giấy, thành chữ viết thuận. Mỗi lần kỳ cạch viết, in được chừng dăm chục bản, gửi xuống đơn vị. Lính ta đọc bản tin in đá này, thế nào cũng có cậu cằn nhằn rằng không biết thằng nào in bản tin chữ lem nhem như ngựa liếm mà dám tống về đơn vị.
Từ ngày ông Nghi mất, năm vài lần Bua đến thăm vợ chồng ông Tín, như tìm ở ngôi nhà này chút hơi hướng còn sót lại của người mình yêu. Bua đến không nói gì nhiều, chỉ ngồi hàng giờ ngắm đôi vợ chồng gia chủ, rồi về. Chỉ thế thôi cũng đã thỏa phần nào nỗi nhớ người đã khuất. Lần nào ông bà chủ nhà cũng an ủi bà Bua, đánh xe ngựa đưa bà về lại Phôn-xa-vẳn, lấy lý do cùng xuống chợ. Cả gần chục năm nay hai gia đình cứ đưa đi đón lại thân tình như vậy.
Ông Tín nói với Bua vợ chồng ông mới về quê nội ở Vĩnh Phúc, có ghé thăm cô Vẻ, vợ ông Nghi ngày xưa. Vẻ bây giờ khổ lắm, già như bà lão, lấy chồng rồi lại bỏ chồng đến hai lần, giờ chán, ở một mình nuôi đứa con gái. Ông có hỏi cô Vẻ, còn nhớ ông Nghi không? Cô ấy bảo, người ta khi còn trẻ hay mắc lỗi, hòn vàng ném đi, hòn chì giữ lại. Trong mấy người đàn ông thì ông Nghi là người tử tế nhất.
Bua nghe chuyện, thở dài.
Ngày xưa do làm bản tin, hàng ngày tôi phải xuống đơn vị nghe chuyện chiến đấu để viết tin. Ông Tín nổi tiếng trong chuyến đi trinh sát, tôi không bỏ qua cơ hội để viết gương người tốt việc tốt. Nghe tôi hỏi chuyện, ông Tín bảo:
- Đánh nhau xằng xịt thôi, có đếch gì mà viết.
Tuy nhiên tôi vẫn moi được từ ông vô số điều đáng viết thời đó.
Năm một chín bảy mốt, tôi đặc biệt nhớ năm này và nếu là lính chiến thực thụ từng ở mặt trận thì nhận biết năm một chín bảy mốt, ấy là bắt đầu thời kỳ lính ta vững vàng hơn về tinh thần, hào hứng đánh trận để bước dần đến ngày toàn thắng.
Đã trải qua những ngày tháng cùng cực của thời kỳ đầu sáu mươi, sáu mốt, phải nhen nhóm ngọn lửa trong giông bão “tố cộng, sát cộng” của địch vì thù hằn. Đã trải qua, mất mát đến rỗng cả đội hình trong năm sáu tám bởi với quyết tâm tiến công và nổi dậy trên các đô thị toàn miền. Đã trải qua những ngày gạt nước mắt đành để mất đất đứng chân thành vùng trắng, cắm đầu cắm cổ chạy đến kiệt sức lên rừng vì bị địch truy đuổi cả ở dưới đất, trên kênh rạch, sông biển và trên trời. Những ngày gian nan ấy người lính bị ép lại, như cánh cung bị nén quá sức, bỗng bật ra, đánh những trận chết bỏ chứ không cho địch ở thế thượng phong. Những trận đánh bé rồi lớn với tinh thần phải sống, phải thắng liên tục thắng như chẻ tre, khởi động trong người lính tinh thần hứng khởi mới, địch không còn đáng sợ, không phải tránh địch mà tìm địch mà đánh, đã đánh là thắng. Và từ đó nảy nở muôn ngàn sáng tạo về cách đánh, ít có thể thắng nhiều, thắng liên tục, từ thắng một cứ điểm đến thắng cả một vùng rộng lớn, thắng trên rừng núi, thắng dưới đồng bằng, thắng trong thành phố, làm thay đổi cục diện của cuộc chiến, từ cầm cự sang tổng phản công. Trước kia, trước một trận đánh cấp trên còn phải cân nhắc nặng nhẹ rồi phát động phong trào thi đua để anh em tình nguyện xung kích. Bây giờ ngó thấy địch, cấp trên chưa kịp ra lệnh, lính ta đã nhao nhao đòi đánh. Muôn vàn cách đánh sinh sôi, nảy nở. Nhiều trận chỉ một nhóm chiến sĩ bò vào đồn, ra một cái lệnh bất ngờ, “buông súng, giơ tay lên thì sống” đã lấy đồn dễ như trở bàn tay. Nhìn mặt lính ta hăm hở xung trận, địch chỉ còn biết bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thời kỳ thịnh vượng tinh thần có thể thấy rõ từ năm bảy mốt đến vào cuộc Tổng tiến công kết thúc cuộc chiến tranh, tháng Tư năm bảy nhăm.
Ông Tín, chỉ là một cá thể nhỏ của đội quân nhiều binh đoàn thời bảy mốt cũng có niềm hứng khởi thấy địch là tìm cách đánh. Ông đi trinh sát khác hẳn những lần trước, bò lên gần hàng rào ngoài cùng của đồn địch, nằm lại đến quá nửa đêm cho nhạt hơi người, phòng địch nuôi chó, rồi để hai cậu lính đi cùng nằm lại, một mình bò vào đồn. “Đồn như cái váy chăng, vào làm đếch gì nhiều, một mình tớ trinh sát là đủ” - Ông thản nhiên nói với hai người đồng đội đi cùng.
Ở ngoài, hai chàng chờ đến sáng bảnh bỗng thấy trung đội trưởng vác AR-15 đi nghênh ngang từ đỉnh đồn ra cổng gác như chỗ không người. Bọn lính địch lúc đầu tưởng quân mình, mặc xác. Nhưng khi ông Tín ra đến cổng gác thì bỗng lính địch hò hét loạn lên. Ông Tín vác súng chạy một đoạn rồi vội ném quả lựu đạn về phía sau cho địch cúi cả xuống. Lựu đạn chưa kịp nổ, đã thấy Tín nhảy phốc qua cổng gác được chắn bằng cuộn thép gai bùng nhùng. Trong đồn bọn lính địch hò nhau bắn như vãi đạn ra cổng, thì ông Tín đã lăn xuống tận chân cao điểm, vê thuốc lá hút, chờ hai chiến sĩ đi cùng đến họp mặt.
Sau chuyến trinh sát đồn Ba Cây Xanh, ông Tín được gọi lên trung đoàn để trợ lý thi đua khen thưởng bồi dưỡng viết báo cáo trình cấp trên xin danh hiệu Chiến sĩ thi đua và Huân chương Chiến công hạng Ba. Đi trinh sát một đêm mà viết thành tích theo yêu cầu của trợ lý thi đua khen thưởng mất cả tuần vẫn chưa xong. Sốt ruột quá, ông Tín bảo: “Thôi, em xin làm lính thường cho nhẹ”, rồi đùng đùng bỏ về đơn vị. Ngay sau chiến thắng năm bảy lăm, ông Tín lại một lần nữa từ chối đi học sĩ quan, xin phục viên rồi biệt tăm từ ngày đó.
Tôi hỏi ông Tín:
- Sau bảy lăm, ông biến đi đâu mà bây giờ mới thấy mặt?
Ông Tín vẫn cười hơ hơ:
- Làm ba cái việc xằng xịt kiếm sống rồi đi tìm bà Duông chứ còn đi đâu. Bà ấy kín tiếng lắm, phải rạc cẳng chúng tôi mới gặp nhau. Thôi, ta uống rượu nhá, có rượu nói chuyện cho vui.
Tôi bất ngờ đem chuyện riêng và giữa cuộc vui, hỏi ông Tín:
- Ông đi nhiều nơi ở Lào, có biết Tiểu đoàn 48 Hải Ngoại hoạt động ở Thượng Lào từ hồi đầu đánh phỉ Vàng Pao không?
Ông Tín nhướng mắt nhìn tôi:
- Anh hỏi ai ở Tiểu đoàn Hải Ngoại?
Tôi bảo:
- Hỏi để biết thôi.
Ông Tín bảo:
- Thằng Bốn tám anh hùng đấy, nhưng sau đó bị xóa phiên hiệu vì hy sinh gần hết, chỉ còn chừng non đại đội. Thằng Bốn tám đánh nhau từ hồi những năm đầu sáu mươi, phỉ Vàng Pao mới xưng vây, xưng vảy ở Xiêng Khoảng. Tiểu đoàn phân tán trong dân, làm công tác xây dựng cơ sở, vận động bà con không theo phỉ và chống quân Vàng Pao càn bắt dân, bắt lính. Tay tiểu đoàn trưởng hùng hồn tuyên bố: “Tao đã đánh nhau, còn một thằng lính cũng đánh”. Lão ấy hy sinh trong trận giáp lá cà với quân Vàng Pao ở Mường Xủi, chứ không, tiểu đoàn không còn một mống.
Có manh mối về bố tôi đây rồi: Mường Xủi. Tôi muốn hỏi thêm nhưng không tiện, đành thôi, không muốn làm phiền người vì chuyện riêng của mình. Đến sáng hôm sau, tôi nhớ chuyện dở dang, hỏi thêm ông Tín về Tiểu đoàn Bốn tám. Lúc tỉnh rượu ông lại bảo, chỉ nghe người ta nói có thế.
Bây giờ cũng chẳng cần chúng tôi hưởng ứng hay không, ông vào nhà trong, bưng ra cái lọ sành miệng nút lá chuối khô. Sau đó bà vợ ông Tín ra, hai tay chắp trước ngực chào khách. Đó là người đàn bà đoan trang, gương mặt đường nét cân đối, dáng cao, đôi mắt nâu đen, sáng, toát lên vẻ đẹp trang trọng và quý phái, ít gặp ở các cô gái Lào Sủng thường mặt tròn bụ bẫm, da nâu, bắp chân to lam lũ.
Bà chủ nhà chưa kịp múc rượu ra bát gỗ mời khách, Khăm Xỉ nói:
- Chị Duông ngồi nói chuyện, ta là người nhà, không phải mời rượu theo phép tắc.
Được chồng gật đầu cho phép, bà Duông ngồi giữa tôi và Khăm Xỉ. Cách ngồi đàng hoàng nhưng ý tứ, mép váy áo không chạm vào người ngồi bên. Quả thật, tôi tò mò về vợ ông Tín hơn là rượu ngâm mật gấu và cao hổ, nhất là sau khi Khăm Xỉ giới thiệu bà chủ nhà là cháu của vua Mèo Ly-poong, trước năm sáu mươi còn có kinh đô tòa ngang dãy dọc toàn gỗ quý ở Noọng Hét.
Vua Ly-poong, ông Tín kể, có đạo quân vài trăm tay giáo mác, năm nào cũng mở hội tuyển quân, và tuyển người tài làm chỉ huy đội quân của tiểu quốc. Một lần tuyển, Vàng Pao được trọng dụng vì tài bắn súng và có sức khỏe hơn người, có thể vật ngã con bò đực kéo gỗ. Vua Ly-poong hài lòng, gả con gái cho Vàng Pao, muốn con rể đứng bên cạnh, cùng vua cha giữ vương quốc lâu dài. Nhưng ngay sau ngày cưới, chàng rể Vàng Pao không thích chỉ huy đám lính nghiện hút và trang bị sơ sài bằng giáo mác của vua cha mà trở thành trung úy chỉ huy lực lượng biệt kích, được phát súng dài và quần sáu túi, Pháp tổ chức để chống phá cách mạng Việt - Lào. Đội biệt kích không vận hỗn hợp (GCMA) chưa hoạt động được gì ở Noọng Hét thì Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Vàng Pao quay ngoắt, dâng đội biệt kích cho quân đội Hoàng gia. Để trả ơn, quân đội Hoàng gia phong cho Vàng Pao hàm thiếu tá, giữ chức Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn Mười, đóng quân ở bắc Cánh Đồng Chum. Thiếu tá Vàng Pao chỉ huy Tiểu đoàn Mười chưa được mấy bữa thì CIA nằm vùng ở Thượng Lào mấy chục năm bắt liên lạc. Vàng Pao được hứa hẹn trở thành thủ lĩnh đội quân đặc biệt có đại bản doanh giấu kín ở thung lũng Loong Chẹng. Để nhanh chóng thu hút vài chục vạn thanh niên người Mẹo (người Lào gọi là người Lào Sủng) đầu quân, trước hết CIA muốn Vàng Pao phải là ông vua Mẹo. Lịch sử người Mẹo là cuộc thiên di vạn lý từ phía Bắc xuôi dần về phía Nam nghe đâu xuất phát từ đời Thương. Sườn núi, thung lũng và đồng bằng đất tốt đều đã có các dân tộc bản địa cư trú. Vì thế đi đến đâu tìm đất sống người Mẹo cũng bị xua đuổi. Họ chỉ còn biết dạt lên sống, trên các đỉnh núi cao. Cuộc sống tha hương và lam lũ hun đúc lên tính cách người Mẹo hoang dã và liều lĩnh với ước mơ truyền đời có một vương quốc, một ông vua để được ngửng mặt lên ngang bằng với các dân tộc khác. Với Vàng Pao, trở thành vua Mẹo không khó, buổi sáng tạm cởi quân phục nhiều túi, buổi chiều Vàng Pao đã mặc hoàng bào vì hất cẳng bố vợ, chiếm ngôi vua. Những ngày triều vua Ly-poong hỗn loạn, bà Duông, cháu vua bị hạ bệ mới mười tuổi. Con cháu hoàng gia tứ tán, phần đông chạy về phía đông, nơi những người dân Nghệ An lam lũ và hiền hậu sẵn sàng đùm bọc người cơ nhỡ.
Tôi hỏi bà Duông, dinh cơ của vua Ly-poong ở Noọng Hét còn gì không? Bà Duông bảo, còn một vài mặt đá kê chân cột. Ngày vua Ly-poong bị Vàng Pao cướp ngai vàng, bà có chạy sang Việt Nam không? Bà Duông bảo, lúc ấy bà cũng hão, tưởng mình cành vàng lá ngọc, đi đâu cũng phải có đón rước, mời chào. Chẳng ai chào mời cả, nên bà cứ loanh quanh ở rừng núi Xiêng Khoảng. Chờ mãi mới có ông Tín chìa tay ra… Tôi lại hỏi bà Duông một câu đáng lẽ không nên hỏi, những ngày bà lang thang, có gặp anh bộ đội Việt nào cũng lang thang không? Bà Duông lại tưởng tôi nói trêu, nên chỉ cười ý nhị rồi xin phép rót rượu mời khách.
Tục người Lào, khách quý đến nhà, đàn bà mời uống. Nữ quyền còn sót lại ở khâu tiếp khách và một số việc nhà. Vị trí người đàn bà tộc người Mẹo được xác định trong câu hát truyền đời: Người con gái giữ lửa; người con gái như hạt lúa giống; người con gái giữ nia cong, giữ sàng cong, giữ lưng ông bà.
Bà Duông thấy chồng thúc uống rượu thì nhẹ nhàng xin phép Khăm Xỉ và tôi đứng dậy, đến bên hũ rượu, múc rượu ra năm cái chén sành, đặt lên khay gỗ, rồi quỳ xuống, nâng khay rượu lên ngang mặt, đi lết bằng hai đầu gối, lần lượt dâng rượu cho khách và chồng. Cách mời rượu trang trọng và thân thiện.
Ông chủ vẫn giữ lối uống rượu của người quê Vĩnh Phúc, ngửa cổ uống hết chén, khà, rồi bắt tay khách, nói xăm bai, xăm bai lải lải (lời chào thân thiện nhiều nhiều). Một vệt nắng rọi qua cửa sổ, soi gương mặt ông chủ đỏ phừng phừng. Rượu mật gấu và cao hổ đã ngấm là khó cưỡng. Ông Tín có vẻ chếnh choáng, nói đã đầy lưỡi trong khoang miệng, nhưng cứ bảo không say, không say, đòi uống tiếp mặc dù bà Duông đã có ý dừng cuộc rượu. Khà đến lần thứ năm thì trong người ông Tín có con ngựa bất kham nhảy chồm chồm rồi, dây cương không kìm được nữa. Ông không chỉ khà khi cạn chén, mà còn vung tay đập cái chén sành vừa uống xuống sàn nhà thề bỏ gì thì bỏ, không bỏ rượu.
Bà Duông không giữ được bình tĩnh. Bà đặt khay đựng chén xuống, ngồi quỳ hai gối, chắp tay lên ngực, mắt đỏ mọng nhìn hướng về phía chồng như muốn khóc. Đó là động tác quen thuộc bà nhẫn nại cầu xin chồng ngừng cuộc rượu. Đàn bà Lào không nói to với chồng khi giận dữ, mà thường tự đày ải mình để chồng soi vào vợ mà nhận ra mình.
Ông Tín đập cái chén xong, quay lại, bỗng nhận thấy vợ ngồi chắp tay, ông mới giật mình nhớ ra lời thề nguyền của vợ chồng nhà này, nên vội chắp tay xin lỗi vợ.
Bà Duông nhận thấy chồng đã xin lỗi, đứng dậy, xách hũ rượu vào nhà trong.
Đợi bà Duông ra, Khăm Xỉ bảo:
- Thôi, bây giờ ta nói chuyện ngày xưa đi.
Ông chủ gạt phắt:
- Say rồi, say rồi, không nói chuyện khi say.
Nhưng rồi ông Tín bà Duông lại vẫn cùng nhau kể.
Nghe chuyện của họ, tôi nghĩ, tình yêu đôi khi như bắt được. Lính tráng trong chiến tranh vẫn thường có những mối tình bắt được. Có cặp chỉ chớp mắt thấy nhau lúc qua sông, qua suối, lúc bom đánh, bom vùi, thế mà chờ nhau suốt cuộc chiến, để hòa bình tìm nhau mà thành đôi lứa sinh con đẻ cái. Cặp nhà Duông cũng vậy, đâu có thề non hẹn biển mà chờ nhau, đến với nhau chỉ bằng một nụ cười, một ánh mắt từ trong cái đêm trinh sát năm nào.
Đêm ấy ông Tín bò vào đồn dừng lại sau bếp để nghe ngóng và quan sát. Vạch khe nứa nhìn vào, thấy bên cạnh ngọn đèn hạt đỗ, có người đàn bà mặt mũi lem luốc, nằm nghiêng, hai chân co lên tận ngực, hai tay ôm lấy đầu, đặt ở trước bụng con dao thái thịt, đang ngủ. Hẳn người này không phải vợ lính nên mới nằm xó bếp, giữa xung quanh là nồi niêu và thùng chậu, bao gạo và vô khối rau xanh. Tín bỗng nhớ đến phổ biến của cấp trên trước đó, là quân Vàng Pao lấn chiếm nhanh ra Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, không ít bà con Lào ở vùng giải phóng không kịp chạy, bị bắt. Người già, trẻ con, chúng dồn về những dãy núi bên ngoài Sảm Thông, Loong Chẹng lập hàng rào người bảo vệ căn cứ; thanh niên bắt đi lính ngay tại chỗ; còn phụ nữ bắt phải phục dịch cho lính chiến. Không ít cô lên đồn vài ngày đã thành gái chung chạ của bọn lính. Người đang ngủ co quắp kia là thế nào?
Tín bò qua lối cửa sau của khu bếp, đến sát cô gái thì dừng lại quan sát. Thì ra trên mặt cô gái không phải các vết sẹo chằng chịt mà là nhọ bếp như là cố ý bôi lên. Ngắm lâu, Tín dần nhận ra cô gái chỉ ngủ vờ và dường như đang nín thở theo dõi người đang bò về phía mình.
Sau này ông Tín biết, từ khi ông bò vào bếp, cô đã không bỏ qua chi tiết nhỏ nào của ông. Cô nhận ra bộ quần áo ông mặc là của bộ đội Việt, cô đã có cảm tình từ trước đó. Đến khi Tín vừa bò nhích lên thì bên ngoài có tiếng giày lộp cộp của lính địch, rồi tiếng đập cửa xin nước uống. Cô vội vục dậy, đẩy Tín ngồi lùi sau đống bao gạo ở xó nhà, rồi xách cái ấm đi ra cửa. Cô đàng hoàng mở cửa, đưa cho tên lính cái siêu nước, bảo:
“Lần sau không xin nước vào ban đêm”.
Tên lính cười hề hề:
“Tao không chỉ khát nước”.
Cô gái bảo:
“Cậu lính làm phiền, tôi mách ông chỉ huy đấy”.
Nói rồi, cô nhận lại chiếc ấm, đóng cửa, quay vào. Sau này Tín biết, ngày bị ép lên đồn làm phục dịch, Duông tháo tất cả vàng bạc đeo trên người, kể cả chiếc vòng lắc vàng đeo tay, vật báu của vua Ly-poong dành cho cháu gái đưa cho trưởng đồn để mua chuộc được yên thân.
Cô quay lại, cầm đèn lên tay để hai người nhìn rõ nhau. Tín nhận ra cô gái có đôi mắt lấp lánh sáng và gương mặt trái xoan. Hai người không nói gì, chỉ nhìn nhau. Cô nhìn anh như hút cả hình bóng anh vào trong đôi mắt. Trước khi Tín lén bước ra cửa sau, để trinh sát đồn địch, cô gái chỉ nói thì thào một câu, mong gặp lại.
Ông Tín thú nhận, bấy giờ, chỉ nụ cười và đôi mắt nhìn “chết người” của cô gái gặp trong bếp, ông đã tự hẹn với mình, nếu còn sống thì chín suối mười đèo ông sẽ tìm cô.
Công việc trinh sát đồn địch sau đó không những khá dễ dàng vì Tín đã ở trong đồn, còn lấy được khẩu súng AR-15 ở một ngách giao thông hào. Trinh sát xong, Tín vác AR-15 ra cửa đồn. Sau đêm ông Tín gây náo loạn ở cổng gác, bộ đội Việt chưa kịp đánh, đêm sau bọn phỉ đã gói ghém đồ đạc bỏ chạy. Chúng không ngờ, quanh đồn bộ đội Việt đã vây chặt. Vì thế thò cổ ra khỏi đồn đứa nào, bị bộ đội tóm đứa ấy. Cả cô nhà bếp gánh một gánh gạo và rau muối chạy theo cũng bị tóm. Trong lúc bộ đội đang lập danh sách phân loại tù binh thì trung đội trưởng trinh sát Tín xuất hiện. Cô Duông được đặc cách đưa hẳn về sở chỉ huy trung đoàn để thủ trưởng trung đoàn cảm ơn vì đã giúp bộ đội Việt trinh sát địch. Mãi sau chiến dịch, cô Duông mới trở về bản Hợp.
Bà Duông kể:
- Cùng cực lắm anh ơi. Về bản, ngày đêm cứ dài như đói cơm. Chờ đến giữa năm bảy hai, người thân trong gia đình mới bỏ chạy khỏi Sảm Thông về bản. Cha đã mất, chỉ còn mẹ và hai đứa em người như que củi cháy dở. Sau đó, lại chờ tiếp cho đến tận cuối năm bảy sáu mới thấy chiếc xe ca chở khách đột ngột dừng lại trước của nhà. Tôi thấy ông Tín đeo ba lô xuống xe. Ông gọi, có phải Duông không? Tôi bước vội xuống mấy bậc cầu thang, lỡ chân nên bị té, kêu ối anh ơi…
Tôi hỏi bà Duông:
- Ngày ấy chỉ có nhìn nhau chốc lát, mà sao bà lại nhanh chóng lựa chọn ông Tín?
Bà Duông nói:
- Tôi nào được chọn. Hoàn cảnh nó lựa chọn chứ. Tôi đã biết bộ đội Việt từ trước đó. Nên thấy ông Tín là tin ngay đây là người sẽ cứu mình.
Nghe xong chuyện của ông Tín bà Duông, Bua bảo tôi:
- Cứ như mơ ấy anh nhỉ.
Tôi không cho mối tình này là giấc mơ, chỉ công nhận sau năm một chín bảy lăm, một số chính sách hà khắc đối với Quân tình nguyện đã giảm bớt. Nhớ hồi đầu chống Pháp, một đơn vị tình nguyện hoạt động ở Hạ Lào, có chiến sĩ liên lạc thỉnh thoảng được xuống bản vì công vụ đã phải lòng cô gái Lào Lum. Khi yêu, anh chiến sĩ liên lạc không biết, cô gái đã nhận lời đính hôn với con trai ông trưởng bản. Họ rất đẹp đôi, nhưng yêu như vậy là phạm phải điều yêu cô gái đã đính hôn bị trưởng bản kiện. Để giữ uy tín bộ đội Tình nguyện, tòa án quân sự quyết định xử phạt hình thức nặng nhất với anh chiến sĩ liên lạc để làm gương cho bộ đội và xoa dịu bất bình của dân bản sẵn sàng quay mặt với bộ đội cách mạng, chạy về phía địch. Trước khi chấp hành hình phạt, anh chiến sĩ được phép nói lời cuối. Anh chiến sĩ ngửng cao đầu, mắt tìm kiếm cô gái trong đám đông, rồi gọi tên cô. Tất cả dân bản lúc ấy mới quỳ xuống xin tha tội cho anh. Phó Tư lệnh Quân khu có mặt trong cuộc xử phạt lập tức ra lệnh hoãn xử, tha và loại ngũ anh lính chiến, đuổi về hậu phương. Anh chiến sĩ quay về qua biên giới cho đúng phép tắc, rồi một mình lặng lẽ quay lại tìm cô gái. Họ nắm tay nhau chạy vào rừng, vượt biên giới sang đất Thái Lan sinh sống. Câu chuyện buồn quên đi gần hai mươi năm. Cho đến một ngày, thủ trưởng của đơn vị Quân giải phóng miền Nam nọ qua đông bắc Thái Lan mua lương thực. Họ được vợ chồng một nhà buôn trên đất Thái cung cấp nhiều tấn gạo. Nhận chuyến gạo cuối cùng, người chỉ huy đơn vị hậu cần bỗng nhận ra nhà buôn gạo nọ, hỏi: “Cậu Điển liên lạc ngày xưa có phải không?”. Họ ôm nhau trong nước mắt. Từ sau cuộc xử phạt bị hoãn cho cậu liên lạc, dường như không có mối tình Việt - Lào nào được nảy nở như ông Tín và bà Duông sau này.
Chúng tôi ngủ lại gia đình ông Tín sau bữa cơm xa ma khi của dân bản. Gia chủ dọn bữa cơm như mọi ngày, nhưng khi vừa ngồi xuống mâm thì mọi nhà trong bản tự nguyện bưng đồ ăn đến góp. Nhà típ xôi. Nhà xâu cá nướng. Nhà rau dưa. Nhà đĩa thịt kho… Có gì góp nấy, thức ăn và xôi đều được những người đàn bà bưng hai tay dâng ngang mặt, quỳ gối lết đến gần mâm khách, cúi đầu nói một câu: “Sơn kin khẩu xa ma khi”, mời ăn cơm đoàn kết, trước khi đặt đĩa thức ăn xuống. Càng cuối bữa, thức ăn và xôi đem đến càng nhiều. Tôi thích xôi nếp nương Lào và được bà Duông hướng dẫn cách ăn xôi theo phong tục bản địa. Người Lào không bao giờ ăn hết nắm xôi trong tay. Ăn như vậy bị cho là mất mùa. Vì thế, cầm nắm xôi, người ăn bẻ từng miếng nhỏ, ăn cho đến khi chỉ còn một miếng, thì lấy xôi tiếp, không để hết xôi trên tay nếu chưa phải miếng ăn cuối bữa.
Khăm Xỉ chếnh choáng, được gia chủ xếp ngủ ở giường phòng khách, còn tôi và Bua mắc võng song song ngoài hành lang tầng hai cho thoáng. Bua có vẻ khó ngủ, lục xục trên võng suốt, rồi không đừng được, ngoảnh sang tôi, hỏi ngủ chưa, mặc dù thừa biết tôi cũng đang thức.
Tôi bảo:
- Uống trà đặc vào buổi tối nên khó ngủ.
Bua nằm im một lúc, rồi bảo:
- Lần nào gặp vợ chồng anh Tín chị Duông, Bua cũng thấy buồn cho mình.
Không thấy tôi nói gì, Bua lại hỏi:
- Sống một mình, anh có chống chếnh không?
Tôi xoay mặt về phía Bua. Ngọn đèn vẫn cháy trong nhà khách rọi một luồng sáng lướt trên mặt cô với đôi mắt ngân ngấn nước. Tôi sẽ nghiêng đầu lảng tránh cái nhìn của đôi mắt như đang muốn khóc. Tôi vỗ tay sang đầu võng của Bua:
- Thôi ngủ đi. Chống chếnh mãi cũng quen Bua ạ.
Lâu sau tôi mới nghe tiếng Bua:
- Chả ai quen với cô đơn!
Nói rồi Bua nằm im, tiếng thở nhịp nhàng. Bua dường như cố nén không muốn quấy rầy tôi nữa. Nhưng lúc ấy, nghe Bua nói, chả ai quen với cô đơn, tôi chạnh lòng nên lại muốn nói chuyện. Mẹ tôi giờ này có lẽ vẫn ngồi bên bậu cửa. Bao nhiêu là loạn ly, cuối cùng nhiều người lại tìm thấy nhau. Vậy mà mẹ tôi mãi mãi ngồi trên bậu cửa chờ đợi một phép màu. Trở lại chiến trường, tôi biết, sẽ chẳng có phép màu nào đến với mẹ cả, nhưng tôi không thể nói với mẹ điều đó. Bởi dù chỉ le lói một phần nghìn tia hy vọng mẹ vẫn khao khát sống hơn khi tia hy vọng đã tắt.
Sáng hôm sau trước khi lên đường, tôi bảo Khăm Xỉ:
- Tôi muốn đi Mường Xủi.
Xỉ bảo:
- Quê tôi đấy. Trung đoàn Tình nguyện mà anh đi sưu tầm tài liệu không chiến đấu ở Mường Xủi, nên từ đầu Tỉnh đội đã không có kế hoạch dẫn anh về đó. Thôi để sau chuyến đi, anh về quê tôi chơi. Anh tìm gì ở đó?
Tôi nói:
- Tôi muốn tìm tài liệu Tiểu đoàn Bốn tám.
Xỉ kể, tiểu đoàn này không đánh “xằng xịt” như ông Tín nói đâu. Năm bốn tám, Tiểu đoàn Hải Ngoại một từ đông bắc Thái Lan về đồng bằng sông Cửu Long đánh giặc ở mạn Đồng Tháp. Tiểu đoàn về còn chở theo cả xưởng máy in bạc Đông Dương. Còn Tiểu đoàn Hải Ngoại hai không phải thành lập ở Thái, mà từ Thái về nước, qua đường Thượng Lào, chỉ có vài chục người. Đến Xiêng Khoảng thì họ được lệnh dừng chân, cho biên chế vào Tiểu đoàn Bộ binh từ Tây Bắc sang, giúp Lào xây dựng cơ sở và đánh bọn phỉ Vàng Pao, giành giật dân. Thời kỳ đầu xây dựng cơ sở vất vả bằng mấy đánh nhau. Bộ đội ở trong dân có gì ăn nấy. Có khi ngày dân là của Vàng Pao, nhưng đêm dân lại của ta, hoạt động cho ta. Rồi Mỹ bỏ tiền ra cho lính mua dân. Dân theo Vàng Pao thì được cấp tiền, cấp gạo. Thế là dân theo lính phỉ kéo về Sảm Thông, Loong Chẹng. Trong bản còn trơ lại một số dân trung kiên và bộ đội xây dựng cơ sở. Cũng có bộ đội giả dân, lọt sâu vào Sảm Thông, Loong Chẹng, cho đến khi địch thanh lọc mới lộ ra, bị phỉ sát hại rất dã man. Vào Loong Chẹng có chín cái dốc đá, gọi là Hin Tạng. Hin Tạng thứ chín vực đá sâu hun hút, là nơi phỉ hành hình bộ đội ta hoạt động cơ sở bị chúng phát hiện. Không tốn một viên đạn, chúng dẫn anh em ta lên đỉnh Hin Tạng, rồi đẩy xuống vực đá. Dưới đáy Hin Tạng thứ chín trắng những bộ xương người. Sau này, ở Viêng Chăn tôi có được gặp bà Duông Cai, Anh hùng Quân đội, vốn là Đại đội trưởng Đại đội Pháo binh nữ của quân đội Lào, từng ở huyện Xay Xổm Bun nên biết rất kỹ về các Hin Tạng và vùng Sảm Thông, Loong Chẹng. Tôi hỏi về xương người ở đáy Hin Tạng thứ chín, bà Duông Cai bảo đúng rồi, một thung lũng xương người, ngày thì trắng xác, đêm thì xanh chấp chới vì ánh lân tinh hắt lên. Năm mới hòa bình, Huyện đội Xay Xổm Bun cử một trung đội đi thu dọn hài cốt dưới thung lũng Hin Tạng để mai táng. Xuống đáy vực, anh em mới giật mình biết thêm, dưới đó có một dòng nước ấm chảy ra từ ruột núi đá vôi. Có nước ấm nên rắn tụ đến rất nhiều. Rắn giữ nên hài cốt ở đây không mất. Anh em quy tập được năm bao tải. Không bộ hài cốt nào nguyên vẹn. Lính phỉ Vàng Pao được Mỹ trang bị súng ống tận chân răng, nhưng hành hình anh em ta bị bắt, phỉ vẫn dùng lối tra tấn cổ điển man bạo, là chặt thi thể ra nhiều mảnh rồi mới ném xuống vực. Năm bao tải xương huyện đội đem về mai táng chung ở nghĩa trang huyện, trên bia chỉ khắc một ngôi sao vàng và hình mặt trăng, biểu tượng của quốc kỳ hai nước Việt - Lào.