Hướng nam, chếch tây.
Có lẽ ngày xưa phải đi vòng trong rừng để giữ bí mật, nên đến rẫy của bản Phu Xao khá xa. Bây giờ chúng tôi chỉ đi có một chặp, đã tới rẫy. Bao nhiêu năm rẫy của người Lào Sủng vẫn thế, gieo lúa nương vào mùa mưa, trồng ngô, đậu, rau cải, bí đỏ và dong riềng vụ xuân hè. Mùa này đôi khi quá mù ra mưa, nên đất nương vẫn ẩm ướt. Ở đây người dân coi đất cũng như người, có lúc làm lúc nghỉ để dưỡng sức. Một vài mảnh đất cây mục như rừng, là đất bà con cho nghỉ canh tác một hai năm, đến năm nay mới lại phát cây cỏ, đốt sạch rẫy để gieo trồng vụ mới.
Đang lên rẫy, gặp ở bờ rào những bông hoa màu đỏ tươi, Bua hỏi:
- Anh biết hoa này không?
Tôi bảo:
- Hoa đẹp lắm, tôi chưa nhìn thấy bao giờ.
Bua nói đó là hoa thuốc phiện, hay còn gọi là hoa anh túc.
Thì ra loài hoa độc thường rực rỡ. Bây giờ người Lào Sủng không hút thuốc phiện nữa, nhưng nhiều nhà vẫn lén trồng một vài cây thuốc phiện ở bờ rào, lấy nhựa từ quả cây làm thuốc chống đau bụng. Thời chiến, có đơn vị bộ đội Tình nguyện Việt Nam ở trong rừng phía sau bản Phu Xao, không biết ăn uống thế nào mà cả đơn vị đau bụng đi ngoài. Bua và anh em Pa-thét có đến đơn vị này để xem cứu giúp gì được không. Anh em đi ngoài nhiều đến mức ai cũng gầy quắt queo, mặt mũi tai tái, vêu vao, mắt là hai cái hốc sâu. Ban ngày thì bề ngoài đơn vị vẫn như thường. Nhưng ban đêm, trong gió rừng se sắt buồn, anh em soi đèn đi ngoài như sao xa. Nhìn anh em thương lắm. Nhiều anh đi ngoài nhiều quá, đi phải chống gậy, còn thì nằm một chỗ, chờ y tá phụ giúp. Có anh vào rừng kiếm lá làm thuốc, không may vấp mìn, phải mổ để khâu ruột lại. Nhưng mổ rồi thấy ruột do đi ngoài dài ngày, lại uống nhiều thuốc lá cây đắng bị bào mòn, mỏng như tờ giấy, không thể khâu lại được, thầy thuốc đành bất lực. Giữa lúc đơn vị khó khăn về thuốc chữa bệnh thì có một tốp bà con người Lào Sủng đến thăm. Thấy bệnh của bộ đội, người già Lào Sủng bảo:
“Chữa được mà”.
Họ lấy thuốc phiện hòa vào nước vắt từ lá cây hoàng liên giã nhỏ. Thuốc như thần dược, uống đến đâu, anh em khỏi đến đấy, như bệnh giả vờ. Khỏi bệnh, anh đại đội trưởng trẻ tuổi của đơn vị nói với ông già Lào Sủng, xin một ít thuốc phiện để phòng khi bệnh đau bụng cho đơn vị. Cả nửa năm, số thuốc phiện xin được không phải dùng đến, vẫn nguyên trong ba lô đại đội trưởng. Hết chiến dịch mùa khô, đơn vị lui về bên kia biên giới. Lúc qua cửa khẩu, ba lô một số người bị khám. Tổ cảnh vệ phát hiện ra một cục thuốc phiện đen như cục nhựa đường giấu kín trong ba lô đại đội trưởng. Vì cái cục “nhựa đường” chết tiệt, anh em cả đơn vị phải kéo nhau lên quân pháp xin cho đại đội trưởng thoát tội.
Dẫn tôi lên rẫy cao, Bua chỉ tay về phía trước, bảo:
- Xưa kia đồn địch trên quả đồi bằng kia kìa.
Tôi nhìn theo hướng tay Bua chỉ. Từ đây nhìn sang quả đồi “kia kìa” chỉ non cây số. Non cây số nhưng không nhìn rõ mái nhà trên ngọn đồi vì bị khói sương che phủ.
Bua bảo:
- Đố anh, đó là mây hay khói?
Tôi ngước nhìn ngọn núi phía xa không một gợn mây, nắng lấp lánh. Vì thế tôi nói lại, chắc chắn trên mái nhà là khói. Bua cười bảo anh lại nhầm như nhiều người mới đến Phu Xao lần đầu. Vùng thung lũng Phu Xao rất lạ, các nơi nắng, cả núi xung quanh cũng quang mây, nhưng trên nóc bản Phu Xao vẫn lãng đãng mây râm mát. Mây thường dày vào buổi sáng, quang tạnh vào buổi chiều. Ở cái xứ nắng nắng, mây mây khác lạ này con người cũng có tính cách không quả quyết, dứt khoát mà hay lừng chừng nên thường lỡ dở, khó khăn trên đường đi tới. Bua bảo, cô là một người lừng chừng nên khổ. Tôi nói, Bua đâu phải là người lừng chừng. Một đời nhiệt thành vì công việc, yêu cũng vậy, đã yêu một người là hết lòng, kể cả người ấy đã đi xa cũng vẫn ôm ấp cái bóng của người ấy. Bua bảo tôi chưa hiểu cô, rồi dẫn tôi ra bãi đất có cây sung quả trĩu trịt từ gốc lên ngọn, kể, buổi đầu Bua và ông Nghi lên rẫy đứng dưới gốc sung này, dò mãi mới thấy hai bố con ông già đang phát cỏ lau và cây dại. Ông già tóc búi sau gáy, mắt to và sáng, mặt chai sạn, áo mở cúc phô vồng ngực đầy căng, thọt một bên chân, mỗi khi bước đi phải chống con dao phát, mới nhắc được một bên chân lành bước lên một bước nhưng vẫn không làm giảm cái vẻ phong trần khỏe khoắn như một đạo sĩ. Người Lào sống hiền hậu, nhu nhuyễn nhưng lại là xứ của nhiều đạo sĩ, số ít tu luyện trong rừng, còn phần nhiều sống khép kín ở bản làng, chỉ ra mặt mỗi khi gặp những chuyện bất bình. Cùng làm với ông là cậu con trai có dáng thư sinh, mặc quần áo dân tộc màu chàm cắt ngắn, chân tay thừa ra lòng thòng như chão.
Bua bảo ông Nghi, ông già kia tên là Sui, vợ ông chết đã lâu, chỉ để lại cho ông thằng con. Thằng này từ bé đã nổi tiếng láu lỉnh. Ngày Bua còn ở nhà, đã biết chuyện thằng con ông Sui định đi lính Vàng Pao từ năm mới mười ba tuổi vì thích súng và có nhiều tiền. Ông Sui chém con dao vào cột nhà, mắng: “Mày trông cái chân của tao đây này. Mày phải ở nhà làm cái chân cho tao. Mày đi lính, ở đâu, tao cũng tìm được, chém chết”. Cái uy của ông bố đã giữ được thằng con ở nhà.
Ông già không cho thằng con đi phỉ Vàng Pao vì chính ông là nạn nhân của thằng Xạ, chỉ huy đại đội phỉ. Một cuộc đi càn, thằng Xạ chỉ huy dẫn quân bao vây một ngôi chùa ở ven rừng bản Phu Xao Xảm, truy hỏi nhà sư trụ trì, giấu quân đỏ ở đâu. Hỏi gì, nhà sư cũng chỉ mô Phật, nên thằng Xạ vằn mắt lên:
“Sao lần trước quân tao đi càn, vừa đến chùa thì có súng quân đỏ từ sau chùa bắn ra làm quân tao chết mấy thằng?”.
Nhà sư vẫn mô Phật.
Thằng Xạ tức quá, lớn tiếng:
“Chùa nuôi giấu quân đỏ là mắc tội với vua Vàng Pao. Chùa thì có nhiều nhưng vua chỉ có một. Chùa trái ý vua thì có tội. Tao không bắn người đang tụng kinh trước mặt Phật. Ông sư phải ra ngoài để tôi hỏi tội”.
Ông sư ngồi tọa không nhúc nhích. Ông vận công, ngồi xếp bằng mà chân tay cứng như gỗ, lính phải hò nhau xỏ cái đòn khiêng trong vòng tay và chân của sư đang tọa thiền để khiêng lủng lẳng ra sau chùa. Đặt xuống, ông sư vẫn tọa thiền. Ở đó có những cây chăm pa đại thụ nở hoa trắng bông, thơm ngào ngạt.
Thằng Xạ chỉ huy chĩa súng vào ông sư:
“Từ lâu chùa của ông là nơi đi về hội họp của quân đỏ. Ông là sư mà tiếp tay cho quân đỏ chống phá vua Vàng Pao. Tội ăn cắp, tội hoang dâm bắt được tận tay chỉ phạt thôi, nhưng tội chống lại vua Vàng Pao, làm phản vua Vàng Pao thì phải chết. Ông có tội lớn, tội dám trèo qua núi đá ăn gan trời. Ông phải chịu tội để từ nay sư nào đến đây tu hành cũng không dám liên hệ với quân đỏ”.
Không để ông sư nói thêm một lời, thằng Xạ bắn vào ngực ông. Máu từ ngực ông sư phun thẳng vào mặt thằng chỉ huy. Hắn ác quá. Lần nào hắn dẫn quân đi càn, cũng có máu đổ, cũng có người chết, người bị cắt tai. Luật lệ của Vàng Pao ngày ấy là ai giết được một lính đỏ, thưởng một tháng lương. Thằng chỉ huy muốn được thưởng nhiều lương thì phải giết rồi cắt tai đem về lĩnh thưởng. Thời trẻ, ông già Sui bảo, ông là tiểu đã mười năm ở chùa, đến chức a chan xổm đết, mới cởi áo tu hành về nhà lấy vợ. Ở chùa ông học được lời Phật dạy làm người lương thiện. Thấy thằng chỉ huy bắn Sư thầy, ông Sui tính thoát khỏi kẻ ác. Trong lúc lộn xộn vì thằng chỉ huy bắn chết ông sư, ông vờ ôm bụng chạy vào bụi rậm, rồi chạy mãi. Lâu sau viên chỉ huy mới biết ông trốn, xua quân chạy vòng đón đường ở phía rừng bên kia. Chúng tóm được ông.
Thằng Xạ lạnh lùng nói:
“Mày chạy nhanh lắm. Để bọn tao không phải đuổi nữa, tao bắt mày phải đi chậm lại”.
Nói xong, nó bắn gãy lìa một bên chân ông.
Ông Sui đem cái chân cụt về bản, nhờ láng giềng giúp, dựng ngôi nhà nhỏ ở cuối bản để ở, không liên lụy đến ai. Ông ở bản như cái bóng, làm gì không ai biết. Một đêm nghe tiếng mìn nổ ở cổng đồn, xác thằng Xạ chỉ còn một mớ lùng nhùng, người bản nghi ông Sui làm việc đó. Chỉ nghi thôi, chứ ai hỏi chuyện thằng Xạ chết, ông Sui đều lắc đầu không biết.
Bua biết khá kỹ về ông già Sui, nên Nghi không ngần ngại tiếp xúc với ông. Bữa đó Nghi và Bua ở trên rẫy đến khi tan sương thì ông Sui bảo: “Ở đây rừng có tai, có mắt. Sương núi tan rồi, chúng mày đi đi, không để thằng phỉ trên đồn Phu Xao nhìn thấy. Tao cũng về nhà đây”. Lúc đó Bua mới vội nắm lấy tay ông Nghi, bảo: “Đây là người Bua định lấy làm chồng. Hôm nay dẫn về trình với bố mẹ. Sợ làm sai ý bố mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy, nên Bua chưa dám về nhà ngay mà nhờ già về bản nói với mẹ Bua trước, mời mẹ lên rẫy, Bua nói trước với mẹ”. Ông già nghe Bua nói, đứng lặng một lúc rồi bảo: “Muốn gặp mẹ, phải chờ. Tai mắt thằng đồn trưởng Phủi nhiều lắm, kẽ lá nào cũng có. Hôm nào tao hẹn được mẹ mày lên rẫy, tao sẽ hẹn”.
Cây sung ngày xưa trong câu chuyện của Bua vẫn còn, vẫn nhiều quả như ngày nào. Tôi hái một quả, vừa cắn răng, vị chát đã đặc quánh trong miệng, bỗng nhớ câu hát của mấy nàng người Dao, Lạng Sơn: “Đói lòng ăn một trái sung/ Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”. Chồng chung chắc cũng chát như sung nên các cô bảo nhau tránh xa.
Tôi định hỏi Bua thêm vài câu về ông già Sui, Bua bảo, ông mất lâu rồi, thằng Kệt, con ông vẫn còn, không vợ con, dọn nhà lên rẫy ở để trồng thảo quả. Ta đến thăm nhà Kệt. Đến đấy anh hỏi gì, Kệt nói cho nghe.
Những tưởng Kệt không vợ con, ở trên rẫy thì lôi thôi lếch thếch, mà hóa không phải. Kệt làm nhà sàn cao ráo, toàn gỗ quý, có phòng bếp, phòng ngủ, phòng khách, đồ đạc sang trọng.
Gặp Kệt, Bua lên tiếng hỏi thay cho câu chào:
- Kệt sao không lấy vợ, cứ ở một mình mãi à?
Kệt đáp vui làm Bua đỏ mặt:
- Tôi chờ Bua đấy.
Kệt nói ráo hoảnh, mắt nhìn chăm chú từ thắt lưng Bua đổ xuống. Các cô gái Mẹo có câu hát, yêu nhau mở váy cho nhau xem. Đã yêu nhau thì vỗ mông, vuốt đùi đều được, nhưng ngực thì nghiêm cấm. Ngực người đàn bà chỉ dành cho con và chồng, kẻ ngoài dù là yêu mà xâm phạm vào vùng cấm này, ăn tát như bỡn. Nhìn Kệt có vẻ anh thích vỗ mông, nhưng Bua lờ đi, không chấp.
Nói chuyện với Kệt mới biết, sau năm bảy lăm, nước Lào hết chiến tranh, với lý lịch trong sáng nên được gửi đi Viêng Chăn học Trung cấp Văn hóa - Nghệ thuật, rồi về làm cán bộ văn hóa xã. Nhìn Kệt, đúng là kiểu cán bộ văn hóa xã như tôi vẫn quen gặp, tai nhỏ, môi mỏng, mắt hấp háy, cằm nhọn láu lỉnh. Kệt kể, cái gian nan của xây dựng đời sống văn hóa mới ở bản là chưa biết chọn cái mới nào để thay cái cũ, nếp cũ. Thế là bà con thi nhau phục dựng lại trò cũ, nào lễ hội vượt cầu cập kênh bóp vú, nào hát cắt dây vỗ mông. Cán bộ văn hóa hò hét vận động, bà con bỏ trò chơi vượt cầu bóp vú, còn hát cắt dây vỗ mông vẫn giữ. Trò này trai gái thích lắm. Bắt đầu hát, trai cầm một đầu dây, gái cầm một đầu dây. Hát hết một câu, thì tự cắt dây ngắn một đoạn. Đến hết bài hát, dây cũng cắt hết, hai người hát đứng sát nhau, trai hát hết câu thì được vỗ lên mông gái, còn gái muốn vỗ vào đâu thì vỗ. Trai gái đã vỗ mông nhau rồi, thì còn gì để kiêng, nên tục ngủ thăm cũng thay đổi, không hẹn nhau đến nhà ngủ thăm có bố mẹ canh chừng, mà rủ nhau lên rừng. Làm văn hóa mà không xây dựng được đời sống mới thì buồn quá, thế là Kệt nghỉ công tác, lên rẫy trồng thảo quả cho rảnh việc. Kệt nói, buông một tiếng thở dài, rồi lấy rượu ngâm thảo quả mời khách. Nghe chuyện văn hóa của Kệt, tôi bỗng nhớ đến quê tôi, cũng có một thời na ná vậy, đua nhau phục dựng lễ hội. Làng có lễ hội làng. Xã có lễ hội xã. Huyện lễ hội huyện. Tỉnh cũng vậy. Đua nhau lễ hội. Nơi có danh nhân thì lấy kỷ niệm danh nhân làm nội dung lễ hội. Nơi không có danh nhân thì khai thác vốn dân gian xưa cũ làm lễ hội, chứ nhất định không thể không có trò chơi tập hợp đông đảo dân chúng. Quê tôi trẻ trâu có trò làm pháo đất, rất đơn giản, nhào đất quánh lại, dàn thành những chiếc bánh đất như cái mâm. Nâng bánh đất lên quá đầu, thả cho rơi xuống mặt đất mịn dưới chân, bánh đất kêu đánh “bục”, được xem đó là tiếng pháo. Trẻ con chơi trò pháo đất quần áo, mặt mũi lấm lem, thường bị bố mẹ la mắng. Vậy mà nay làng phục dựng lại, biến thành lễ hội pháo đất, phần lễ cũng cờ dong trống mở, quan khách hàng huyện đến dự, kính thưa kính gửi hẳn hoi, cúng tế Thành hoàng rồi vào phần hội, trai lực điền các xóm đóng khố, mình trần thi nhau nhào đất làm pháo, thi đội nào gây được tiếng nổ lớn thì giật giải.
Nói vãn chuyện văn hóa, Kệt nói chuyện về bố rồi bảo tôi và Bua ra khu vườn gần nhà thăm mộ bố anh. Kệt bảo, người Lào thường hỏa táng, gửi tro cốt lên chùa. Nhưng tục người Lào Sủng lại chôn cất. Chôn cất ba năm, thì phải làm lễ cúng bỏ mả như người Ê Đê (Tây Nguyên), để hồn người chết không phải ràng buộc với người sống mà tự do chu du trong rừng núi, mây ngàn. Sau lễ bỏ mả, người nhà không phải thăm nom phần mộ nữa. Nhưng Kệt không cúng bỏ mả. Anh bảo, anh lớn lên chỉ có bố ở bên, nên ông chết, ông cũng mãi ở bên anh. Kệt bảo, bố anh đáng phải phong liệt sĩ bởi ông là dân thường nhưng chết vì làm binh vận ở giữa đồn địch. Ông Nghi và Bua đều biết chuyện ông Sui làm địch vận, do được nghe anh em chiến sĩ trung đoàn kể lại. Trận ấy, do Phủi chỉ huy đã bỏ đồn, lính địch còn lại như rắn mất đầu, nên quân ta chỉ bao vây và gọi hàng. Ông Sui đi với tốp chiến sĩ địch vận. Thấy địch đã núng thế, ông Sui bảo, là người quen với lính, để ông vào đồn khuyên chúng buông súng. Ông vào đồn, nói với lính địch: “Chỉ huy đồn Phu Xao của bọn bay hàng cách mạng rồi. Chúng mày không nhanh giơ tay hàng, về với vợ con thì thiệt thân đấy”. Trong lúc hỗn quân, hỗn quan, có thằng thù ghét ông Sui vì nghi ông từng đặt mìn giết anh nó là đồn trưởng Xạ, nên bắn lén sau lưng. Ông Sui ngã xuống lúc anh em lên tiếp quản đồn.
Cả một ngày trên rẫy, chiều tối tôi và Bua về lại căn lán tò vò. Khăm Xỉ ở nhà chuẩn bị một bữa tối để khoản đãi bạn bè. Tôi không ngờ anh lại có thể làm được món khéo đến thế. Bữa cơm rừng không có mâm bát, chỉ mỗi người được anh cho một quả bí bằng quả bóng và cái thìa. Khăm Xỉ đã khéo léo cắt chóp quả bí làm vung, rồi khoét bụng, chỉ giữ lại lớp vỏ dày làm cái tô lớn, chứa cháo gạo nếp nấu sền sệt với thịt và lòng đỏ của quả bí. Đi cả ngày mệt mỏi, ăn một quả bí cháo của Xỉ nấu, người tỉnh lại như sáo tắm.
Ăn xong quả bí cháo, Bua nói, ngày xưa, thời mới yêu ông Phủi, Bua đến nhà ông chơi, cũng được mẹ ông ấy cho ăn một quả bí cháo nếp như thế này.
Là tự Bua nói ra thì biết vậy, chứ từ đầu chuyến đi dù tôi và Xỉ đều từng nghe loáng thoáng ngày xưa Bua yêu Phủi đồn trưởng Phu Xao, nhưng cả hai đều tránh không ai hỏi Bua vì tế nhị. Bua tự kể, cách nay vài chục năm, Bua chưa biết gì. Thằng Phủi bấy giờ chưa đi lính. Nó bắn súng giỏi, sắm ngựa đi săn, bắn được thú rừng đem ra chợ Phôn Xa Vẳn bán mua tặng Bua chiếc vòng cổ bằng vàng… Tiếng thằng Phủi bắn súng giỏi đến tai vua Vàng Pao. Vàng Pao rất thích người bắn giỏi nên cho gọi Phủi về tận Loong Chẹng để Phủi thi thố tài năng. Lính điệu Phủi ra một cánh rừng, thả ba con lợn nhỏ, bảo: “Cho mày bắn bốn phát, trúng bốn chân con lợn, thì vua Vàng Pao cho làm chỉ huy đồn quân địa phương ở Phu Xao”. Vàng Pao chứng kiến cuộc bắn này. Con lợn nhỏ vừa được thả ra, phóng thẳng vào rừng. Phủi không cần đuổi, chỉ đứng một chỗ, bắn liền bốn phát AR-15. Tiếng súng vừa dứt, Vàng Pao vỗ đùi kêu lên, giỏi! Bốn phát đạn của Phủi bắn gãy cả bốn chân con lợn nhỏ. Phủi làm chỉ huy đồn dân vệ ở Phu Xao, thế vào chỗ thằng Xạ chết từ đó.
Tuy nhiên, cô phải lòng Phủi không phải chàng bắn súng giỏi mà là hát hay.
Mo bản, thầy Pò Mưng biết trăm điệu hát của ông bà người Lào Sủng truyền dạy cho Phủi. Anh chàng thuộc những bài hát có thể hát thâu đêm, người bản gọi là trường ca. Trên bờ con suối Cắn chảy ở đầu bản Phu Xao, Bua tắm suối bước lên, bỗng thấy Phủi đứng chờ ở gốc cây xoan không biết từ lúc nào. Phủi không chào Bua mà cất tiếng hát:
Hoa buồn vì mưa rơi không cười.
Bếp lửa buồn vì có rượu mà không có bạn mời
Em đẹp nên anh không thể nói nên lời
Chỉ mong đến ngày bắt em về chung giường, chung gối
Anh nói chỉ mong em cười…
Bua đã cười. Yêu nhau được ít ngày, Phủi bảo, người muốn đẹp thì phải có lụa may váy áo, có nhiều vàng đeo ở chân tay. Nếu Phủi chỉ đi săn lấy thịt bán, thì khó giàu lắm. Chỉ có đi làm chỉ huy cho ông Vàng Pao mới có nhiều tiền mua lụa, mua vàng. Chỉ cần một người đi làm chỉ huy quân ông Vàng Pao thì cả nhà thừa tiền để sống. Phủi đi làm chỉ huy lính Vàng Pao cho Bua sung sướng.
Bua không muốn Phủi đi lính Vàng Pao, bảo: “Phủi đi lính Vàng Pao, Bua cắn lưỡi chết đấy”.
Phủi đi rồi, Bua nghĩ lại, sao lại phải chết vì Phủi. Để cắt đứt quan hệ với Phủi, Bua nhờ người gửi trả lại Phủi vòng vàng, rồi bỏ nhà lần đường rừng xin đi bộ đội Xu-pha-nu-vông.
Theo hồi ký của ông Nghi để lại, ngày xưa ông Nghi cũng đã biết chuyện yêu đương của Bua với Phủi, nhưng anh không băn khoăn. Anh chỉ hào hứng với cuộc gặp gỡ chớp nhoáng ông già Sui trên rẫy. Nghi cảm thấy nhẹ nhõm tìm được lối thâm nhập vào bản Phu Xao. Trong cái bản địch kiểm soát gắt gao kia vẫn có người căm thù kẻ địch, hướng lòng về phía quân Xu-pha-nu-vông. Cơ sở cách mạng như bếp than trong nhà, vẫn ấp ủ trong lòng địch, chỉ chờ bùng lên ngọn lửa. Nghi nghĩ thế, hào hứng đem niềm vui chuyến lên rẫy gặp được dân nói với Đội trưởng Hiệp. Tưởng Đội trưởng vui, mà không ngờ nghe chuyện riêng của Bua, Đội trưởng bất ngờ hỏi:
“Có thể tin cô Bua được không?”.
Nghi chưa biết trả lời thế nào, Đội trưởng đay lại:
“Chúng ta không được chủ quan khi mới nghe bằng một tai. Lại nghe từ chính cô Bua, chưa nghe từ người thứ ba. Tôi cũng như anh, quý mến cô Bua, nhưng cần phải xem xét, kiểm chứng…”.
Nghi quả quyết:
“Chẳng lẽ cả tôi anh cũng không tin? Anh có thể thử thách cô Bua, nhưng đừng để mất lòng tin của cô ấy vào chúng ta. Người Lào hồn hậu và tốt bụng, nếu để mất lòng tin của họ, thì khó lấy lại”.
Đội trưởng Hiệp bỗng nắm tay Nghi:
“Thôi, việc cô Bua để tôi báo cáo lại với chi bộ, xin thêm ý kiến. Hôm qua gặp ông già Sui trên rẫy, ông có hỏi ông già về dân tình ở bản và thằng địch ở đồn Phu Xao hoạt động thế nào không?”.
Nghi bảo, chưa kịp hỏi, thì ông già đã đùng đùng kéo thằng con về bản.
Đội trưởng Hiệp ngồi im, tay cầm cái que, xiết lằng nhằng mặt đất. Nét vẽ như tâm trạng Hiệp bấy giờ, rối mù.
“Có thể ông già là người tốt - Hiệp nói - Người có lòng căm thù Vàng Pao. Nhưng, cũng có thể… Chúng ta phải chắc chắn, vì nếu hỏng việc sẽ lỡ dở mọi chuyện. Nên nhớ rằng đây là vùng da báo, ta và địch xen kẽ nhau, tìm cách cài cắm vào tổ chức của nhau. Vì thế tình hình dân chúng cũng rất phức tạp”.
Nghi hỏi vào việc cụ thể:
“Vậy hôm tới xuống bản để gặp mẹ cô Bua như đã hẹn với ông già Sui, tôi và cô Bua có được đi không?”.
Đội trưởng Hiệp dứt khoát:
“Ngày mai, tôi trực tiếp dẫn anh em xuống bản”.
Bua bị Đội trưởng Hiệp gạt ra khỏi các chuyến công tác về bản từ đó. Bua buồn không nói với ai, thỉnh thoảng lại lẻn ra rừng tựa cây, đứng khóc một mình. Nghi ra rừng gặp Bua, động viên cô đừng buồn, cây ngay ở giữa rừng không sợ chết đứng. Nghi lúng túng vì Bua bỗng ôm chặt lấy anh, bảo: “Bua buồn lắm. Anh phải yêu Bua, Bua mới tin lời anh nói”. Nghi không dám ôm, không dám hôn, người cứ đứng ngay như cọc gỗ, rồi lâu mới nhẹ nhàng gỡ tay Bua khỏi thắt lưng, bảo: “Anh tin Bua là người tốt”. Bua bị Nghi từ chối, khóc nức nở, nước mắt thấm ướt hai vai áo Nghi. Nghi chỉ còn biết nói với Bua sẽ gặp ông Hiệp để thanh minh cho Bua.
Nghi gặp ông Hiệp lần nữa, nói ngày còn ở bộ phận dân vận của trung đoàn, có ông trợ lý Ban Tuyên huấn tranh luận với ông phụ trách về ta mạnh, Mỹ yếu. Ông trợ lý bảo, ta mạnh về tinh thần, Mỹ chỉ mạnh về vũ khí. Ông phụ trách bảo, ta mạnh toàn diện, Mỹ yếu toàn diện. Hai bên không bên nào lùi bước, giữ ý của mình. Bỗng ông phụ trách bảo ông trợ lý: “Chết thật, đồng chí mà tiếp tục làm tuyên huấn, có khi nói sai lập trường quan điểm của Đảng thì rất nguy hiểm cho nhận thức bộ đội”. Ông trợ lý tuyên huấn bị điều sang bộ phận thu dung, chờ về phía sau. Nhưng ông trợ lý không về phía sau ngay mà đến gặp ông phụ trách, nói rằng, ông tự nhận ông là người trong sáng, không nói sai, làm sai ý Đảng. Ông phụ trách nghiêm khắc bảo: “Anh chứng minh điều đó trong việc làm”. Trợ lý bảo: “Vâng, tôi chứng minh ngay đây”. Nói rồi ông trợ lý lấy cái chết để rửa oan cho mình. Một cái chết khí khái để bảo vệ danh dự nhưng không bao giờ được thanh minh. “Sao dại thế, chết oan vì người ngu” - Hiệp nhận xét thế. Nghi nói thế nào, cũng không xóa được nghi ngờ của ông Hiệp với Bua.
Ông Hiệp nói là làm, sáng hôm sau ông dẫn quân xuống Phu Xao, để Nghi và và Bua ở lại hậu cứ. Đội trưởng muốn tự mình chứng minh, nay tình hình đã đổi khác, “chậm chắc” không phù hợp với cung cách dân địch vận của bộ đội chủ lực. Để tránh bị địch bất ngờ tập kích khi anh em tiếp xúc với dân, Hiệp cẩn thận bố trí một lực lượng nhỏ ngoài cửa đồn Phu Xao, sẵn sàng chặn địch nếu chúng xuống bản. Kế hoạch của Hiệp có trước có sau, khá chu đáo, được rút kinh nghiệm bị phục kích lần trước. Nhưng công tác cơ sở trong lòng địch thường diễn ra với vô số bất ngờ không ai tính hết. Không biết vô tình hay địch trên đồn Phu Xao đánh hơi được bộ đội Việt - Lào sẽ xuống bản nên từ chưa sáng, Phủi đã dẫn một nhóm lính xuống bản. Hiệp không biết điều đó, đương nhiên, nên vẫn cho anh em triển khai theo kế hoạch. Hiệp vừa cùng hai chiến sĩ Pa-thét chui qua hàng rào gỗ, định vào nhà ông Sui, thì Bun Nhăng đi phía trước, quay lại nói với Hiệp có địch trong bản rồi. Hiệp chưa kịp nói gì thì Bun Nhăng kéo anh ngồi thụp xuống, vừa lúc súng địch nổ loạn xạ. Xem ra cách địch bắn để thị uy, chứ chúng chưa phát hiện ra mục tiêu cụ thể nào. Hiệp hướng dẫn hai chiến sĩ Pa-thét đi cùng, bình tĩnh chặn địch nếu chúng liều lĩnh bước ra ngoài hàng rào quanh bản, đụng đầu thì nổ súng. Ba người nằm ép sau bụi dong riềng. Phía trước tốp địch ba tên xuất hiện trong tầm bắn. Tên đi đầu trong ba tên hai tay hai súng, một AR-15, một súng ngắn, vừa đi vừa hò hét đám lính lùng sục vào các căn nhà bên lối đi. Bun Nhăng nói với Hiệp, người anh đang ngắm bắn là Phủi đồn trưởng. Hiệp im lặng rê nòng súng bám vào ngực Phủi. Mục tiêu gần, ngực Phủi choán kín cả đầu ruồi. Hiệp tính trong đầu, giết thằng Phủi, địch sẽ co lại, là thời cơ để đội công tác bám dân. Nếu địch trên đồn Phu Xao hoảng loạn, Hiệp có thể đi nước cờ táo bạo, tập trung toàn lực đánh chiếm Phu Xao, rồi tổ chức trong nhân dân lực lượng du kích chiến đấu giữ bản giải phóng. Được như thế thì chuyến công tác thắng lợi lớn. Tính toán của Hiệp chỉ còn cách một cái ngoéo cò súng. Bun Nhăng đi cùng Hiệp kể lại, có lẽ quá phấn khích mà Hiệp thở mạnh. Không nín hơi, đã ngoéo cò, viên đạn Hiệp bắn bay đi lệch hướng, chỉ sượt vào bả vai thằng Phủi. Ngay lập tức Phủi và tốp lính dồn toàn bộ hỏa lực về nơi tiếng súng vừa nhói lên. Bun Nhăng chỉ kịp kêu lên: “Anh Hiệp”, rồi hất Đội trưởng lên vai, chạy về phía sau mặc cho ở phía trước anh em đội công tác đang đánh địch. Hiệp bị thương vào sườn, đầu đạn xuyên ra phía lưng, phá một lỗ thủng chừng cái miệng chén. Máu chảy nhiều, mặt Hiệp tái xanh.