Hướng chính nam.
Mật gấu ngâm rượu và sự tận tình của Bua đã chữa lành chân đau cho tôi để tiếp tục cuộc hành trình. Trước mặt tôi là bức tranh tráng lệ về cỏ nối tiếp nhau trên các ngọn đồi bằng uốn lượn nhịp nhàng về phía chân mây.
- Đích đến chiều nay của chúng ta là dãy núi xanh mờ kia! - Khăm Xỉ chỉ về dãy núi xa mờ phía nam cao nguyên.
Tôi đã qua Cánh Đồng Chum theo trục Bắc - Nam vài lần, nhưng đi vào ban đêm, còn đi ban ngày thì rất vội, vừa đi vừa chạy cho kịp người đi trước, không thể dừng chân nhặt viên sỏi không may lọt vào giày. Đi đứng như thế làm sao thấy được vẻ đẹp bức thảm dệt bằng cỏ hình vỏ xoài, dài mười chín cây số, rộng chín cây số đặt lọt giữa các đỉnh núi cao hai ngàn mét.
Có một lần, ông trợ lý Tuyên huấn bất chợt nhận ra tôi, người làm bản tin và chụp ảnh tư liệu của trung đoàn, hò dừng lại và bảo chụp một vài kiểu kỷ niệm. Trong ba bốn lần bấm máy, có một lần tôi chụp riêng Trung đoàn trưởng Ngân. Ông đứng chống nẹ, gió thổi tóc bay lất phất về phía sau, lộ vầng trán rộng, mắt nhìn về dãy núi nhấp nhô xanh mờ. Nơi ấy là cao điểm Yên Ngựa, đơn vị ông vừa vùi cả tiểu đoàn Thái Lan BC609 xuống các hầm ngầm và giao thông hào. Chụp xong ảnh, ông Ngân bảo tôi: “Cậu nhớ cho mình ảnh nhá, kẻo con cháu sau này nó bảo chưa qua Cánh Đồng Chum. Bọn trẻ hay so đo quá khứ”.
Tôi được chứng kiến trận đánh mở màn chiến dịch phản công Đông Xuân Bảy mốt với tư cách người chụp ảnh và viết tin, lẽo đẽo chạy sau lưng lính của trung đoàn ông Ngân đánh lên cao điểm tiểu đoàn Thái Lan chiếm giữ. Tôi nhớ bấy giờ, chỉ huy chiến dịch là vị tướng lừng danh đánh thắng giặc Pháp ở Điện Biên, người cao lớn, râu hùm hàm én hẳn hoi, lần này ông chỉ huy mấy sư đoàn phản công giành lại cao nguyên chiến lược của nước Lào, phản công lại chiến lược Việt Nam hóa, Lào hóa cuộc chiến tranh cực kỳ khôn ngoan của đế quốc Mỹ. Ngày đầu vào chiến trường, vị tướng dẫn các cán bộ chỉ huy và tham mưu các đơn vị lên đài quan sát nơi mắt thường cũng nhìn rõ mấy chục cứ điểm của mười bảy tiểu đoàn lính Thái đánh thuê và gần mười tiểu đoàn lính đặc biệt Vàng Pao cùng năm tiểu đoàn phái hữu của Chính phủ Hoàng gia dàn trận trên cao nguyên và một số điểm cao có giá trị khống chế thành một tập đoàn cứ điểm kiểu con nhím của Pháp ở Điện Biên Phủ ngày nào. Tập đoàn cứ điểm của Vàng Pao được bao vây cả rừng thép gai và bom Mỹ đánh vòng ngoài hai bốn tiếng ngày đêm.
Trên đài quan sát, không ít cán bộ chỉ huy đơn vị và tham mưu mặt trận đề xuất với vị tướng đánh một trận hiệp đồng binh chủng của hai sư đoàn bộ binh cùng các trung đoàn pháo, lữ đoàn xe tăng diệt gọn tập đoàn cứ điểm địch trong thời gian nhanh nhất. Bộ đội ta thích đánh nhanh, thắng nhanh, vì ngán dầm dề ăn mắm ruốc với rau tàu bay ở mặt trận. Phải đánh một trận trúc chẻ tre bay mở đầu giai đoạn dập tắt chiến lược ngụy biện và nguy hiểm của Mỹ là Việt Nam hóa, Lào hóa cuộc chiến tranh. Vị tướng nghe rồi hỏi một sư đoàn trưởng:
“Đơn vị anh đang thiếu gạo phải không?”.
Vị sư đoàn trưởng nói:
“Sư đoàn đã chỉ thị cho các đơn vị giảm khẩu phần, để tiết kiệm gạo cho chiến dịch tiến công”.
Vị tướng bảo:
“Tiết kiệm gạo không bằng tiết kiệm máu”.
Sau đó, phải mất ba tháng trinh sát nắm địch, các đơn vị mới có các phương án chiến đấu thể hiện trên sa bàn. Mười mấy đơn vị xin đánh, vị tướng chỉ chọn có một, giao cho Trung đoàn trưởng Ngân đánh cao điểm Yên Ngựa:
“Các cậu đánh thắng, đứng trên cao điểm này” - Vị tướng nói - “Tập đoàn cứ điểm địch ở phía dưới sẽ rung chuyển. Phải thắng. Nhớ phải thắng” - Vị tướng nhấn mạnh với ông Ngân rồi nói thêm - “Các cậu đánh thắng để hàng vạn binh sĩ đỡ phải vất vả”.
Ba đêm sau, Trung đoàn Tình nguyện nổ súng đánh chiếm cao điểm.
Ở Đại đội 1 chủ công, Đại đội trưởng Kim chọn bảy chiến sĩ trẻ khỏe vào tổ cầm cờ. Tổ cầm cờ sáu chiến sĩ hy sinh dọc theo cửa mở vì đạn bắn thẳng. Người trước ngã, người sau cầm cờ lao lên. Người thứ bảy cờ đến tay là chiến sĩ Quy. Quy vượt qua khỏi cửa mở, chưa cắm được lên nóc hầm cố thủ của địch thì bị bắn gãy một bên chân, khuỵu xuống. Vừa lúc Đại đội trưởng Kim chạy tới. Kim cũng bị thương vào tay phải, không dùng được súng nhưng vẫn cùng đại đội phó chỉ huy chiến đấu. Hai người quáng quàng băng bó vội vết thương cho nhau rồi Kim lệnh cho Quy:
“Nhảy lên lưng tao, nhanh lên!”.
Quy vừa nhảy lên lưng, Kim kêu:
“Cái đ… gì thối thế?”.
Quy bảo:
“Chắc lúc nãy mót quá, em lỡ…”.
Kim chửi:
“Sợ bậy mẹ nó ra quần còn đòi cầm cờ”.
Quy bảo:
“Em sợ chó gì bọn này. Qua cửa mở, dừng lại… sao được”.
Kim cõng được Quy đến gần hầm cố thủ, bảo:
“Cậu bò lên cắm cờ”.
Loay hoay một lúc, Quy cắm được cờ lên nóc hầm. Vừa lúc đó phân đội súng phun lửa lao tới.
Kim nói:
“Chúng lúc nhúc trong hầm ngầm, gọi hàng vẫn ngoan cố ném lựu đạn ra. Bọn gàn, cho chết”.
Chiến sĩ dùng súng phun lửa mặt mũi lầm lì không nói một lời, chĩa đầu súng vào cửa hầm ngầm, phóng hỏa. Lúc phóng hỏa, chiến sĩ ôm súng không để ý, trên nóc, ngay cạnh cửa hầm còn Quy đang nằm vì mất máu kiệt sức. Đến lúc, lửa phè ra cửa hầm, liếm lên nóc, Kim mới kêu lên:
“Cháy cha thằng Quy rồi!”.
May mà Quy mới chỉ bị cháy tóc và xém mặt.
Trận đánh kết thúc khi khói trong hầm bốc ra toàn mùi khó chịu.
Cánh Đồng Chum dường như khước từ ký ức chiến tranh, nó chỉ giữ những thảm cỏ mượt mịn suốt mùa mưa, và ngả vàng thau vào cuối mùa khô. Máu từng ngấm xuống dưới những lớp cỏ này. Tôi bới, thấy bộ rễ cỏ màu trắng tua tủa xọc vào đất. Tôi chú ý tìm kiếm một mảnh đạn hoen gỉ để hình dung về thời gian lùi xa chiến tranh cũng không thấy. Di sản cao nguyên nhìn rõ nhất là mấy nghìn chiếc chum đá đục đẽo thô ráp nằm rải rác trên mặt cỏ. Vậy thôi mà hàng trăm năm nay, người ta vẫn đồn đoán về mục đích sử dụng những chiếc chum đá chưa xác định rõ ràng về niên đại. Có người cho rằng chum đá để người xưa tích lũy lương thảo. Có người lại bảo, nếu chỉ để đựng ngô lúa, cần gì phải làm chum đá? Những chum đá có lẽ, trước hết phải là đồ chơi. Con người thời cường tráng, ham vui thường vẫn làm ra những đồ chơi trở thành báu vật cho đời sau đó thôi. Vậy thì, đây phải là chum đá đồ chơi có thể dùng vào việc chứa rượu khao quân chiến thắng hoặc trưng ra thể hiện sức mạnh và tài hoa chế tác đá của người Thượng Lào vào các dịp hội hè. Người xưa chọn Cánh Đồng Chum làm nơi vui chơi, vậy mà đời sau, rõ thật chán mớ, lại chọn nơi này làm bãi chiến trường.
Khăm Xỉ đưa tôi tập ghi chép của đại tá tình báo Mỹ Lu-xen Cô-nin (Lucien Conein) từng đóng khố ở trong bản người Mẹo miền Thượng Lào anh đã dịch sang tiếng Việt, bảo đọc để biết về hai “ông lớn” từng tính chuyện về cao nguyên Cánh Đồng Chum như thế nào.
Lu-xen Cô-nin kể, người Pháp rồi người Mỹ chỉ chăm chăm nhìn địa thế cao nguyên trên độ cao ngàn mét, lại nằm giữa các dãy núi hai ngàn mét là vị trí chiến lược số một về ưu thế quân sự của bán đảo Đông Dương, xếp trước Tây Bắc và Tây Nguyên của Việt Nam. Cả hai siêu cường đều muốn độc chiếm cao nguyên. Lu-xen cho rằng người Pháp ở Đông Dương muốn chiếm đóng Cánh Đồng Chum để làm đối trọng về vị thế quân sự với Việt Minh ở Tây Nguyên và Tây Bắc. Nhưng người Mỹ lại tính khác, chỉ cần một đường băng cho máy bay quân sự ở Cánh Đồng Chum cất cánh đã ở độ cao nghìn mét, bay chục phút về phía đông bắc là uy hiếp Hà Nội, về phía nam, uy hiếp Sài Gòn, về phía tây nam uy hiếp Viêng Chăn, Phnôm Pênh, về phía tây, uy hiếp Băng Cốc và phía tây bắc uy hiếp Rangoon, Miến Điện. Ngay sau Pháp thất thủ Điện Biên, Lu-xen thúc người Mỹ nhảy xuống Cánh Đồng Chum và mở đường băng dã chiến. Phái viên quân sự Mỹ từ Thái Lan đáp máy bay cỡ nhỏ Helio Cô-nin đến gặp Lu-xen hỏi, làm gì để Mỹ nhanh chóng có đội quân đặc biệt ở Thượng Lào? Lu-xen nói với phái viên việc này nên trao đổi với đại tá Ê-ga Bua, đã sống nhiều năm với người Mẹo trên các đỉnh núi. Được hai tình báo hỗ trợ, đội quân phỉ Vàng Pao nhanh chóng được tập hợp, cất giấu ở thung lũng Sảm Thông, Loong Chẹng.
Càng về phía nam đồi cỏ nhô cao dần, gối lên chân rừng.
Dưới chân quả đồi tiếp giáp rừng, có con suối nước róc rách qua khe đá. Vô số cây tóc tiên treo chùm lủng lẳng quả như bóng đèn màu xanh dọc hai bờ suối. Trời sinh thật lạ, cao nguyên đất màu bazan vậy mà con suối chảy trong lòng lại lổn nhổn những đá, nước trong vắt. Suối Cạn nổi tiếng của chiến dịch mùa khô Cánh Đồng Chum năm một chín bảy mốt đây ư? Tôi không tin cuộc chiến giải phóng Cánh Đồng Chum kéo dài gần hết mùa khô lại kết thúc ở một nơi chẳng có vẻ là địa thế quân sự nào như thế này, nhìn sơ sài như bãi chăn trâu.
- Nó đấy - Khăm Xỉ xác nhận - Đây là Suối Cạn. Ngày trước bà con Lào trong vùng dựng trên bờ suối ngôi chùa gỗ để thắp nhang cầu siêu cho lính chết trận ở suối. Rồi không biết do lũ cuốn hay ai đó đốt, ngôi chùa không còn. Nền cũ ngôi chùa rải đá vẫn còn đây.
Chúng tôi dừng lại nghỉ bên bờ Suối Cạn.
Bua thật khéo chọn, tìm ra gần nơi nghỉ có cái ang nước trong veo để bước xuống tắm. Chị em Lào tắm táp thoải mái, kể cả ở chỗ đông người. Bỏ mặc chúng tôi ngồi hút thuốc, Bua bước xuống ang, nước đến đâu thì kéo váy lên đến đấy, tắm xong, bước lên, nước cạn đến đâu, lại thả váy xuống đến đấy. Khăm Xỉ bảo: “Chắc cô Bua không biết cái ang nước này từng là hố tử thần của lính Thái nên mới hồn nhiên tắm thế kia, chứ tôi dù mấy chục năm mưa lũ đã gột sạch nhưng bước xuống nước vẫn ghê ghê”.
Mươi ngày sau đỉnh Yên Ngựa toàn mùi thịt cháy, Suối Cạn thành cái bẫy kinh hoàng cho lính Thái tháo chạy khỏi cao nguyên Cánh Đồng Chum.
Mở đầu trận truy kích là bộ đội ta ngồi trên đỉnh Yên Ngựa thỉnh thoảng hạ nòng ĐKZ bắn chơi vài quả đạn lên đầu các cứ điểm của lính Thái đóng phía dưới. Đó là cú điểm huyệt làm choáng váng không chỉ lính Thái mà cả lính Vàng Pao và quân Hoàng gia. Bị ta gõ đầu mà mấy ngày liền các căn cứ địch trên Cánh Đồng Chum im như thóc giống. Chỉ có một đồn của lính đặc biệt Vàng Pao ở rìa cao nguyên đêm nào súng máy cũng bắn như xé vải. Quái lạ, chúng bắn gì mà gắt thế. Hai trinh sát được lệnh mò lên để kiểm tra cái ổ đại liên của giặc, tính chuyện dập tắt cho đỡ ngứa mắt. Trinh sát càng bò đến gần, đại liên bắn càng rát. Hay là bị lộ? Trinh sát cắn cả đoạn cây vào hai hàm răng, đề phòng ho bất thường, nằm chờ đến cả mười phút, đại liên địch vẫn không ngừng xả đạn. Bọn này đúng là điên, đạn bắn chả có hướng nào như pháo đĩ. Pháo đĩ là lính ta đặt tên. Chả là đĩ từ hậu cứ của lính Thái tuần được đưa lên đồn một lần. Ý chừng, sau khi sướng, đĩ được lính thưởng công tận tụy bằng cách cho bắn một vài phát pháo. Đĩ bắn thì chả cần ngắm nghía gì, cốt là gây tiếng nổ. Pháo đĩ bắn tứ tung, vào đâu thì vào, đôi khi cũng gây cho lính ta phiền phức vì không biết đằng nào mà tránh. Một trinh sát tiếp tục tiếp cận để xem cái bọn điên bắn súng máy. Bò đến gần sát ổ hỏa lực, trinh sát mới tá hỏa, nhận ra bắn súng máy không phải lính mà là chó bị buộc dây kéo cò súng vào chân. Chó càng nhảy lên, càng giãy, súng máy càng nổ liên thanh.
Các đơn vị đồng loạt xin Tư lệnh Mặt trận cho nổ súng vì sau khi ta lấy Yên Ngựa, địch đã hồn vía lên mây. Bản lĩnh từng trải của vị tướng Tư lệnh, không dễ xiêu lòng với các báo cáo xin đánh nhanh của các đơn vị. Ông lên đài quan sát, chĩa ống nhòm vào căn cứ tiểu đoàn Thái nằm bên cạnh cao điểm Yên Ngựa. Đúng ra thằng sát sườn Yên Ngựa phải giãy nảy lên phản kích, nhưng không, chúng nằm im. Vì sao nằm im? Mưu sự của chúng là gì? Đêm qua, theo tin của đài kỹ thuật, Tư lệnh Mặt trận được thông báo, A-bờ-ram, tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở chiến trường miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là chiến trường Đông Dương bay sang Băng Cốc, ngồi với Kít-ti-ca-chon, tướng Thái và tướng phỉ Vàng Pao, nói về kế hoạch chiếm giữ lâu dài cao nguyên chiến lược. Mất Cánh Đồng Chum là mất thế đứng chân với cả Đông Dương, A-bờ-ram nói với thuộc cấp. Vậy sao địch nằm im không phản ứng khi mất Yên Ngựa? Tư lệnh đoán, chúng có thể rút khỏi Cánh Đồng Chum đang bất lợi về thế để lập một phòng tuyến mới ngăn chặn đà tiến công của quân cộng sản rồi phản công trở lại.
Để buộc mấy chục tiểu đoàn Thái Lan, lính đặc biệt Vàng Pao và quân phái hữu của Chính phủ Hoàng gia phải rút theo ý ta, Tư lệnh Mặt trận tính một đòn phủ đầu nữa. Ông chọn căn cứ quân Thái đóng dưới chân cao điểm Yên Ngựa đánh một trận hiệp đồng binh chủng. Phải tung lực lượng mạnh nhất của chúng ta ra diễu võ dương oai địch mới xanh mặt.
Ở sở chỉ huy, Tư lệnh Mặt trận hỏi Trung đoàn trưởng Trung đoàn 41:
“Anh biết chạy việt dã không?”.
Trung đoàn trưởng ngớ người:
“Báo cáo Tư lệnh, ý Tư lệnh là…”.
“Ý tôi hỏi anh biết chạy việt dã không?”.
Trung đoàn trưởng ngần ngừ trả lời vì chưa biết ý Tư lệnh là gì.
“Báo cáo Tư lệnh, chạy việt dã thì tôi chạy được chừng năm cây số”.
“Anh chạy cùng xe tăng, được chứ?” - Tư lệnh hỏi tiếp.
Trung đoàn trưởng dần hiểu ra ý của Tư lệnh:
“Báo cáo Tư lệnh, nếu chạy cùng xe tăng thì cả Trung đoàn 41 có thể chạy mười cây số đường rừng”.
“Vậy thì tốt - Tư lệnh nói thêm - Anh triển khai kế hoạch đi. Đêm nay tôi cho anh bốn xe tăng đánh điểm cao dưới chân Yên Ngựa do tiểu đoàn tăng cường của Thái chiếm giữ. Anh nghe rõ tôi nói rồi chứ. Đêm nay phải đánh ngay, không đánh nhanh, nó rút chạy là công cốc. Vì thế anh phải chạy việt dã từ bây giờ mới kịp”.
Bốn giờ đồng hồ sau đó, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 41 đứng ở đầu con đường công binh vội làm cho xe tăng.
Tư lệnh Mặt trận hỏi:
“Các anh chuẩn bị xung phong chưa?”.
“Báo cáo, tối quá, đường lại xấu, xe tăng tiến rất chậm”.
Tư lệnh gắt:
“Còn sợ gì nữa mà không cho xe tăng bật đèn pha lên xung phong”.
Trung đoàn trưởng lệnh cho tất cả xe tăng bặt đèn pha, phóng vào đồn địch. Bầu trời đêm bỗng rực sáng và tiếng hô xung phong của hai tiểu đoàn bộ binh ran lên.
Cùng lúc, Tư lệnh truyền lệnh cho các đơn vị nhanh chóng triển khai phương án đánh địch, bọn Vàng Pao chạy đèn cù quanh bảo vệ các căn cứ quân Thái chiếm đóng. Những người lính nai nịt súng ống đầy người vội vàng chạy theo các mệnh lệnh của chỉ huy.
Ở vài nơi đón lõng, anh em thường không kịp đào công sự, mà lợi dụng các mô đất, ụ đá, gốc cây nằm chờ địch. Một đại đội bộ binh gặp địch trong rừng. Đại đội trưởng chưa kịp hô quân dàn trận, lính địch đã lô nhô trước mặt. Từng chiến sĩ tự đặt cho mình mục tiêu, nằm bắn những tên địch chỉ còn cách vài chục mét, trước khi nhảy lên đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê. Đội hình địch như chỉ rối trong tiếng hô xung phong áp đảo của đối phương. Cả một đại đội lính Vàng Pao bị bắt sống. Từ trận bắt sống nhiều lính phỉ này, anh em phổ biến kinh nghiệm, bắt được lính phỉ Vàng Pao, nếu chỉ trói hai tay ra phía sau, hoặc hai tay ra phía trước đều không an toàn. Bọn phỉ lẩn nhanh như sóc trong rừng rậm, gặp dốc núi là bất ngờ ngồi co lại, gập đầu xuống ngực, lăn xuống dốc, rơi đến đâu thì rơi miễn là thoát thân. Đến khi ta lao xuống chân dốc, thì chúng đã mất tăm. Cho nên để chống phỉ lăn dốc núi, phải đặt một cây đòn như đòn gánh buộc dang hai tay chúng ra. Cách trói cổ điển kiểu chúa Giêsu bị hành hình này, chúng muốn lăn cũng không lăn được. Các trận nhỏ của ta càng đánh rát, địch càng rối mù, chỉ còn biết chống đỡ yếu ớt và giơ tay hàng.
Tiểu đội xung kích của Nguyễn Trọng Thìn bắt được một lính gái quần áo rách rưới, nhưng mặt mũi rắn đanh, mắt lạnh tanh, nhìn không hề sợ hãi. Thìn hỏi, cô gái không xưng tên mà nói một cách kiêu hãnh là đội viên của quân Thái Lan đi theo tiểu đoàn lính đặc biệt Vàng Pao để truyền tin. Khám người, các chiến sĩ thấy quả lựu đạn, mỏ vịt trong túi quần cô gái. Lính ta thu quả lựu đạn cô gái nhất mực đòi lại để sẵn sàng tự sát.
“Sao phải tự sát?” - Tiểu đội trưởng Thìn hỏi bằng tiếng Lào phổ thông.
Cô gái nói đó là mệnh lệnh của cấp trên để tránh bị quân cộng làm nhục.
Tiểu đội trưởng Thìn cởi chiếc áo đang mặc khoác lên vai cô gái, bảo cô thay chiếc áo rách hở da thịt, rồi ra lệnh:
“Đi đi, theo hướng nam có thể sẽ gặp lại quân Vàng Pao và quân Thái”.
Cô gái không dám đi vì sợ sẽ bị bắn trong rừng. Cuối cùng, sự kiêu hãnh mất biến, cô gái quỳ xuống cảm tạ lòng tốt của người tha bổng, rồi bước vào rừng.
Cho đến khi bọn quân đặc biệt Vàng Pao chạy đèn cù để bảo vệ các căn cứ quân Thái không còn khả năng bảo vệ nữa, Tư lệnh Mặt trận cho pháo binh bắn cấp tập vào các căn cứ chủ yếu của tập đoàn cứ điểm địch. Ông ra lệnh cho các đơn vị không được vội xung phong. Anh chỉ huy nào cho bộ đội xung phong, ông kỷ luật. Loạt pháo cấp tập ngừng. Cả mặt trận với gần ba sư đoàn dàn trận đột nhiên lặng như chốn không người.
Bỗng có tiếng máy bay trên nóc rừng.
Tư lệnh nói với sĩ quan trinh sát:
“Cậu xem máy bay nó làm trò gì”.
Trinh sát nói từ phía ngoài cửa hang:
“Báo cáo Tư lệnh, máy bay thả pháo sáng”.
“Pháo sáng thả hướng nào?” - Tư lệnh hỏi gấp.
Sĩ quan trinh sát báo cáo:
“Máy bay địch thả pháo sáng một dãy dài ở phía tây - nam”.
Tư lệnh bỗng đứng phắt dậy, hét giữa hang đá:
“Địch rút mẹ nó rồi. Truy kích!”.
Tư lệnh lệnh cho các cấp chỉ huy cho bộ đội rời khỏi trận địa, truy kích địch, đơn vị nào để địch chạy thoát, ông sẽ cách chức cấp chỉ huy.
Cuối cùng chẳng anh cán bộ nào bị cách chức. Phía trước đuổi địch, phía sau phục kích. Hai phía trước - sau kẹp địch vón cục lại nhiều nơi dọc rìa phía nam cao nguyên. Suối Cạn là một trong những nơi địch vón cục như thế, chỉ trong nửa giờ, xác giặc chồng lên nhau lấp kín cả mặt suối.
- Chỗ này - Khăm Xỉ đã tìm ra cái nền cũ rải đá của ngôi chùa do dân dựng tạm để thắp nhang cho kẻ chết đường. Bới từng kẽ đá, may mắn tôi nhặt được một mẩu tượng Phật nhỏ, bằng đồng đã mất tay, mất đầu, nhưng còn nửa thân và cái bệ, có dòng chữ tiếng Anh vẫn đọc được: “United States allies giveThai army brothers” (Đồng minh Hoa Kỳ tặng quân đội Thái Lan anh em).
- Chỗ này - Tôi nhắc lại lời Khăm Xỉ, nhưng nghĩ, chỗ này là nơi lời nhắc tiết kiệm xương máu của vị Tư lệnh thành hiện thực.
Thời gian một lần nữa lại chậm lại đối với tôi.
Chậm lại gần ba mươi năm, để tôi nhớ lại, khi ở Suối Cạn thành cái hố chôn xác lính giặc, tôi cõng đồ nghề in Bản tin Chiến thắng không thể chạy theo bộ đội vì họ chạy quá nhanh và hay thay đổi hướng, đành phải quay lại Sở chỉ huy Trung đoàn.
Bấy giờ xung quanh Trung đoàn trưởng Ngân vừa đi đốc chiến ở đơn vị về, không còn đông đảo các trợ lý của ba cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần thường ở bên cạnh. Họ đã được phái xuống các đơn vị để đốc chiến. Vì thế, ông Ngân ngồi cô độc một mình với chiếc gậy có khoét lỗ để hút thuốc lào dựng ở vai. Hình như ông đã hút quá nhiều thuốc trong đêm cả trung đoàn đánh các cứ điểm và truy kích nên gương mặt với da khô và nhám đen phảng phất màu khói thuốc. Cả giọng nói của ông cũng đặc sệt khói thuốc, nghèn nghẹn khi ông nhắc cậu cần vụ đi gọi Tham mưu trưởng trung đoàn lại cho ông. Tham mưu trưởng có mặt ngay sau đó, nói với Trung đoàn trưởng rằng tất cả các đơn vị truy kích đều gặp địch tháo chạy. Họ tiêu diệt rất nhiều địch, nhưng chưa kịp tổng kết con số là bao nhiêu. Trung đoàn trưởng nghe báo cáo có vẻ hờ hững bởi ông đang nghĩ đến chuyện khác. Ông cắt ngang lời Tham mưu trưởng:
“Anh cho chuyển Sở Chỉ huy Trung đoàn vào phía trong”.
Tham mưu trưởng hỏi:
“Thưa anh, chuyển ngay ạ?”.
Ông Ngân không trả lời mà hỏi lại:
“Anh tưởng bọn địch lọt khỏi vòng vây của ta nó chạy tuốt về tận Loong Chẹng à?”.
Ông Tham nưu trưởng có vẻ lúng túng:
“Thưa anh, ý anh là…”.
Ông Ngân nhồi thuốc lào vào nõ, nhưng chưa hút, mà nói:
“Nó sẽ chạy đến mức nào đó thì dừng lại, đôn quân dự bị phía sau lên lập phòng tuyến để ngăn anh vì không muốn thua trắng bụng. Ta phải chuẩn bị đánh cái phòng tuyến còn ở trong đầu bọn địch. Không cho nó có thời gian củng cố trận địa vững chắc để phản công”.
Rồi ông Ngân kéo một hơi thuốc, phả khói một cách khoan khoái.
Người ta cùng với già đi, sẽ bỏ rơi một vài thói quen vẫn đeo bám từ thời còn trẻ. Tình yêu cũng thế, thời trẻ sôi sục vậy, mà luống tuổi, thì chỉ coi yêu đương là nghĩa vụ cho phải đạo vợ chồng. Hút thuốc là thói quen khó bỏ, thậm chí cả cái động tác hút thuốc rồi ngửa cổ phả khói. Ông Ngân giữ thói quen này suốt mấy chục năm, từ thời còn là lính đánh trận Điện Biên. Tôi mới bắt gặp ông Ngân ngửa cổ phả khói, cách nay chưa lâu, trước chuyến sang Lào tôi tới thăm ông. Từ ngày về hưu, ngày nào bạn bè cùng đơn vị đến thăm là ngày vui với ông, ngày ông được sống trong tràn đầy ký ức. Còn lại, ông ngồi tựa lưng vào tường nhìn thiên hạ lướt qua trước cửa căn hộ tầng một, khu tập thể cũ nát của xí nghiệp Văn phòng phẩm, cơ quan ngày xưa của bà công tác được phân phối. Ông là người thành công trong việc nhà binh, tận hiến suốt gần hết đời người, ít khi để lại sai sót. Nhưng gia đình con cái của ông không thành đạt như mong muốn. Ông có hai đứa con, một trai một gái, sau hai lần ông về phép vội. Bấy giờ bà còn ở nhà quê, lấy chồng nhưng vẫn ở nhờ nhà bố mẹ, vì ông chỉ có mảnh vườn bố mẹ cho, chưa có dịp nào xây cất thành nhà. Một nách hai con, bà tham công tiếc việc, thằng lớn cho học đến hết lớp mười, rồi rẽ đi học trung cấp lâm nghiệp, ra trường được về nông trường của tỉnh. Con gái, bà cũng cho học đến hết lớp mười, rồi ở nhà, đi lấy chồng, là anh viên chức tỉnh lẻ. Trước khi ông Ngân về hưu, bà được hưởng chính sách ưu tiên, được nhận về làm tạp vụ ở Xí nghiệp Văn phòng phẩm, chuyển về phố. Ông về một thời gian, bà cũng về, hưởng chế độ một cục, đâu như được ba mươi triệu, cả nhà sống vào lương hưu trung tá của ông. Đồng lương ít ỏi, các con lại khó, cả gái, cả trai đều đem con về gửi nhờ ông bà, nên đồng ra đồng vào bà phải tính chi ly. Đùng một cái, nông trường giải thể, con trai ông mất việc. Thằng này về sống bám vào bố thì chán, xoay ra đi buôn chuyến ở biên giới. Buôn bán thế nào không biết, một lần thằng con dắt vợ về, ngửa tay nói với bố mẹ: “Chúng con trót vay lãi, đặt hàng bên kia biên giới, chẳng may chủ hàng chạy, mất cả vốn lẫn lãi, nợ cả tỷ đồng, xin bố mẹ thương”. Lấy gì ra một tỷ cho con trả nợ? Ông còn đang nghĩ nát óc, thì một lũ lâu la tìm đến nhà, bắt ông phải ghi nợ, với cái lý, con dại cái mang, nắm người có tóc chứ không ai nắm thằng trọc đầu. Nước mắt chảy xuôi, ông bàn với bà đành bán miếng đất hương hỏa bố mẹ cho. Đền một tỷ xong, hai vợ chồng thằng con trai lại biệt tăm. Thôi, làm ăn lớn không nuốt được thì làm ăn nhỏ, hai vợ chồng thằng cả lại về quê, nhờ ông bà ngoại, mở cái quán ở đầu phố xã, chồng thu gom khi mớ rau con cá, khi vài cân thịt với tương cà mắm muối, vợ ngồi bán, hai tay vơ chưa đủ miệng. Một hôm cô con gái đã đi lấy chồng, hớt hải chạy về mách: “Bố kéo vợ chồng anh ấy về nhà, kẻo tù sớm”. Thì ra cặp này, túng hóa quẫn, muốn một vốn bốn lời, giấu giếm tụ họp cánh thợ xây đánh bài ăn tiền. May mà ông đến kịp kéo cả hai vợ chồng thằng con về nhà, nuôi báo cô từ đấy.
- Cũng là tại mình thôi - Ông nói với tôi - Tại mình mải đánh đấm, không lo đến hậu phương, nên con kém anh, kém chị. Bây giờ nghĩ lại, thằng lính nào mà chẳng thiệt, nên ngậm miệng sống tiếp chứ biết so bì với ai?
Ông buồn khi nói chuyện nhà, nhưng nói đến trung đoàn, nói đến chiến trường, lại hào hứng ngay. Có cảm giác, lúc này, một tiếng hô xung phong thì con người như đã mòn mỏi kia sẽ lại cầm súng mà ra trận tiền.
- Cậu biết tớ nghĩ về Lào thế nào không? - Ông hỏi, nhưng không đợi tôi trả lời, đã nói - Tớ nghĩ nếu bây giờ cho tớ đi đánh nhau ở chiến trường Lào, tớ sẽ giúp kiểu khác, ấy là giúp bạn cùng đánh nhau, để dìu nhau cùng trưởng thành chứ không đánh hộ.
Ông nói rồi thở dài, trạng thái ít khi tôi gặp ở ông.