Ở cao nguyên mặt trời xuống rất chậm.
Khăm Xỉ bảo về mùa khô, Cánh Đồng Chum tối muộn hơn Viêng Chăn chừng nửa giờ. Tôi nhìn kim đồng hồ đã chỉ sáu giờ ba mươi mà cái khối đỏ phía tây vẫn lừng chừng không chịu khuất núi. Có cảm giác mặt trời đang xuống chậm là do lớp lớp mây vảy tê tê sáng lấp lánh chặn lại. Người Lào có kinh nghiệm dự đoán thời tiết bằng chiều chiều nhìn mây vảy tê tê ở phía tây. Vảy tê tê mà lấp lánh sáng thế kia là ngày mai nắng. Hôm nào vảy mây ngả màu vàng nhạt, y rằng hôm sau có mưa.
Vừa đi chạm đến ven rừng, chúng tôi gặp một tốp đàn ông Lào cõng gùi đi ra, người nào cũng gầy sọp, mặt mũi tối tăm, mắt nhớn nhác, áo quần lem luốc. Lại một tốp đi tìm hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện nữa chăng. Tôi đoán nhưng không phải. Đó là tốp người Lào Thơng đi tìm trầm.
Ngày ở miền tây Khánh Hòa, tôi đã gặp những người đi tìm trầm như thế này. Đó là công việc vất vả và kỳ bí. Người đi tìm trầm phải giữ sạch mình nửa tháng trước khi vào rừng. Sạch mình, theo họ là kiêng chuyện giường chiếu với vợ, và vào rừng từ lúc trời chưa sáng, để không gặp ai trên đường. Mỗi tốp đi tìm trầm thường chọn số lẻ, có ba người, hoặc năm người, khi vào rừng từng người rẽ các hướng, không được nói bằng tiếng người, chỉ hú gọi và ra các cử chỉ nhận biết nhau. Ai may mắn gặp cây gió có trầm thì chỉ lấy trầm một nửa, nửa còn lại dành cho người không may mắn gặp trầm. Họ đi rừng tìm trầm dăm bữa, nửa tháng rồi về. Ra cửa rừng, họ dừng lại chờ nhau, san sẻ bớt trầm cho người không may, không khai thác được gì rồi mới về nhà.
Khăm Xỉ hỏi ông già trong đám người:
- Bà con có tìm được nhiều trầm không?
Ông già hạ gùi, lấy ra một mảnh trầm vàng như mảnh da bò vừa hun khói, bảo:
- Không biết đây có phải là trầm tốt không mà lúc lấy trong ruột cây, nó đỏ như máu.
Ông già kể, vạc vài nhát bỗng thấy ruột cây gỗ gió đỏ. Mũi dao cẩn trọng chưa kịp nạy một miếng ruột đỏ, bỗng nghe tiếng người la hét rùng rợn ở cánh rừng nứa bên cạnh. Ông loạng choạng ngã ngồi xuống gốc cây. Các bạn trầm kéo đến, nói với ông, đừng lấy trầm cây gỗ này nữa vì đây là rừng ma. Rừng ma thật, tiếng người hú hét cho đến khi ông và hai người bạn ra khỏi rừng.
Rừng ma, theo ông già kể từng là nơi phỉ Vàng Pao thảm sát với một số binh lính Vàng Pao bạc nhược và tốp bộ đội Tình nguyện do mải truy kích lọt vào cạm bẫy giặc, bị bắt.
Bấy giờ, chiến dịch phản công giành lại Cánh Đồng Chum đã kết thúc trên cao nguyên. Một đơn vị nhỏ của Quân tình nguyện vẫn mải miết truy kích lính Vàng Pao tháo chạy, lấn sâu vào sát vành đai ngăn chặn bên ngoài căn cứ Sảm Thông. Càng đến gần vành đai ngăn chặn bên ngoài căn cứ, bọn phỉ càng cố ý tỏ ra rệu rã để nhử cho bộ đội Tình nguyện cố sức đuổi bắt. Mải đuổi, không phòng thủ phía sau, cho đến lúc các anh nghe tiếng thét: nho mư khịn! (giơ tay lên!) các anh mới giật mình nhận ra bị bao vây bốn phía. Các anh phá vây, bắn đến viên đạn cuối cùng, rồi một vài người bị bắt. Bọn phỉ mừng hú vì chiến thắng bất ngờ khi chúng chỉ còn là đám tàn quân. Chúng lọc số lính phỉ yếu bóng vía, gộp lại với mấy anh bộ đội Tình nguyện, thành một đoàn tù binh, dẫn quay trở lại cánh rừng nứa ven cao nguyên. Trước đó, ở cánh rừng này một AC (đại đội địa phương) của Vàng Pao bị ta diệt gọn. Một cuộc hành hình tàn độc chỉ cóbọn phỉ mới nghĩ ra để trả thù và thị uy bọn lính và dân chúng. Chúng lột truồng từng tù binh, rồi cho lính chặt vát nhọn những cây nứa, sau đó xúm nhau nhắc từng người một, đặt đúng hậu môn vào đầu nhọn của cây nứa, ấn xuống. Mũi nứa nhọn và sắc xuyên từ hậu môn lên cổ, nhô đầu ra miệng người bị hành hình. Tiếng kêu rú cùng với máu phụt ra làm xám ngoét cả cánh rừng. Dân bản bị bắt phải chứng kiến cảnh tra tấn, nhiều người không chịu nổi vội chạy vào rừng mặc cho súng phỉ bắn đuổi theo. Cánh rừng nứa bị bỏ hoang mấy chục năm nay mọc lên nhiều cây gió, có trầm.
Khăm Xỉ hỏi ông già:
- Tiếng la hét như thế nào?
Ông già bảo:
- U u ơ ơ.
- Sao lại bảo tiếng người?
Ông già bảo:
- Giống tiếng người thôi.
Tôi muốn đi vào cánh rừng ma lùng sục xem, những người lính mất tích này còn dấu vết gì không. Nhưng Khăm Xỉ bảo, không còn dấu vết gì về bộ đội ta hy sinh đã nhiều năm.
Chúng tôi không vì câu chuyện rùng rợn của ông già mà thay đổi hướng hành trình. Đi đến tối nhọ mặt, Khăm Xỉ dẫn chúng tôi đến bãi đất có mấy cây thông vỏ nứt nẻ thì dừng lại. Tôi và Khăm Xỉ dọn được chiếc đệm lá thông khô để ba người ngủ chung, còn Bua vào nhà dân ngoài bìa rừng hỏi mượn xoong nồi đem về lán nấu nướng.
Tối đến, tôi và Khăm Xỉ nằm gác hai bên, Bua nằm giữa. Khăm Xỉ ngáy đều đều, còn Bua thì vẫn ngửa mặt nhìn lên màn sao lấp lánh trên nóc rừng. Bầu trời đêm không một gợn mây, sao mang màu lá của rừng, sáng xanh. Yên tĩnh một cách kỳ lạ, chỉ thảng hoặc nghe tiếng chim bìm bịp ở đâu đó. Loài chim này thường khản cổ gọi nhau suốt đêm, cho đến khi gặp nhau thì trời sáng.
Tôi không ngủ được, trở dậy, châm đoạn nến cháy dở, cài vào mảnh vỏ cây, ngồi đọc lại vài trang ghi chép từ hôm ở bản Hợp. Nói chung ngày nào tôi cũng cố gắng ghi chép những tư liệu về chuyến đi, chỉ là những tên người, tên đất, những câu chuyện gặp dọc đường, nhưng từng trang ghi lấy rất nhiều thời gian của tôi. Những câu chuyện gắn với mất tích, những con người vô danh tận hiến cho cuộc chiến thu nhặt được trên đường tôi đều ghi chép lại.
Tôi viết được vài dòng thì ngọn nến lay động vì cơn gió nhẹ. Trong ánh lửa nến lung linh, tôi bất chợt nhìn thấy đôi mắt Bua thăm thẳm nhìn lên ngôi sao lọt qua kẽ lá. Lạ lùng làm tôi gần như sững người lại, ấy là tôi chợt nhìn thấy đôi tay khoanh gọn trong lòng Bua có chú mèo con. Sao lại là con mèo? Tôi có nhìn nhầm không đấy? Không, tôi không nhầm. Tôi không mơ. Tôi đang tỉnh. Tôi đang nhìn thấy trong lòng Bua có chú mèo lông xám. Vì sao Bua lại có một chú mèo khi nằm giữa tôi và Khăm Xỉ? Có lẽ được ôm ấp quá dịu dàng nên chú cũng không ngủ, mở cặp mắt trong veo như hai giọt nước suối nhìn tôi. Bua kiếm đâu chú mèo con để ôm ngủ mà bây giờ tôi mới biết? Trong đầu tôi có rất nhiều giả thiết. Có thể Bua đã ôm được chú mèo của gia đình hồi chập tối cô đến mượn xoong nồi. Có thể đó là chú mèo vì một lẽ nào đó bị bỏ hoang, thèm hơi người, Bua đã dụ được. Nhiều giả thiết tôi không thể trả lời ngay. Chỉ biết, một chú mèo lông xám, mắt trong veo trong lòng Bua. Một chú mèo xám cùng thức với Bua. Theo tiêu chuẩn cái đẹp của Bua, là người đàn ông vác bó lúa trên vai đẹp và hiền, và đẹp hơn vác con dao quắm mà suy ra thì Bua nằm mềm mại ôm chú mèo con nhìn hiền hậu, giàu nữ tính hơn nằm một mình không ôm gì. Bua còn thức, tôi muốn gọi cô dậy nói chuyện, nhưng lại thôi vì chợt thấy ánh mắt Bua đêm nay cũng như hôm ở nhà ông Tín, khi chúng tôi mắc võng ngủ ngoài hành lang trên tầng lầu một. Một điều gì đó trăn trở, nung nấu âm thầm trong lòng người đàn bà từ lâu đã nguyện ôm bóng của người đàn ông để tự an ủi phần còn lại của đời người. Có vẻ càng đi về phía nam, Bua càng như được thức tỉnh, chứ không chỉ đắm chìm vào ký ức. Tôi nhìn vào mắt Bua, Bua cũng nhìn tôi. Chúng tôi giao cảm bằng mắt.