Buổi sáng, trước khi rời khu căn cứ của Đội Công tác Sáu tám, tôi nói Bua, đưa đi thăm mộ của Chiến. Bua bảo: “Em tìm đến chỗ ngày xưa chôn cất Chiến rồi, không còn mộ nữa. Có lẽ bộ đội hoặc dân bản đã cất bốc hài cốt đi nơi khác rồi”.
Đứng trước hố chôn cất Chiến, Bua kể, Chiến hy sinh vì chuyện không đâu, đi hái rau vấp phải quả mìn không biết sót lại trong rừng từ thời nào. Đội trưởng Hiệp có lỗi một phần trong cái chết này. Trong buổi sinh hoạt, Đội trưởng phổ biến, từ nay khẩu phần gạo giảm vì xa đơn vị hậu cần, phải chủ động bù vào bằng rau củ rừng. Ông Nghi bảo, cánh rừng này địch từng ở, không an toàn vì mìn. Đội trưởng bảo, nhìn đâu cũng không an toàn, thì chỉ còn cách ngồi trong hầm. Nghi bảo, nói không phải sợ, chỉ nhắc, anh em vào rừng cần chú ý. Nên để ai biết gỡ mìn vào rừng trước. Chiến xung phong đi hái rau. Cậu này là chiến sĩ thông tin, đâu có kinh nghiệm về bom mìn nhưng Hiệp vẫn cho đi, tội thế.
Hôm mới về Đội, Chiến là người đầu tiên thân thiết với cả ông Nghi và Bua. Làm căn hầm nửa nổi nửa chìm, Chiến đến giúp Nghi làm cái giường bằng tre rất vừa ý. Nói chuyện mới biết, cậu ta từng là phó cả, ăn cơm thợ ngồi mâm trên hẳn hoi. Ông Nghi kể lại, Chiến hỏi ông Nghi có biết vì sao em quý anh không? Ông Nghi bảo, vì là ta cùng lính với nhau. Chiến lắc đầu, không phải chỉ là lính, mà vì anh em ta đều bị đàn bà nó đá. Thì ra Chiến đã biết chuyện riêng của Nghi. Chiến kể, ngày làm phó cả, có làm cho ông chủ tịch xã căn nhà năm gian, chân tay cột kèo đều là gỗ quý, bét cũng xoan với mít. Cô con gái chủ nhà mê phó cả như điếu đổ. Vì thế Chiến chỉ lấy công thợ cho anh em còn mình thì xin biếu. “Cô em xoắn lắm, tối nào cũng rủ ra sau vườn tâm sự, tha hồ quấy quả. Vậy mà mình vừa đi lính ít ngày, cô em quay ngoắt, yêu thằng kỹ sư nông nghiệp cùng làng. Anh bảo có đểu không. Đểu quá còn gì nữa. Biết thế em cưa đứt đục suốt mẹ nó từ thời ở nhà. Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn. Cái giống đàn bà, nhất cự ly, nhì tốc độ. Đẹp giai không bằng chai mặt...”. Chiến nói một mạch, rồi xúi ông Nghi yêu cô Bua vì gái Lào ngoan ngoãn, dễ bảo lại thật thà. Vậy mà Chiến đã thành thiên cổ.
Một cơn gió nhẹ làm lá cây quanh tôi run rẩy. Có cảm giác lành lạnh làm sởn gai gà từ hơi thở cửa rừng. Tôi xoay, xoay, xoay, vừa xoay vừa nhìn vào rừng để tìm kiếm cái cảm giác chợt ập đến, như có đôi mắt ai đó đang nhìn tôi từ phía sau. Ánh đèn như lóe lên từ trong hốc mắt sâu dõi nhìn tôi. Ai đấy? Một gương mặt gầy sạm nắng gió, với các đường nhăn như sóng đuổi nhau từ hai má vượt qua đuôi mắt tràn lên trán. Chỉ có ánh mắt là còn sinh khí trên gương mặt chảy nhão này. Phải một lúc lâu tôi mới nhận ra người đang từ rừng nhìn tôi là mẹ Chiến. Tôi đã gặp bà trước chuyến đi thăm Lào. Tôi nói chuyện gì, bà cũng thế à. Tôi nói nếu có dịp về căn cứ Đội Công tác, tôi sẽ thăm mộ Chiến. Bà cũng thế à. Đau khổ dằng dặc làm bà hoài nghi tất cả những gì đã diễn ra, tất cả đều thế à ngờ vực. Đôi mắt mẹ của cậu Chiến từ rừng đang nhìn tôi. Tôi nói điều đó với Bua. Bua bảo, để em thắp một nén hương cho cậu ấy.
Ở gần nơi ngày xưa là mộ của Chiến, có mấy cây hoa đỗ quyên, bướm trắng bay rối mắt. Tôi bảo Bua, giá gửi lại cho gia đình cậu Chiến vài dòng ghi chép của ông Nghi thì hay quá. Người ta sẽ nhớ mấy dòng ghi chép nguệch ngoạc đó. Chữ nghĩa đúng chỗ là vậy. Có người coi mấy dòng của ông Nghi chả là cái gì lằng nhằng, nhưng tôi coi đó là thiêng liêng, là phần đời còn lại của không ít người lính.
Bua dẫn tôi và Khăm Xỉ đi qua một cánh rừng đầy nắng và tiếng chim.
Một chú sóc lông nâu, quanh cổ trang điểm những đốm sáng trắng một cách đỏm dáng, ngồi trên cành cây xoan nhìn chúng tôi bằng đôi mắt trong như giọt nước suối.
Bua kêu lên:
- Con sóc đẹp quá. Bua thích nó!
Đàn bà luống tuổi thường hay diễn ngây thơ trước mặt đàn ông. Biết vậy, tôi và Khăm Xỉ vẫn thực hiện ước muốn của Bua, lặng lẽ vòng ra phía sau gốc cây xoan, cố gắng bắt con sóc bằng đặt hai cái bẫy do Khăm Xỉ đem theo từ nhà, định kiếm sống trong rừng vẫn buộc trên nắp ba lô. Xem ra cả tôi và Khăm Xỉ đều không có tài về săn bắt. Khăm Xỉ vừa đánh động cây xoan, chú sóc nhảy phốc, cái đuôi hôi xì của chú ta còn ngoáy như bỡn cợt vào mặt khiến tôi suýt sặc.
Mấy chục năm hoạt động trong rừng từ Bắc đến Nam, tôi nghiệm ra không ở cánh rừng nào thú hoang lại dạn người như rừng Thượng Lào. Xứ này bạt ngàn rừng núi hoang vu, lại người ít săn bắn, nên thú với người gần gũi. Hồi đầu chiến dịch trung đoàn ở Tà Khẹt, tổ nuôi quân không biết bằng cách nào bắt được một chú hổ con, đem về nuôi bếp. Chú hổ nghịch như chó con, suốt ngày đánh vật với mấy cậu lính. Do ở gần người, ăn thức ăn của người, nên hổ lớn lên chỉ quanh quẩn ở khu bếp, không bỏ vào rừng. Cho đến khi đơn vị phải dọn đến vị trí trú quân mới, anh nuôi cho chú hổ một bữa ăn ngon, rồi dong chú thả vào rừng để chú về với đàn. Chỉ đi một đêm, chú hổ lại tìm về bếp nuôi quân. Nhưng bấy giờ, bếp đã nguội lạnh vì đơn vị chuyển đi nơi khác. Chú hổ cứ quanh quẩn ở khu bếp, đêm đêm chú lên tiếng gọi người. Mấy cậu lính thông tin thu đường dây đi sau cùng, thương tình chú hổ con, lại dắt chú đi theo. Chú hổ cứ lẽo đẽo theo các đơn vị cho đến tận hết chiến dịch, trước khi vượt biên giới về quê, mấy cậu lính đành phải gửi chú hổ lại cho anh em chiến sĩ biên phòng Lào.
Bước ra khỏi cánh rừng, phía trước là thung lũng đẹp như tranh thủy mặc, có núi, có ruộng bậc thang, có suối nước chảy quanh co, có những mái nhà bình yên, xa kia lác đác bò vàng gặm cỏ và những chú bé tập cưỡi ngựa.
Bua bước thoăn thoắt, dẫn chúng tôi đi dọc theo con đường lát đá, qua hàng rào ghép bằng gỗ lẫn với cây râm bụt nở hoa đỏ, dừng lại trước cổng ngôi nhà mái lợp bằng những tấm ván mạy khen mốc đen. Nhìn mái nhà của người Lào Sủng, biết giàu nghèo. Nhà nghèo thường chỉ lợp nhà bằng cỏ gianh, phên nứa hoặc lá móc. Nhà giàu lợp mái gỗ. Lại nhớ cổng nhà ông Tín ở bản Hợp có hai cái đầu trâu không nghênh sừng lên mà cúi xuống như đang ngoan ngoãn gặm cỏ. Nghe nói, ngày mới làm cổng, cặp sừng trâu nhà ông Tín nghênh sừng lên thách đấu. Người trong bản tránh bước qua cổng thách đấu đó, vì người Lào sống hòa thuận không thách đấu với ai, nên gia chủ phải đặt chúc cặp sừng xuống. Ở đây, cổng nhà ông Phủi có hình Shi-va, vị thần quyền lực nhất trong các vị thần. Người Lào Sủng đa tôn giáo. Ai thích tôn giáo nào thì theo, không câu nệ buôn làng có ai theo không.
Nghe tiếng người gọi cổng, người đàn ông xích con chó vào chân cột nhà, ra đón khách. Bỗng thấy Bua đứng sau lưng Khăm Xỉ, mặt ông chủ nhà chợt thay đổi, trầm hẳn xuống.
- Ông Phủi, trưởng bản Phu Xao Nừng - Bua giới thiệu với chúng tôi.
Ông chủ định quay đi, dẫn khách vào nhà, Bua bảo:
- Bắt tay thân mật đã, ông Phủi.
Ông Phủi chìa bàn tay nắm tay từng người, nói:
- Săm bai, săm bai đi.
Tôi chú ý đến cả Bua, cả ông Phủi. Bua bảo, cũng đã ngót mười năm cô mới gặp ông Phủi. Mười năm với người trung niên ít thay đổi. Tuổi thanh xuân của Bua dường như vẫn dừng lại chỗ ngót mười năm trước, trẻ đẹp một cách dai dẳng. Còn ông Phủi, tôi gặp lần đầu, thấy gương mặt sạm nắng của ông còn trẻ trung. Ở bàn uống nước, tôi ngắm ông Phủi qua lớp khói bốc lên từ cốc trà nóng. Lúc chưa gặp, chỉ nghe chuyện của Bua, tôi hình dung Phủi cao lớn, xù xì, mạnh mẽ và thô ráp, sẵn sàng tung hê mọi thứ chỉ trong một cuộc rượu. Nhưng người trước mặt tôi là người đàn ông thâm trầm, dáng vóc giống loài cây mọc trên vách đá, săn chắc, cành lá nhỏ nhắn, chỉ gốc là phổng phao để hút nhựa sống ở nơi khắc nghiệt. Sự tinh nhanh và cả quyết của Phủi ở đôi mắt nâu đen hơi xếch dưới cặp lông mày rậm. Thượng đế luôn tạo ra sự hài hòa trên gương mặt con người. Đôi mắt của Phủi sẽ dữ tợn vì vết sẹo cắt ngang trán nếu không có cái miệng với cặp môi cân đối đầy đặn như miệng Phật, luôn hé mở. Con người kia, từng gây náo loạn cả bên địch và bên ta giờ ngồi hiền khô ở bàn nước, quay lưng lại vách ván treo cây đàn khoỏng vông có mười sáu cái đĩa đồng đen như sừng. Cây đàn khoỏng vông chắc lâu không dùng đến, mạng nhện chăng chằng chịt như mắc lưới. Tục ngữ người Lào Sủng có câu tôi rất thích, “Đi hết đường là về đến nhà”. Có thể rất nhiều gai góc ông Phủi đã trút bỏ trên đường để thanh thoát trở về mái ấm của đời người. Tôi nhìn Phủi nghĩ, ký ức cuộc chiến vẫn chưa tắt, nhưng ngủ yên như ngọn lửa bị vùi trong tro trấu.
Bua nói với tôi, ông Phủi từng đi Pa-thét nhưng đến ngày hòa bình thì xin về quê làm rẫy.
Tôi hỏi ông Phủi:
- Đi Pa-thét, ông Phủi có vui không?
Ông Phủi nói, “ấy dà”, rồi chỉ lên vách, gần ban thờ treo tấm bằng khen có chữ ký của ông Ô Sa Căn, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Cách mạng Lào thời sau năm bảy lăm.
- Có cái giấy khen kia thì về.
Bua hỏi:
- Sao có giấy khen ông Phủi lại không ở Pa-thét?
Ông Phủi lại “ấy dà” rồi đưa tay lên trán, xoa xoa lên vết sẹo, như là cái sẹo vẫn còn đau.
- Mình có cái sẹo thời làm lính Vàng Pao vẫn ở trên mặt - Ông Phủi nói - Không chảy máu nữa, nhưng sẹo thì vẫn còn, không xóa được, nên về.
Bây giờ tôi mới biết vì sao khi gặp Bua và Khăm Xỉ, ông Phủi rụt rè, không muốn nói chuyện. Cái thời đi lính Vàng Pao vẫn ám ảnh ông.
Không thể cứ ngồi nhìn nhau mãi, Bua bảo:
- Bua muốn xem lại cái lò rèn của già Đeng.
Câu hỏi của Bua giải thoát sự gò bó phải ngồi tiếp khách của ông Phủi.
Ông đứng dậy nói:
- Cứ đi xem thôi.
Trong lúc ông Phủi dẫn Bua ra sau nhà xem lò rèn, tôi hỏi nhỏ Khăm Xỉ:
- Sao bây giờ tôi mới biết ông Phủi bị mất cánh tay phải?
Khăm Xỉ bảo:
- Chuyện ly kỳ đấy.
Chuyện này ông Phủi chỉ kể riêng cho vài anh em ở Tỉnh đội Xiêng Khoảng biết, không nói với ai ở bản, kể cả bà vợ và bà con thân thích.
Bấy giờ, sau ngày hòa bình đầu tiên, ông Phủi xin không ở đơn vị Pa-thét, về quê người vẫn lành lặn, chân tay đủ cả. Ông được toại nguyện. Về quê yên ổn được vài năm thì vùng rừng núi từ Nam Lào, Thượng Lào… phỉ nổi lên như nấm độc, gây đảo lộn cuộc sống yên lành của các bản làng trên núi. Quanh vùng Sảm Thông, Loong Chẹng không chỉ một mà đến ba kẻ xưng vua Mẹo. Có kẻ tự cho mình là hoàng tử, thay mặt vua cha, về nước tập hợp dân chúng, chờ Vàng Pao từ Mỹ về lập lại vương quốc Mẹo. Có kẻ lập ngôi hoàn toàn mới với các quy chế vừa nguyên thủy vừa kỳ bí, như mọi người phải vẽ mặt đen đỏ, ngày phải ăn một bữa lá cây, uống rượu pha máu rắn và ngủ ngồi. Phỉ hoạt động nhiều đến nỗi, chuyến xe chở hàng, chở khách nào từ Viêng Chăn, Phôn Xa Vẳn vào Sảm Thông, Loong Chẹng đều phải có bộ đội đi cùng để giữ an ninh. Không có bộ đội canh gác, phỉ cướp xe hàng là chuyện cơm bữa. Những bản làng ở lọt trong vùng núi như Phu Xao, phỉ mò đến cả ban ngày, bắt dân phải bán chịu thịt và gạo. Lấy được thịt, được gạo của dân, bọn phỉ đều ghi nợ, bảo chờ vua Vàng Pao sẽ trả sau khi lập lại nhà nước Mẹo như ngày xưa. Dân chống đối chúng giết. Phủi nằm nhà cũng không yên, ông vào đội du kích xã hoạt động đánh phỉ giữ bản làng. Phủi vào du kích được nửa tháng thì một đêm bọn phỉ xộc vào đúng lúc ông đang ngồi chơi đàn khoỏng vông. Một mình không thể chống lại bốn tên, Phủi bị trói vào cột nhà.
Thằng phỉ nhìn mặt Phủi, bảo:
“Trước kia mày phản bội vua Vàng Pao, đi theo Pa-thét chống lại vua của vương quốc Mẹo chúng tao. Bây giờ, mày lại vào du kích, chống lại bọn tao hoạt động phục quốc. Mày phản bội lại vương quốc thì chúng tao đến để hỏi tội, cho mày nhớ”.
Chúng rạch lên trán Phủi một đường mũi dao, rồi chém đứt một cánh tay ông.
Phủi cắn răng chịu đau, không kêu một tiếng, lặng lẽ lên rừng tự tìm lá thuốc, tự băng bó vết thương cho mình. Từ đó, cũng không thấy Phủi về nhà nữa. Phủi đi đâu, làm gì ở đâu, không ai biết. Có người còn phao tin, Phủi lại theo phỉ rồi, vì từng thấy bóng Phủi trong rừng. Vợ Phủi đi tìm không gặp, khóc đứng khóc ngồi. Anh em du kích đi tìm Phủi, cũng không gặp. Mãi cho đến một hôm, ông Tỉnh đội trưởng Xiêng Khoảng được trợ lý Trực ban báo có khách. Ông Tỉnh đội trưởng ra phòng tiếp đón, nhìn thấy Phủi, kêu lên:
“Anh đi đâu mà cả du kích cũng không tìm thấy? Cả chị nhà cũng khóc đỏ mắt vì mất anh”.
Phủi bảo:
“Anh cho người có vũ khí đi theo tôi”.
Phủi dẫn tốp chiến sĩ nai nịt gọn gàng trèo qua mấy cái dốc Hin Tạng, đến trước một hang đá cây mọc che kín lối vào, bảo, bọn đầu sỏ phỉ Sảm Thông, Loong Chẹng ở cả trong hang đá này. Các anh bắt hay giết chúng là tùy. Riêng thằng chặt tay tôi, tôi đã giết, quăng xác dưới thung kia.
Phải đến ba ngày bao vây, gọi hàng, mười sáu tên phỉ mới giơ cờ đen thêu đầu trâu trắng xin tha tội chết. Phủi trở về nhà sau đó, không ai cạy được miệng anh nói một lời về việc đã tóm gọn bọn phỉ, giữ yên cho vùng rừng núi rộng lớn.
Lò rèn đặt sau nhà.
Già Đeng, bố của Phủi mất đã lâu, lò không nổi lửa, bễ và đe mốc meo. Tất cả đã cũ kỹ, nhưng vẫn sắp đặt như ngày xưa, kể cả cái ghế bằng một khúc gỗ lũa làm chỗ ngồi. Bua bảo vẫn nhớ như in, Phủi từng ngồi ở gốc gỗ lũa kia, súng tựa ở vai, trong khi ông Nghi đứng quai búa giúp già Đeng rèn con dao quắm. Đó là cuộc gặp kỳ lạ, sau này nghĩ lại, Bua bảo, không hiểu sao lúc đó cả Bua và ông Nghi lại liều lĩnh đến thế. Một cuộc gặp làm thay đổi Bua, cả ông Phủi và Nghi.
Bua hỏi Phủi:
- Ông Phủi nhớ khi tôi đến thì ông ngồi ở cái gốc lũa này chứ?
Ông Phủi nói:
- Ba mươi năm rồi đấy. Ba mươi năm mà tôi chỉ thoáng gặp lại ông Nghi có một lần.
Lần ấy, tôi có biết, sau khi bộ đội tiến vào bao vây Khu trung gian, trung đoàn chọn Phu Xao yên tĩnh làm nơi mở lớp dạy cấp tốc tiếng Lào Sủng cho anh em từ tiểu đội trưởng đến đại đội phó để làm công tác địch vận trong chiến dịch đánh vào hang ổ phỉ. Ông Nghi là một trong số cán bộ, chiến sĩ được chọn làm giáo viên dạy lớp ngoại ngữ thường lính ta chỉ biết nói qua truyền khẩu, không biết viết chữ. Một sớm, ông Nghi đang đứng trên lớp thì có anh bộ đội Pa-thét dắt theo một cô gái trùm khăn kín mặt, ngó vào hỏi:
“Ông toong lưởng đấy phải không?”
Ông Nghi ngớ một lúc mới nhận ra người trong bộ đồ Pa-thét Lào còn mới cứng là ông Phủi. Chưa kịp chào hỏi nhau, ông Phủi hỏi ngay:
“Cô Bua đâu?”.
Ông Nghi bảo:
“Đội Công tác giải tán rồi, tôi không ở cùng đơn vị với cô Bua nữa. Ông Phủi đi bộ đội Pa-thét rồi à?”.
Ông Phủi bảo:
“Tôi đi vác gạo, vác đạn cho Pa-thét, tưởng gặp được cô Bua thì xin cho cô này ở cùng, vì lẽo đẽo theo tôi không tiện. Không gặp được thì thôi” - Nói rồi Phủi lầm lỳ dắt cô gái bịt kín mặt bước đi, Nghi gọi dừng, Phủi cũng không dừng.
Phải đến hôm sau, gặp anh em trong đội vận tải Pa-thét dừng nghỉ ở gần lớp học nói chuyện, tôi mới biết người đàn bà bịt mặt ông Phủi nhặt được trên đường rừng đang là nhân vật được kể nhiều trong anh em bộ đội Lào và cả bộ đội tình nguyện. Đại thể, cô gái bịt mặt trong tay Phủi là con gái của một nai bản của bộ tộc người Lào Cang, ở trong rừng sâu. Cha cô bị chết vì đạn lạc, cô cùng bộ tộc lưu lạc trong rừng kiếm sống, bị lính đặc biệt Vàng Pao bắt trên đường rút chạy về vùng rừng Buôm Lọng. Tên chỉ huy đại đội đặc biệt thấy cô xinh đẹp lại câm lặng, kéo ra rừng định làm nhục cô ngay trên đường rút chạy, mặc cô phản ứng dữ dội, hét lên như thú hoang bị bắn trọng thương. Tên chỉ huy vẫn không tha. Trong lúc vật lộn, cô nhanh tay rút được con dao găm đeo bên hông tên phỉ, nghiến răng đâm bừa vào lưng kẻ đang thở hồng hộc định làm nhục cô. Dao sắc và sức mạnh bộc phát, đã đẩy lưỡi dao xuyên thấu từ lưng sang ngực tên phỉ. Chứng kiến tên chỉ huy phỉ ngã xuống, máu ộc ra miệng, cô hoảng hốt bỏ chạy vào rừng, rồi ngã vào tay Phủi trên đường đi tải đạn.
Dịp ấy, tôi cũng dừng nghỉ một ngày ở lớp dạy tiếng Lào để mài phẳng mặt đá, chuẩn bị đồ nghề in bản tin mới. Gặp ông Nghi, tôi không hỏi chuyện ông, chuyện cô Bua mà hỏi về ông Hiệp. Tôi dính dáng với ông Hiệp vì đồng hương hàng huyện. Tôi thường chả coi đồng hương đồng khói ra gì, nhưng ở chiến trường, bỗng gặp được một người nói đôi ba chuyện về bản quán, cũng có một chút ấm lòng. Tôi quen biết và đối với ông Hiệp cũng chỉ chừng mực ấy, không hiểu kỹ nhau, chưa giúp nhau được gì. Nghe tôi nhắc đến ông Hiệp đồng hương, ông Nghi xì một tiếng, bảo, người quê xin xà phòng của cậu chẳng ra gì. Rồi ông bảo, ông với Bua vừa cãi nhau với ông Hiệp một trận mất mặn, mất ngọt. Không ngờ ông Hiệp lòng dạ như cái lỗ kim. Đúng thế, hẹp hòi lắm, nên mắt không nhìn xa được, chỉ nhìn xuống chân mình.
Sau chuyến về bản Phu Xao bị thương, ông Nghi kể, Đội trưởng Hiệp phải về trạm xá, giao quyền chỉ huy Đội cho Đội phó Nghi. Ông Hiệp tuy không còn chỉ huy Đội, nhưng chưa chuyển đi, còn nằm dưỡng bệnh ở cứ, nên ông Nghi đến trao đổi với Hiệp về việc xuống bản lần ba. Lúc đầu nghe Nghi nói, Hiệp nằm thiêm thiếp, như đang đau, không để ý. Nhưng khi Nghi bảo, tôi đến chào anh để cùng Bua xuống bản, thì Hiệp ngồi phắt dậy, gay gắt can ngăn hai người không nên xuống bản ngay:
“Sao anh nằng nặc đòi hai người cùng đi, trong khi tình hình đang phức tạp?”.
Nghi nghĩ, có thể Hiệp bi thương nên bức xúc, nói ra những câu không bình thường. Vì thế Nghi vẫn từ tốn nói với Hiệp:
“Vâng, sau khi nổ súng, dưới bản đang phức tạp. Thằng Phủi bị thương đang lồng lên muốn trả thù”.
Hiệp cười nhạt:
“Vậy mà anh còn kéo cả Bua lao đầu vào?”.
Nghi dằn lòng giải thích cho Hiệp một lần nữa:
“Vâng. Người đang bị kích động cũng dễ sai lầm và cũng dễ bị lợi dụng. Chưa rõ ràng, nhưng tôi nghĩ đến một cơ hội… Công tác địch vận là chọn các thời cơ. Có khi lúc khó khăn nhất lại là thời cơ hội của chúng ta…”.
Đã nói hết nước hết cái, Hiệp vẫn không thôi chất vấn Nghi và nói một câu xúc phạm đến Bua:
“Anh đem Bua ra để nhử địch?”.
Nghi nghĩ, không chỉ là đồng chí với nhau, mà nói chung quan hệ con người, không nên nói quá lời, các cụ bảo là “cạn tàu ráo máng”. Lời nói quá, như mũi tên bay khỏi máng nỏ, không giơ tay bắt lại được; như để con chim ở tay bay vào rừng mất, khó bắt lại; như chém dao vào cột nhà, đến đời con cháu vẫn thấy vết chém ở cột. Nghĩ thế, nên dù Hiệp nói những câu xúc phạm, Nghi vẫn bỏ qua, vẫn nhẹ nhàng đáp lại, cốt là giải thích cho rõ công việc của mình. Nghi nói với Hiệp, đưa Bua cùng về bản là để tính kế thuyết phục Phủi. Nhưng Nghi càng giải thích, Hiệp càng không thông cảm. Hai người như cùng bước trên hai thanh ray đường tàu, cứ chạy song song, mỗi người giữ một ý, không có điểm giao cắt, không có điểm gặp nhau. Nghi thì còn giữ bình tĩnh được, còn Hiệp càng lúc càng mất tự chủ, vụt dậy khỏi võng, nhìn thẳng mặt Nghi:
“Tôi không còn là chỉ huy Đội, không thể ra quyết định công việc. Nhưng với tư cách một cán bộ nguyên chỉ huy Đội công tác, có trách nhiệm với đơn vị cũ của mình, tôi không đồng ý việc làm phiêu lưu và mạo hiểm của anh, mang sinh mệnh của một nữ chiến sĩ ra để nhử địch. Anh lấy gì đảm bảo rằng Bua không bị hại?”.
May mà vừa lúc đó, không chỉ Bun Nhăng mà nhiều anh em thấy Hiệp và Nghi to tiếng đã kéo cả về hầm chỉ huy. Bun Nhăng vừa vào hầm thì nói luôn: “Anh Hiệp ạ, nghe anh Nghi nói, tôi thấy có cái lý của nó. Đôi khi chúng ta phải táo bạo, phải mạo hiểm. Tôi đồng ý để cô Bua xuống bản”.
Ba người trong Đội Công tác ngày đó, bây giờ ở đây chỉ có Bua.
Tôi hỏi Bua:
- Bấy giờ sao ông Nghi đi đâu, Bua cũng muốn đi cùng?
Bua bảo:
- Vì Bua tin ông Nghi.
- Tin như thế nào?
Tôi hỏi có vẻ cắc cớ. Tuy nhiên Bua vẫn trả lời:
- Bấy giờ Bua tin ông Nghi, nếu vào chỗ chết, mà phải chết thì ông Nghi sẵn sàng chết thay Bua.
Ngồi hút hết điếu sâu kèn ở lò rèn, ông Phủi bảo tôi và Bua đi với ông.
Ông Phủi dẫn tôi đi xuống con đường trước cửa nhà, rồi lại men theo hàng rào tới căn nhà gỗ trên đỉnh đồi, gặp người đàn ông tên Nha, ông bảo là tri kỷ. Ông Phủi cho biết, người tri kỷ này trước kia quê tận Buôm Lọng, sau ngày hòa bình, ông Phủi thấy đất vườn nhà mình rộng, lại tốt, nên ông rủ ông Nha về ở cùng khu đồi, như anh em một nhà. Ông Nha người nhỏ nhẹ, mặc áo sơ mi xanh cộc tay, quần âu ka ki như người dưới thành phố.
Ông Phủi giới thiệu với tôi về ông Nha:
- Ông này vốn là y tá của đồn Phu Xao đấy. Ngày xưa còn ở đồn, tôi làm việc gì ông ấy cũng biết, có việc ông khuyến khích, có việc can ngăn. Nhiều lúc tôi như người bị ông ấy buộc dây vào tay để giật.
Ông Nha cười điềm đạm:
- Anh em với nhau thôi, ai dám buộc dây vào tay ông. Ngày xưa cũng thế, bây giờ cũng thế.
Ông Nha mời khách vào nhà uống nước chè, hút thuốc, ăn kẹo vừng. Ông Phủi bảo, gặp nhau ăn kẹo vừng cứ như trẻ con. Ông Nha hiểu ý ông Phủi nhắc khéo, nên xuống bếp, xách ra cái can nhựa lên, bảo:
- Mời các anh uống bia của người Phu Xao.
Bia ông Nha nói là nước lấy từ cuống hoa cây móc, đem về bếp ủ gần lửa qua đêm cho lên men, uống gần giống bia, quá chén cũng chếnh choáng. Ông Nha đổ thứ nước màu trắng nhờ như nước vo gạo ra mấy cái bát sắt đã bong tróc, nói:
- Mời các anh. Bia này không say, chị Bua uống cũng không sao.
Có bia, chuyện rôm rả hơn, tôi mới hỏi ông Phủi một câu tôi đã dự định trước, chưa có dịp hỏi, nay mới mở miệng, ấy là vì sao cuộc đời ông lại lên bổng xuống trầm suốt mấy chục năm? Tôi có thể không được trả lời bởi những câu hỏi như thế này chỉ dành cho người thân yêu, còn tôi thì dù có Khăm Xỉ và Bua dẫn đi, vẫn cứ là xa lạ. Vậy mà ông Phủi đã trả lời, một câu hết sức ngắn gọn, ấy là muốn lương thiện. Ông muốn làm một người lương thiện trong cái bản Phu Xao khuất núi này, một người lương thiện của dòng giống người Lào Sủng mạnh mẽ và cao thượng, một người lương thiện với những người mà ông thân thích. Tôi nghĩ ông nói xác đáng, bởi tôi có nhiều chuyện để kể về sự lương thiện của ông Phủi. Nhưng thôi, để câu chuyện theo trình tự, đến đâu kể đến đấy.
Bây giờ ở nhà ông Nha, ông Phủi kể, thời ông làm đồn trưởng thì ông Nha làm y tá của đồn. Tại sao quê ông Nha tận Buôm Lọng mà lại nhảy vào tận đồn Phu Xao làm y tá thì chỉ ông Nha biết. Y tá Nha và đồn trưởng Phủi như hình với bóng, ông Phủi đi đâu cũng đem y tá theo đến đó.
Ông Nha kể, hôm xuống bản đang cùng ông Phủi, ngồi ở lò rèn thì nghe tiếng gọi “Già Đeng có nhà không?”, rồi cái ông người toong lưởng đường đột xuất hiện, ông Phủi đã vội chĩa súng vào người lạ mặt, hét:
“Mày là cộng quân đi dò la xem tao chết chưa phải không? Tao bắn mày trước, để cộng quân biết, tao chưa chết”.
Y tá Nha bảo ông Phủi:
“Cộng quân không bao giờ lại dại dột tự dẫn xác đến để cho ông dễ dàng bắn họ. Hãy hỏi xem người ta đến đây làm gì. Trứng trong giỏ, chạy đi đâu mà vội”.
Thấy ông Nha nói phải, ông Phủi không bắn người toong lưởng mà chỉ ngồi quan sát xem ông ấy làm có gì đáng ngờ không.
Ông Phủi cười hóm hỉnh, bảo: “Có ông Nha biết, đánh nhau với bộ đội Tình nguyện Việt Nam, trí khôn của mình luôn bỏ quên ở xó bếp. Mấy lần Phủi bị mắc bẫy rồi. Nhưng lần này bị dắt mũi không thể tin nổi. Không thể tin cái người toong lưởng đen đủi, tai căng dài, mặc phạ xà lừng, lưng khoác gùi, hông lủng lẳng con dao quắm lại là bộ đội Việt. Anh toong lưởng ăn nói rất lễ phép, bảo từ lâu đã biết danh tiếng rèn dao của già Đeng. Vì thế anh từ bản Hủa đến đây nhờ già rèn cho mười con dao quắm như dao quắm của người toong lưởng. Anh ta đưa ra con dao anh đeo bên sườn. Bố tôi ngắm nghía con dao anh chàng toong lưởng đưa ra, bảo, ấy dà, đúng là dao của người cưa răng căng tai đây rồi. Tao quý những con dao này lắm. Không biết người cưa răng căng tai ngày xưa tôi thép kiểu gì mà mà dao của họ chặt cây chỉ mòn, mài lại sắc, chém lõi lim không mẻ. Cầm con dao trên tay, bố tôi không còn nghi ngờ gì người đến nhờ rèn dao. Ông bảo, mày ở lại chờ lấy dao hay về, hay chờ đến phiên chợ Phôn Sa Vẳn ra đó lấy dao cũng được. Tao vẫn xuống núi bán dao ở đấy. Ngày hai bên đánh nhau thì thôi, Cánh Đồng Chum yên, tao lại xuống chợ… Đấy, đến ông bố già khó tính của tôi còn tin ngay người toong lưởng, nữa là”.
Ông Phủi và ông Nha cùng nhau kể chuyện ngày xưa, rồi ông Phủi cúi xuống cuốn thêm điếu thuốc hút nữa. Thuốc rê, cuốn bằng giấy báo hút khét như lông bò cháy, ngửi thôi, tôi đã muốn sặc. Bua không chịu nổi khói thuốc, đứng dậy:
- Khiếp. Thuốc gì mà khét thế! Ngày xưa ông Phủi có hút thuốc dân tộc đâu?
Phủi cười bảo:
- Có. Ngày Bua về bản, Phủi hút thuốc rồi. Phủi ngồi hút thuốc nhìn cái anh chàng người toong lưởng vừa nói chuyện vừa giúp bố tôi rèn dao. Bấy giờ nào tôi biết không chỉ có anh toong lưởng lừa được tôi, mà cả Bua cũng đưa tôi vào tròng…
Bua giãy nảy:
- Nào tôi có đưa anh vào tròng.
Ông Phủi lại nói:
- Hây dà! - Rồi ngồi im.
Theo Bua thì những tình huống xảy ra ở bản Phu Xao hôm ấy, vừa là ông Nghi sắp đặt, vừa là tình cờ diễn ra đã đưa đẩy Phủi đột ngột rẽ ngoặt sang con đường khác, chứ Bua không tác động được gì vào Phủi.
Bua hỏi ông Nha:
- Lúc tôi đến trước mặt ông Phủi thì ông Nha có ở cạnh lò rèn của già Đeng không?
Ông Nha bảo:
- Không. Lúc đó tôi đang đi tìm lá thuốc để đắp vết thương cho ông Phủi.
- Thảo nào - Bua nói - Không có ông bên cạnh nên gặp tôi, ông Phủi quá lắm.
Ông Phủi nghe Bua nói “quá lắm” thì vội dụi tắt điếu thuốc đang hút, lắc lắc đầu:
- Thôi, xin bà Bua không kể nữa, xấu hổ lắm, xấu hổ lắm.
Bua bảo:
- Già rồi, còn xấu hổ gì nữa.
Thế là dù ông Phủi lắc đầu, Bua vẫn kể.
Hôm ấy, Bua đã tính trước, thế nào gặp lại, ông Phủi cũng chú ý đến nhan sắc của cô người yêu ngày xưa nên cô ăn mặc diêm dúa, có chút son môi cho đúng gái đi buôn hàng chợ ở Phôn Sa Vẳn về thăm nhà.
Ông Phủi nhìn Bua từ đầu đến chân, rồi khoác súng lên vai, bảo Bua:
“Lại đây… Mày quay một vòng trước mặt cho tao xem”.
Bua lóng ngóng không biết Phủi bảo quay một vòng để làm gì. Cô không quay. Ông Phủi lại nhắc:
“Mày quay đi”.
Bua đành phải quay. Khi Bua dừng lại thì bất ngờ Phủi vỗ tay lên mông cô:
“Hây dà, cái mông mày còn căng tròn, chưa doãng, là tao tin mày chưa đi làm gái điếm cho bọn ở rừng”.
Bua giận Phủi đến tím mặt. Cô quên hoàn cảnh lúc đó là trong lòng địch, nói thẳng vào mặt Phủi: “Phủi không được nói với Bua như thế. Bộ đội Xu-pha-nu-vông, bộ đội Việt Nam Bua gặp trong rừng đều là người tốt. Chưa ai dám vỗ vào mông Bua như Phủi. Phủi làm điều xấu lắm”.
Bua nổi giận thì Phủi lại làm lành. Phủi cười nhăn nhở:
“Mày quên phong tục người Lào Sủng rồi. Quả chưa bổ, chưa biết còn ăn được không. Gái chưa vỗ mông, chưa biết đã ngủ với trai chưa. Tao làm theo phong tục thôi”.
Bua vùng vằng bỏ đi. Phủi gọi Bua quay lại. Bua không thèm nghe, cứ cắm cúi đi càng lúc càng nhanh. Phủi đành đứng dậy, cố nén đau đuổi theo Bua.
Bua hỏi ông Phủi:
- Tôi kể vậy, có đúng không?
Ông Phủi bảo:
- Đúng rồi, đúng rồi. Không kể nữa.
Nắng đã đứng bóng ngoài sân.
Gần trưa, Bua mời tôi và Khăm Xỉ về thăm nhà.
Trong chiến tranh, vùng Xiêng Khoảng là trận địa ác liệt suốt nhiều năm, nên hầu như nhà nào ở đây cũng có vết sẹo bom đạn. Nhà Bua cũng vậy, bố chết vì phỉ bắn do cái tội có con gái đi Pa-thét. Nhà chỉ còn bà mẹ sống với cô em gái chưa đi lấy chồng. Nhà bà goá tuềnh toàng, đồ đạc cũ mốc, lăn lóc. Nhìn bà mẹ của Bua, tôi nhớ đến mẹ tôi. Các bà mẹ lam lũ và khổ sở vì chồng con ở xứ nào cũng hao hao giống nhau, người gầy, đen đủi, mắt buồn thăm thẳm. Theo Bua thắp hương cho bố cô, tôi bỗng nhận thấy trên ban thờ còn có tấm ảnh ông Nghi, đeo quân hàm thượng úy, đội mũ cối, môi tô màu đỏ. Bà mẹ nói với Bua: “Nếu chị không lấy chồng thì bảo con em lấy chồng để tôi có cháu ôm ấp”. Bua nói với cô em gái lời của mẹ. Cô em gái bảo, người mới quen chưa khỏa lấp được người yêu cũ, nên cô chưa đi lấy chồng.
Giữa trưa, từ nhà Bua về thì bà Son, vợ ông Phủi dọn bữa lên bộ ván. Nhìn dáng vóc bà Son, tôi ngờ ngợ đây là cô gái đội khăn ông Phủi dẫn đến gặp ông Nghi hồi nào. Ngờ ngợ thôi, nhưng không dám hỏi. Không hiểu sao, người Lào cũng như người Cam-pu-chia rất ngại nói về quá khứ. Quá khứ với họ thường khóa chặt phía sau lưng. Gặp họ thường chỉ nên nói chuyện hôm nay.
Bà Son ngồi đối diện mâm cơm với tôi là người đàn bà đẹp, khó có thể tin nổi, con người dáng vóc còn thon thả và đuôi mắt chưa hề có một vết chân chim lại là mẹ của hai đứa con trai mười bốn, mười lăm tuổi. Mâm cơm khá thịnh soạn, có xôi, thịt nướng và rau luộc, bày đặt mâm bát đẹp đẽ. Khác hẳn với ông Phủi đôi khi còn nói vài lời, bà Son luôn nở nụ cười tươi tắn, nhưng không nói gì. Đến lúc tôi hướng về bà, hỏi bọn trẻ đâu, gọi chúng về ăn cơm cho vui, bà chỉ lắc đầu, mới biết bà bị câm và điếc. Sao ông Phủi lại lấy người đàn bà câm điếc? Bà mới bị bệnh hay có tật từ nhỏ? Quan sát cử chỉ của bà Son, có thể đoán bà bị tật từ nhỏ, những cử chỉ thân thiện và tài khéo chuẩn bị bữa cơm tiếp khách là tài năng bẩm sinh đặc biệt bà học được từ người thân. Hỏi về tật nguyền của người trước mặt là điều kiêng kỵ, ở Việt Nam và ở Lào đều như vậy, tôi đành phải xoay sang Phủi nói chuyện nhà và vui vẻ ăn uống mới biết hôm nay là ngày Tết của trẻ chăn trâu. Không chỉ Phu Xao mà nhiều bản làng Lào Sủng đều có Tết dành riêng cho vật nuôi là các đại gia súc trong nhà như trâu, bò, ngựa và trẻ con chăn trâu. Các gia đình làm xôi màu, bánh nếp và thịt nướng cúng Giàng cầu mưa thuận gió hòa, cây cỏ xanh tươi để vật nuôi béo tốt, giúp người khai phá nương rẫy, làm ăn phát đạt. Tiếng là ngày Tết dành cho trẻ con và đàn gia súc, nhưng người lớn vẫn cầu mong về may mắn và thành đạt của gia đình. Dịp Tết, trâu, bò và ngựa cũng được bón cho mỗi con một khúc bánh để vui chung với người. Sau Tết, trẻ trâu được mang bánh và thịt nướng vào rừng, chăn thả trâu bò và ngựa cả tuần mới về.
Đang ăn, bà Son đứng dậy vào bếp rồi bưng ra một tô xương hầm với khoai môn. Ông Phủi nói, đấy mới là thứ để uống rượu. Nói rồi ông rót thêm rượu ra bát. Tôi, Khăm Xỉ và Bua cùng uống, còn ông Phủi, cầm bát lên lại đặt xuống. Tôi nhắc ông Phủi, chủ nhà uống đi chứ. Ông Phủi bảo, uống say, lát nữa không đưa hai anh và Bua đi Hin Tạng được.