Bua hoạt bát hẳn ra khi đưa chúng tôi thăm lại cứ ngày xưa của Đội Công tác. Cũng ở đây, Bua nói với tôi, chính cô đưa ông Nghi từ Ban Dân vận Mặt trận về Đội. Dọc đường rừng, ông Nghi kể bao nhiêu là chuyện hay về thời bộ đội Tình nguyện Việt hoạt động cùng với ông Cay-xỏn. Vui nhất là chuyện bộ đội Việt cùng ông Cay-xỏn đánh đồn Xốp Hào, một trong những trận đánh mở màn của đội quân Ít-xa-la. Trận ấy có bốn con mèo kéo bốn bùi nhùi giẻ tẩm dầu bén lửa phóng trước vào để đốt đồn địch lợp lá. Mùa khô mái gianh bắt lửa như diêm. Trong lúc địch hoảng loạn hò nhau cứu hỏa thì quân ta xách giáo mác xung phong lên lấy đồn.
Trên đường dẫn ông Nghi về căn cứ Đội, phòng xa nếu gặp bọn thám báo còn nói thác đi, nên hai người đóng cặp tình nhân dẫn nhau về xin phép bố mẹ nhà gái để làm lễ ngan măn (ăn hỏi). Ông Nghi mặc phạ xà lửng, còn Bua mặc bộ đồ người Mẹo, váy xếp, thắt lưng ngoài cạp, áo mở ngực, cài khuy, tay áo, cổ áo, gấu áo đều thêu hoa văn, cổ và chân tay đeo vòng bạc, đi bước nào rinh reng bước nấy. Tối đến, tìm được nơi có cái công sự có nắp cũ, cỏ mọc um tùm, thế là mắc hai cái võng vào hai gốc cây hai bên cạnh căn hầm cũ, võng trên võng dưới vì chỉ có một tấm tăng che sương, mà cả hai vẫn ngủ ngon. Đến gần sáng bỗng nghe tiếng súng tắc bọp, tắc bọp. Bua bảo, bọn thám báo phỉ đấy. Chả biết có phải thám báo không hay người đi săn, nhưng vẫn phải phòng xa, cô vội thu tăng võng và ba lô, kéo ông Nghi ấn xuống căn hầm cũ. Hầm chật, mùi lá mục hôi đến tức thở. Ông Nghi ngồi úp thìa lấy Bua, cứ loay hoay xoay xở. Chờ lâu không thấy tắc bọp nữa, cả hai bò lên khỏi hầm. Bua bảo ông Nghi: “Anh tốt như đàn bà”. “Chẳng lẽ đàn ông xứ Lào không tốt?” - Nghi hỏi lại.
Từ nơi này có thể về bản Phu Xao sớm đi, tối về, không phải trú nhờ nhà dân nên Khăm Xỉ cùng chúng tôi làm lán có giường ghép bằng các thân cây nhỏ, trải lá thông khô làm đệm trông như cái tổ tò vò, tạm trú vài ba ngày.
Nằm thư giãn khoan khoái trên đệm lá thông khô, tôi lắng nghe bài Hoa chăm pa - bài hát dân gian Lào do Khăm Xỉ mở băng chiếc đài Sony nhỏ.
Khăm Xỉ bảo Bua đang nấu ăn, ta lăm vông mấy vòng cho đỡ hoang vắng nhé.
Bua đứng dậy, khoác tấm pha phe chéo vai như một vũ nữ thực thụ, rồi chắp tay lên ngực, mời tôi vào vòng múa, bỏ mặc bếp lửa nấu cơm đang lom rom cháy, củi nổ tí tách.
Tôi đã đi từ Luông-phra-băng, Bắc Lào đến biển hồ Xỉ Phăn Đon, trên miệng thác Khôn, đã lặn lội qua nhiều bản làng và thành phố ở xứ sở Triệu Voi này, thấy đất nước thanh bình có điệu quốc vũ bất kỳ ai cũng có thể múa và hát, ấy là điệu múa lăm vông múa theo điệu nhạc của Hoa chăm pa. Trong chiến tranh cũng như trong hòa bình, lăm vông là điệu múa hát trong đêm trên toàn nước Lào. Ở các bản làng, lúc chập tối, trước cả giờ ăn cơm, tiếng trống tạ pôn đánh theo nhịp lăm vông đã vang lên mời gọi dân bản ra bãi cỏ vui múa hát. Già trẻ gái trai đứng thành vòng tròn trên bãi cỏ. Các cô gái xinh đẹp bước ra, chắp tay mời người vào vòng múa. Chập tối, các cô ý tứ mời các bác, thậm chí các cụ cao tuổi vào múa trước. Sau một vài vòng múa, người già, trẻ con vắng dần, các cô mới chủ động mời rượu các chàng trai rồi vào múa đôi. Họ múa rất đẹp, trai hai cánh tay dang rộng như muốn ôm cô gái vào lòng, còn các cô khi múa hai cánh tay khép gọn trước ngực. Đêm nào cũng lăm vông, đêm nào cũng say đắm vì lăm vông, nhưng đã vào múa thì các chàng trai, cô gái đều chấp hành thể lệ nghiêm ngặt của điệu quốc vũ. Ấy là khi múa, kể cả được mời rượu, người trai múa không được chạm tay vào người cô gái múa cùng. Người trai khi múa nếu vô ý chạm nhẹ tay vào tay cô gái, cô lập tức dừng múa. Người trai phải chắp tay xin lỗi, cô gái mới thuận lòng múa tiếp. Bằng không cô bỏ vòng múa và đương nhiên chàng trai vô ý nọ bị la ó. Tôi không ít lần vào vòng múa lăm vông, càng múa càng yêu quý những con người tươi sáng và hồn hậu của đất nước Lào thân yêu.
Bây giờ, ở đây, tôi lăm vông với Bua, còn Khăm Xỉ múa một mình. Bua như trẻ lại đến mấy tuổi, mặt bừng sáng, mắt long lanh, múa rất đẹp, hai tay uốn lượn trước vồng ngực đầy đặn, tràn trề sức sống. Tôi nghiệm ra cô gái Lào nào vào vòng lăm vông cũng đẹp. Múa mấy vòng, Bua dừng lại cởi tấm khăn choàng qua vai, bảo: “Thôi để Bua nấu bếp kẻo cơm lại sống”.
Tôi rúc vào ổ tò vò, để một mình Bua loay hoay với bếp lửa.
Nằm trong lán, tôi chứng kiến một phần tài nấu nướng của Bua, đặc biệt là làm món lạp chấm xôi. Món lạp thịnh soạn ở các gia đình khá giả có thịt lợn, hoặc thịt bò, thịt gà dằm với gan băm nhỏ, trộn ớt, muối, tỏi, tiêu và nước chanh. Hoàn cảnh ở rừng, Bua làm lạp chấm xôi chỉ bằng ớt xanh nướng, dằm với gan gà luộc và muối, mì chính mà thơm ngon tuyệt vời. Bữa xôi còn có đĩa xào mướp với lòng gà và canh rau đắng, đúng vị thời kháng chiến.
Ăn cơm trưa xong, tôi lại chui vào ổ tò vò khoan khoái nằm ngửa mặt lên mái lều lợp lá móc. Dường như trong lều nhỏ tôi dễ ngủ hơn nơi thoáng rộng. Thói quen ngủ ở chỗ chật hẹp khá phổ biến với nhiều người lính sau những năm dài ở rừng. Ông Ngân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Tình nguyện về nhà cả chục năm, tối tối vẫn mắc cái võng tòng teng giữa hai cây cột để ngủ cho yên giấc.
Tôi làm quen với ngủ trong rừng Lào từ mấy chục năm trước, sau một buổi chiều vượt qua biên giới Nặm Cắn, thật sự bước vào chiến trường. Ở phía dưới triền sông Nậm Mô nhìn lên, Nặm Cắn là đỉnh núi. Nhưng lên đến đỉnh núi này, lại có dòng suối chảy phân chia hai quốc gia. Biên giới là đường phân thủy. Từ đây, nhìn về phía Việt Nam là thung lũng, còn về phía Lào là thảm thực vật bằng phẳng. Bấy giờ bước chân đến giữa suối, tôi lấy mũ cối vục nước rồi hả hê uống như để ghi nhớ một kỷ niệm, uống xong ngửa mặt nhìn trời xứ bạn đang giữa mùa hè, mưa lất phất có tiếng bom ì ầm nổ trên đường Bảy phía gần mặt trận. Chiều tối, lúc mắc võng ngủ rừng tôi mới biết, đó là ngày 20 tháng 7 năm 1969, Apollo 11 đổ bộ lên mặt trăng, phi hành gia Arms trong nói câu nhớ đời: “Từ mặt trăng nhìn xuống, trái đất là hành tinh mỹ lệ”. Tôi nghĩ, có thể phi hành gia không nhìn thấy xứ Lào này, thiên nhiên mỹ lệ đang bốc lên những đám khói bom Mỹ giội xuống.
Ngủ trong lều cỏ, ấn tượng lâu dài với tôi, là lần ở trạm xá trung đoàn. Tôi phải nhập viện chỉ vì thỉnh thoảng nổi cơn đau vớ vẩn trong bụng. Khi đau, khi không như người giả vờ. Ở trạm xá tôi được cô hộ lý chăm sóc chu đáo không chỉ vì là đồng hương hàng tỉnh mà do tôi có cái máy ảnh, ngày chụp, tối rúc vào ngách hang đá che kín cửa để rửa phim và in những tấm ảnh cỡ 3 nhân 4 nhỏ như mặt bao diêm Thống Nhất để tặng cho người được chụp. Nàng rúc vào buồng tối in tráng ảnh lúc tôi đang hí hoáy in ảnh. Đứng áp phía sau lưng, nàng phả ra hơi nóng hổi lên gáy tôi. Cái hơi ấm khơi gợi khó kìm lòng. Thay vì in tráng, tôi vòng tay ra phía sau, ôm gọn cái thắt lưng tròn lẳn và êm ái, không thể không quay mặt lại để hai người xâm chiếm lẫn nhau. Đang căng cứng, có một lực nào đó đẩy nhẹ tôi ra. Không, không phải lực nào đó, mà là một sợi dây kéo dài vô tận nối vào gốc rất xa là nền tảng đạo đức và nhân cách được tiếp nhận lâu nay ra sức lôi kéo tôi buông tay, làm cho chính cô cũng mở mắt bỡ ngỡ vì sự dừng lại đường đột của tôi giữa cơn hưng phấn. Chúng tôi thành cặp đôi trong suốt những ngày tôi ở căn lán lợp cỏ gianh ở cửa hang đá của trạm xá. Đến một buổi chiều, tổ bốn người của trạm xá đi lĩnh thuốc ở kho mặt trận, một người không trở về vì bị bom tọa độ dọc đường. Người ấy là cô gái tình yêu của tôi. Tôi đứt ruột nhớ thương người con gái trong trắng từng định dâng hiến tình yêu cho tôi mà tôi chưa đủ chín chắn để tiếp nhận, giờ đã mất. Cô gái thân yêu không kịp hưởng một lần ân ái đã vĩnh viễn biến khỏi cuộc đời này. Buổi ấy, đã cuối chiều, tôi nhìn về hướng tây, nơi con đường dẫn đến kho hậu cần, chỉ thấy một vầng mặt trời đỏ ối. Chưa bao giờ tôi lại thấy mặt trời đỏ rực như máu báo hiệu gì đó không bình thường như lần ấy. Một câu chuyện tình qua đi như là vô nghĩa. Làm nên cuộc đời, nhất là cuộc đời người lính không phải cái gì cũng có nghĩa, mà được tập hợp lại cả những vô số vô nghĩa. Chiến tranh, người ta lấy chiến thắng, nghĩa rằng, lấy thành tích giết được nhiều hay ít đối phương làm vẻ đẹp, làm niềm tự hào, thì tình yêu thoáng qua, giữa cô hộ lý với tôi đẹp hơn gấp ngàn lần, làm cho con người trở nên yêu con người hơn, ấm áp hơn, xích gần nhau hơn. Dù chỉ là mối tình vội vã thoáng qua, nhưng nó luôn được trân trọng trong tôi.
Đến tầm ngang chiều, tôi mới ngủ dậy, đã lại thấy Bua ngồi cạnh bếp nấu. Cô nhìn tôi hỏi: “Anh muốn ăn món Việt hay món Lào để Bua nấu?”. Bua quá chu đáo làm tôi băn khoăn, mình đã ngủ quên cả việc đi hái rau cùng cô. Tôi nhìn Bua, bảo: “Muốn ăn món của người Lào”. Bua cười, không nói gì. Ai đã nói với tôi, rằng, nhìn phụ nữ ở bếp mới thấy hết cái đẹp của họ. Quả là đúng như vậy. Cô Bua ôm chú mèo con trên sạp ngủ đêm qua và cô Bua ngồi cửa bếp khác nhau một trời một vực. Một cô Bua lơ ngơ sợ bóng đêm cô đơn và một cô Bua vui vẻ, nhiệt thành, nấu bữa cơm rừng cho cả tổ. Bếp lửa làm người đàn bà trở nên nhan sắc hơn.
Cuối chiều, cơm nước xong, loay hoay mãi, Bua mới tìm thấy cái hố đất nông chèn, vết tích của căn lán nửa nổi, nửa chìm làm nơi hội họp của Đội Công tác. Cái hố đất phủ đầy cỏ rác cũng đủ để Bua kể với tôi câu chuyện vui trong buổi sinh hoạt đầu tiên với Đội Công tác của Quân tình nguyện. Buổi ấy, Bua nói, cô được mọi người chú ý sau tình huống không ai muốn xảy ra, ấy là chiếc máy thông tin vô tuyến 2 oát hết pin, không thể gửi về trung đoàn bức điện ngắn. Trong khi hai ông đội trưởng Hiệp và đội phó Nghi lo lắng vì máy 2 oát không hoạt động được, thì anh chiến sĩ tên Thắng coi tình huống không may là cái cớ vui đùa.
Chàng lên tiếng:
“Báo cáo Đội trưởng, tưởng hỏng máy, chứ máy tốt mà hết pin thì chữa dễ ợt”.
Nghĩa phụ trách máy 2 oát quay phắt về phía anh chiến sĩ:
“Con lạy bố. Bố bốc phét vừa thôi!”.
Thắng vẫn tưng tửng:
“Cậu không tin thì ngồi dịch ra để cô Bua đem cái máy về hầm ôm ngủ một đêm, pin lại chả nổi lên rầm rầm, dựng hết cả ăng-ten!”.
Bua tưởng thật:
“Nếu chữa được thì để Bua ôm máy ngủ mấy đêm cũng được” .
Thắng nói thêm:
“Chỉ ôm máy thôi thì khó hồi pin. Phải ôm cả cậu chủ máy thì chỉ một lúc pin đã tự sạc đầy phè”.
Mọi người tủm tỉm cười, Bua mới biết mình bị chọc, mặt đỏ tưng bừng.
Từ cuộc sinh hoạt vui vẻ này, Bua bảo, cô quen dần sống với những anh chiến sĩ học trò của Quân Tình nguyện, thông minh, hóm hỉnh, ăn nói bóng bảy, nhiều ẩn dụ,không nói một là một, hai là hai, thẳng tuột như các chiến sĩ Pa-thét.
Sau phút vui vẻ vì cái máy hỏng, Bua nhớ lại, buổi sinh hoạt Đội trở nên gay gắt giữa một bên là ông Hiệp nắm quyền chỉ huy, ra quyết định thực hiện nhiệm vụ theo tinh thần đánh nhanh thắng nhanh của bộ đội chủ lực, một bên là ông Nghi bằng kinh nghiệm nhiều năm làm công tác cơ sở, khuyên phải cẩn trọng từng bước. Hai bên va nhau tóe lửa mà vẫn không bên nào chịu nhường bên nào.
“Ở đây không có thời gian để cưa răng căng tai như đồng chí Nghi làm ở bộ tộc toong lưởng” - Đội trưởng nói có vẻ chọc ngoáy.
“Vâng! - Nghi đáp - Người Lào dạy: Ăn vội dễ bị bỏng”.
Đội trưởng quay sang hỏi ý kiến của Bun Nhăng - Tổ trưởng tổ Pa-thét phối hợp công tác:
“Ý kiến của đồng chí Bun Nhăng về phương án tiến hành nhanh công tác vận động quần chúng của Đội trưởng như thế nào?”.
Bun Nhăng nói ngay:
“Nhất trí”.
Đội trưởng Hiệp vui mừng, hỏi tiếp:
“Còn lời khuyên “Ăn vội dễ bỏng” của Đội phó Nghi, Bun Nhăng nghĩ sao?”.
Bun Nhăng cũng nói ngay:
“Nhất trí”.
Đội trưởng Hiệp cụt hứng, lắc đầu:
“Vậy là đồng chí Bun Nhăng ba phải rồi, đứng giữa, không ngả về bên nào”.
Ngoảnh nhìn thấy hai tai Bun Nhăng đỏ như tai chuột, mặt cứ ngây thộn ra, ông Nghi thương tình, đứng dậy, nói với ông Hiệp: “Đồng chí Đội trưởng phê phán đồng chí Bun Nhăng ba phải là không hiểu người Lào rồi. Người Lào hay cả nể. Có thể nói tính cả nể là đặc sản của dân tộc sống giữa núi non này. Cả nể, nhường nhịn nên người Lào sống với nhau êm thấm, hòa thuận, ít xung khắc. Hồi những năm sáu mươi trở về trước, Cánh Đồng Chum là nơi chiếm giữ của ba phái: Trung lập của Coong Le, cách mạng của Xu-pha-nu-vông và phái hữu của Chính phủ Hoàng gia Bum Ùm. Mỗi phái giữ một phần cao nguyên, thường sống yên lành, ít khi có chuyện nổ súng bắn nhau. Đã thế ở đây chiến tranh như là quy ước, tôi không bắn anh, anh cũng đừng bắn tôi. Lính ba phái đều có các nhu cầu riêng. Chẳng hạn bên này đêm nay có bun (hội), thì tối đến bắn lên trời một phát pháo sáng làm tín hiệu báo cho hai phái bên kia biết để không quấy quả cho hội được diễn ra vui vẻ. Đúng lúc ba phái cùng sống trên cao nguyên ngả dần sang khuynh hướng hòa hợp dân tộc thì đế quốc Mỹ nhảy vào phá đám, tổ chức lực lượng đặc biệt Vàng Pao để độc chiếm cao nguyên chiến lược Cánh Đồng Chum. Thế là xu hướng hòa hợp của ba phái bị vỡ, quay ra tranh giành nhau. Các dân tộc Lào lại phải cầm súng. Nói như vậy không phải người Lào ba phải. Phải phân biệt thái độ trong giọng nói, trong cử chỉ của họ, để biết họ ưng điều gì, chưa ưng điều gì”.
Nghi vừa dứt lời, Bua ghé vào tai Nghi:
“Ại (anh) nói anh em Pa-thét ưng bụng đó”.
Vậy là kế hoạch ban đầu của Đội trưởng là đưa quân ngay xuống bản, vừa khống chế địch, vừa làm công tác dân vận bị đảo lộn vì không thống nhất từ trong nội bộ. Nhiều ý kiến làm Đội trưởng Hiệp phải nhân nhượng, quyết định để Nghi và Bua đi về rẫy của bà con Phu Xao nắm dân trước, rồi sau đó mới đưa quân thâm nhập bản.
Trước khi xuống bản, Nghi tìm đến lán của Bun Nhăng để hỏi thêm về người Lào Sủng. Bun Nhăng là người Lào Thơng, nhà ở lưng núi, nhưng từ bé lại ở với cha nuôi là người Lào Sủng nên hiểu dân tộc sống trên đỉnh núi. Cha nuôi của Bun Nhăng sống độc thân, võ nghệ nổi tiếng khắp vùng Buôm Lọng. Ông vốn là con nhà gia giáo, giàu có ở tỉnh lỵ, không biết vì lẽ gì bỏ lên rừng chỉ để sống và luyện võ, không màng việc đời. Một lần ông vào nhà thấy mẹ Bun Nhăng đang giã gạo, ông hỏi:
“Đàn ông đi đâu mà bà phải làm vất vả?”.
Mẹ Bun Nhăng thành thật bảo, chồng đã chết, còn con trai thì bé, vác chưa nổi cái chày giã.
Ông bảo:
“Để tôi giúp”.
Ông có sức khỏe phi phàm, giã một thôi, thóc đã thành gạo, bụi cám mịn như phấn hoa. Từ đó, lâu lâu ông đạo sĩ lại về bản, giúp mẹ Bun Nhăng, giã xong cối gạo, rồi đi. Đến khi Bun Nhăng lớn, ông bảo mẹ Bun Nhăng, phải cho thằng con đi chùa để học đạo, học chữ, học phép tắc mới nên người. Bản Lào Thơng không có chùa nên ông xin dẫn Bun Nhăng về ngôi chùa hiếm hoi ở trên đỉnh núi của người Lào Sủng để tu tập. Đến chùa Bun Nhăng mới biết, ông đã thôi không ở rừng nữa mà về chùa làm Sư thầy. Ở chùa, sáng sáng Bun Nhăng theo các chú tiểu đi khất thực, rồi về học chữ. Tối đến, Sư thầy dạy võ cho Bun Nhăng và vài xăng ca men (chú tiểu). Cũng như nhiều bạn cùng lứa, Bun Nhăng tu đến a chan xổm đệt thì về nhà. Sư thầy dạy:
“Người hành thiện là không để cái ác thắng ta. Bây giờ ai gieo cái ác, con biết không?”.
Bun Nhăng nói:
“Cái ác là kẻ gieo cái chết lên đầu người dân”.
Sư thầy bảo:
“Thế thì con đi theo người chống lại cái ác”.
Bun Nhăng đi Pa-thét mang theo những bài võ của Sư thầy dạy. Lúc Nghi đến, thấy Bun Nhăng đang tập bài võ Kim kê thế thủ, hình như có gốc gác từ quân Tây Sơn ở Việt Nam. Bài này chủ đích là để giữ mình. Người tập võ thường trầm tính. Nghi thấy đúng vậy khi nhìn vào Bun Nhăng.
Nghi hỏi:
“Tôi và Bua sáng mai vào bản người Lào Sủng, Bun Nhăng có dặn điều kiêng kỹ gì không?”.
Bun Nhăng bảo:
“Ai vì người Lào Sủng thì người Lào Sủng cũng vì người ấy, cứ đi thôi”.
Đó là hành trang cho chuyến công tác xuống bản người Lào Sủng của Nghi và Bua.