Anh Đàm Quang Trung cử thiếu niên Páo đi trước hàng quân, chuẩn bị bước vào nội thành Hà Nội. Anh bảo rằng: “Thiếu niên là mầm non đất nước nên em bước đi tiên phong vào Hà Nội nhé!”. Thiếu niên Páo thắt chặt thanh kiếm Nhật khoác sau lưng. Vai vác lá cờ đỏ sao vàng. Con chim sáo đã dạn dĩ, không ở trong lồng. Chim sáo đậu trên vai Páo. Gió sông Hồng lồng lộng. Gió mang hương vị phù sa, thổi lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới!
Đại đội “Bộ đội Việt - Mỹ” bước trên cây cầu sắt. Cây cầu sừng sững bắc qua dòng sông đỏ lựng phù sa. Páo ngạc nhiên thấy dòng sông rộng hơn dòng sông Phó Đáy chảy qua Tân Trào. Anh Đàm Quang Trung nhìn nước sông Hồng cuồn cuộn chảy ra biển. Anh nói với thiếu niên Páo:
- Nước sông Hồng hòa từ nước sông Đà, nước sông Lô, nước sông Phó Đáy cùng hòa vào nước sông Hồng đổ ra biển lớn, em à!
Anh chiến sĩ quê Hà Nội giới thiệu với nhóm Con Nai về cây cầu trên dòng sông quê hương mình:
- Cây cầu sắt sừng sững mà chúng ta vừa đặt chân lên, mang tên “Long Biên”. “Long Biên” mang ý nghĩa là “Rồng giao nhau”. Vượt qua cây cầu này, bộ đội ta đặt chân vào đất cố đô “Thăng Long”, nơi rồng bay lên trời!
Henri thấy trên trụ sắt đúc chữ nổi “Doumer”. Anh chiến sĩ Hà Nội hóm hỉnh nói với các bạn Mỹ:
- Cây cầu mà người Pháp gọi là Doumer khởi công năm 1898, khánh thành sau bốn năm. Người Pháp xây cây cầu này, họ không thể ngờ hôm nay, đoàn Quân giải phóng hùng dũng bước trên cầu, tiến vào Hà Nội, không phải đi đò ngang qua sông Hồng.
Trong lòng Henri trào dâng lớp lớp xúc động tựa sóng vỗ dưới chân cầu Long Biên. Henri mong ước: “Nếu như hôm nay, trong hàng quân tiến vào đất Thăng Long cổ kính, bên bước chân thoăn thoắt của em Páo là bước chân lập cập của thầy giáo Hà Nội!”.
Thiếu niên Páo giương cao lá cờ đỏ sao vàng. Bước chân trần của em cùng đoàn quân giải phóng đã bước qua cầu sắt Long Biên. Hàng vạn người dân đứng hai bên đường phất cờ đỏ sao vàng, giơ cao những bó hoa rực rỡ chào đón. Anh Đàm Quang Trung nói trước hàng quân:
- Chúng ta đã tiến quân tới đất Thăng Long Hà Nội!
Anh chiến sĩ quê Hà Nội cười như trẻ thơ, ròng ròng nước mắt như người già. Anh hô vang:
- Hà Nội mến yêu! Hà Nội muôn năm!
Hơn 200 chiến sĩ đơn vị “Bộ đội Việt - Mỹ” đồng thanh hô vang:
- Hà Nội muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!
Henri không kìm được nỗi lòng mình trước ước nguyện, cùng lời dặn dò của thầy giáo Hà Nội. Henri òa khóc! Anh Đàm Quang Trung vỗ vai dỗ dành người bạn đồng niên cùng sinh năm 1921 như dỗ em bé:
- Bạn đồng niên cố nén lòng mình lại! Tôi vui mừng vô bờ, cũng sắp khóc đấy!
Henri cười trong nước mắt:
- Bạn đồng niên ơi! Hà Nội là cố hương của người thầy giáo dạy tôi tiếng Việt và tiếng Tày trên nước Mỹ. Thầy nhận lời anh Văn Ba nên ở lại nước Mỹ. Thầy sinh sống trên nước Mỹ từ năm 1901 đến nay. Tôi khóc vì quá xúc động. Không ngờ đời mình được đặt chân lên mảnh đất quê hương của người thầy giáo kính yêu!
Đường phố Hà Nội rợp cờ đỏ sao vàng và hoa tươi làng hoa Ngọc Hà.
Điểm tập kết của Đồng minh trong khu vực di tích Hoàng thành Thăng Long cổ kính. Bảy thành viên nhóm Con Nai, một số thành viên OSS, thiếu niên Páo cùng thiếu niên Hoàng Bình được sắp xếp ở ngôi nhà, trong Khu di tích Hoàng thành Thăng Long.
Khi được giới thiệu đang ở trong khu vực Hoàng thành Thăng Long cổ kính và oanh liệt, Henri xúc động quỳ hai đầu gối xuống nền gạch. Henri đang thay mặt thầy giáo Hà Nội, kính cẩn chắp tay, vái lạy, tưởng nhớ vị Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết tại Võ Miếu, cùng các nghĩa sĩ anh dũng hy sinh vào ngày thành Hà Nội thất thủ. Henri ngậm ngùi, nhưng tự hào đã thực hiện trọn vẹn ý nguyện của thầy giáo Hà Nội ủy thác cho mình.
Henri kể cho các thành viên nhóm Con Nai, cùng hai em thiếu niên Páo và Hoàng Bình lời thầy giáo Hà Nội về Hoàng thành. Cuộc chiến đấu anh dũng nhưng thất thủ thành Hà Nội ngày 25 tháng 4 năm 1882. Câu chuyện về vị Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Khi đó, thầy Hà Nội mới mười lăm tuổi đã tham chiến, tử thủ thành Hà Nội...
Mọi người áp bàn tay lên bức tường vỡ lỗ chỗ. Bức tường hiên ngang, ưỡn ngực đỡ đạn quân thù. Thiếu niên Páo hình dung nơi mình đang đứng là nơi xảy ra những trận huyết chiến. Páo thổn thức: “Các cụ nghĩa sĩ nào đã ngã xuống nơi đây? Các cụ ngã xuống để hôm nay cho cháu Páo được về Hà Nội, đón ngày độc lập của nước ta!”. Trong mắt trẻ thơ của thiếu niên Páo và Hoàng Bình hiện lên hình bóng các nghĩa sĩ, ngày thành Hà Nội thất thủ. Các nghĩa sĩ chân quấn xà cạp, tay vung lưỡi gươm đẫm máu, tiêu diệt những tên lính Pháp. Đạn quân thù bắn xuyên ngực nhưng các nghĩa sĩ vẫn bình thản nhìn lá cờ bay trên thành Hà Nội. Trước khi biến hình, khuất bóng, các nghĩa sĩ còn vẫy tay chào hai thiếu niên trong hàng ngũ Việt Minh!
Hình ảnh oanh liệt của các nghĩa sĩ thoáng qua, trong ánh nắng ngả dài trên bức tường Hoàng thành...
Những người lính Mỹ không có đôi mắt của tâm hồn trẻ thơ. Không ai nhìn thấy hình bóng oanh liệt của các nghĩa sĩ thành Hà Nội, ngày thất thủ. Pôn áp tai vào bức tường lỗ chỗ vết đạn, im lặng đón nghe tiếng nói của lịch sử vọng về. Pôn hình dung về di tích thành Hà Nội. Mỗi viên gạch lỗ chỗ vết đạn là mỗi trang sử của nước Việt Nam. Pôn nói với Tômát:
- Có thể, trong tương lai, em bỏ nghề quân y chiến trường, quay lại nơi đây để khảo cổ di tích Hoàng thành Thăng Long.
Sáng sớm hôm sau, hai chiến sĩ quân giải phóng thuộc quân số đại đội “Bộ đội Việt - Mỹ” tươi cười bước vào ngôi nhà, vui vẻ chào bằng tiếng Anh:
- Chào buổi sáng! Đêm qua các bạn Mỹ và hai em thiếu niên ngủ ngon không?
Thiếu tá Tômát vắt khăn rửa mặt buổi sáng lên dây phơi, cười rõ tươi:
- Tất cả chúng tôi thức chong chong cả đêm. Hồi hộp mong trời mau sáng.
Chiến sĩ giải phóng quân tươi cười:
- Người Hà Nội cùng toàn thể người dân nước tôi, đêm qua đều không ngủ.
Tất cả bước ra cửa. Ngắm trời, ngắm đất, nghe chim hót trên cành cây...
Bình minh bắt đầu ló dạng phía Quảng trường Ba Đình!
Bầu trời mùa thu Hà Nội xanh trong!
Lá thu rơi xào xạc trong di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long!
Hai chiến sĩ giải phóng quân trân trọng chuyển lời của Ban tổ chức, mời nhóm Con Nai, cùng thân ái mời hai em thiếu niên Páo và Hoàng Bình tới Quảng trường Ba Đình, dự buổi Lễ “Tuyên ngôn Độc lập”. Thiếu niên Páo giương cao cờ đỏ sao vàng đi trước. Bảy thành viên nhóm Con Nai đi tiếp nối. Thiếu niên Hoàng Bình đi cuối hàng hộ tống. Đội hình trên đường phố Hà Nội vẫn đi hàng một, theo thói quen đi trong rừng căn cứ Tân Trào. Hai chiến sĩ quân giải phóng nhịp đều bước bên thiếu tá Tômát.
Biển người như sóng trào trên Quảng trường Ba Đình. Quân y sĩ Pôn lo lắng nói với thiếu tá Tômát:
- Biển người đông nghẹt thế này, mấy anh em chúng ta rất dễ bị lạc nhau mất thôi!
Thiếu tá Tômát cũng thoáng lo lắng. Chưa bao giờ trong đời, Tômát được hòa mình trong biển người như hôm nay. Tômát nảy ra sáng kiến:
- Nhóm Con Nai xin phép Ban tổ chức không ngồi ở vị trí danh dự. Chúng ta cần hòa mình vào biển người, cùng nhân dân chứng kiến một sự kiện lịch sử của thế giới mà chúng ta có cơ may! Các đồng đội cần di chuyển theo nhóm. Henri cùng em Páo cố gắng dịch tiếng Việt ra tiếng Anh, tường thuật trực tiếp toàn bộ nội dung buổi Lễ!
Thiếu niên Páo nhận ra thiếu tá L.A. Pátty, thành viên OSS đứng trong khối quần chúng. L.A. Pátty vóc dáng cao lớn, vai người nhô hẳn lên trong đám đông. L.A. Pátty không biết tiếng Việt phổ thông. Thiếu niên Páo kéo tay L.A. Pátty, nhập vào nhóm Con Nai, nghe Páo tường thuật buổi Lễ sang tiếng Anh.
Tiếng nhạc rộn ràng...
Đoàn nghi lễ bước ra Lễ đài...
Đại diện Ban tổ chức buổi Lễ trân trọng mời các vị khách Mỹ và thân mật mời hai em thiếu niên đứng gần Lễ đài. Tại vị trí mới, người nào cũng thuận lợi chứng kiến quang cảnh buổi Lễ. Một phóng viên mắt xanh mũi lõ đề nghị nhóm Con Nai, L.A. Pátty và hai thiếu niên Páo, Hoàng Bình:
- Các bạn cho tôi một kiểu ảnh để đăng báo. Các bạn đang chứng kiến “Một cuộc khai sinh vĩ đại của thế giới!”.
Thiếu niên Páo thích thú ngắm nhìn các chiến sĩ quân giải phóng mặc quần soóc, áo cộc tay, đội mũ cát, đạp xe đạp phơi phới, diễu hành trước Lễ đài. Thiếu niên Hoàng Bình chưa bao giờ thấy cái xe đạp. Đôi mắt to, hàng lông mi cong không chớp nhìn bánh xe đạp. Bánh xe tròn như cái vành thúng, quay tít, quay tít.
Tiếp theo, khối Giải phóng quân hùng dũng diễu binh trước Lễ đài. Các chiến sĩ vai vác súng trung liên Brennô. Tay cầm chắc súng cạcbin do Đồng minh tiếp tế. Nhiều súng trường, súng liên thanh trên vai đoạt được từ tay quân đội Nhật, từ tay lính thực dân Pháp. Thiếu niên Páo chỉ cho nhà báo mắt xanh mũi lõ thấy anh chiến sĩ của đại đội “Bộ đội Việt - Mỹ”. Trong cuộc chiến đấu tại tỉnh lỵ Thái Nguyên, anh chiến sĩ tước khẩu súng trung liên từ tay quân Nhật nhưng vẫn cầm lao nhọn mang từ căn cứ Tân Trào. Hôm nay, trong lễ duyệt binh, anh chiến sĩ vác trên vai cả khẩu súng trung liên cùng ngọn lao. Cánh tay kia, anh vung cao ngang ngực, nhịp bước. Nhà báo chớp nhiều kiểu ảnh về anh chiến sĩ, rồi cầm tay thiếu niên Páo, tỏ lời cảm ơn:
- Trong thời đại giành độc lập dân tộc, không hình ảnh nào sinh động bằng anh chiến sĩ vai vác cả khẩu súng trung liên hiện đại cùng ngọn lao săn thú rừng.
Khối du kích quân diễu hành trước Lễ đài, trong tiếng hoan hô dậy đất của biển người. Người đi đầu trong khối du kích giương cao lá cờ đỏ sao vàng. Thiếu niên Páo bấm vào tay Hoàng Bình, reo lên:
- Bạn có nhận ra người cầm cờ không? Đó là chị du kích Việt Bắc đó!
Hoàng Bình reo lên:
- Trong đội ngũ du kích quân có bạn thiếu niên gái Hà Hải Yến. Vinh dự quá! Bạn ấy cũng là người dân tộc Tày chúng ta!
Nhà báo mắt xanh mũi lõ vẫn đứng bên thiếu niên Páo. Nhà báo chụp ảnh người phụ nữ giương cao lá cờ đỏ sao vàng, trầm trồ:
- Không cuộc khai sinh đất nước nào trên thế giới, trao cho phụ nữ cầm cờ Tổ quốc, diễu hành trước Lễ đài như nơi đây! Thật kỳ lạ! Thật vĩ đại!
Tiếng hô vang trên loa phóng thanh. Thiếu niên Páo chưa từng nghe tiếng người trên loa phóng thanh, thoáng giật mình. Tiếng hô trước biển người vang bên tai, tựa tiếng sấm, trước trận mưa rào đầu mùa hạ.
Biển người như sóng dâng trào, bỗng im lặng!
Tiếng hô vang qua loa phóng thanh:
- Tất cả chuẩn bị!
Henri nhắc khẽ nhóm Con Nai:
- Đó là dự lệnh!
Tiếng hô dõng dạc vang lên:
- Chào cờ, chào!
Ban nhạc Vệ quốc đoàn nâng những chiếc kèn đồng sáng loáng, cùng các nhạc cụ khác, cử hành bản nhạc “Tiến quân ca”. Tiếng nhạc cất lên trầm hùng. Bảy người lính trong nhóm Con Nai rập gót, đứng nghiêm, tay giơ trên trán, ngước lên chào lá cờ đỏ sao vàng bay phần phật trên cao. Henri nhận ra bản nhạc “Tiến quân ca” đang cất lên, chính là bài hát mà các chiến sĩ đại đội “Bộ đội Việt - Mỹ” cùng đồng bào hát vang trên đường tiến quân từ tỉnh lỵ Thái Nguyên về Hà Nội. Trong tiếng nhạc trầm hùng, triệu con mắt của biển người ngước lên Lễ đài. Thiếu niên Páo với cặp mắt tinh tường nhìn thấy hai chị phụ nữ trang nghiêm, từ từ kéo lá cờ đỏ sao vàng lên cao4. Một chị mặc quần áo đẹp của thiếu nữ Hà Nội. Một chị mặc trang phục nữ du kích quân. Thiếu niên Páo nhận ra chị nữ du kích kéo cờ đỏ sao vàng. Páo ghé sát Hoàng Bình, reo khẽ:
- Hoàng Bình ơi! Chị Đàm Thị Loan của chúng mình, cùng một chị Hà Nội, đang kéo lá cờ đỏ sao vàng trên Lễ đài kìa!
Thiếu niên Páo tự hào, khoe anh Tômát và anh L.A. Pátty đứng bên cạnh:
- Chị Đàm Thị Loan của chúng em đang kéo lá cờ đỏ sao vàng trên Lễ đài kia! Chị ấy cùng hành quân với đại đội “Bộ đội Việt - Mỹ” từ căn cứ Tân Trào về Hà Nội đấy!
Anh Tômát tay giơ trên trán chào cờ đỏ sao vàng, nói với thiếu niên Páo:
- Thật vinh dự lớn lao với người chị của em Páo!
Sau khi lá cờ kéo lên tới ngọn cột cờ, anh L.A. Pátty nói với em Páo:
- Một trăm năm nữa, lịch sử vẫn nhắc đến sự kiện vĩ đại này, vẫn nhắc đến hai người phụ nữ kéo lá cờ đỏ sao vàng trên Lễ đài hôm nay!
Trong lòng thiếu niên Páo tràn ngập niềm tự hào! Biển người hướng về Lễ đài. Đoàn nghi lễ đứng trên Lễ đài là những người đại diện cho nước Việt Nam độc lập. Một cụ già nhanh nhẹn bước tới trước micrô. Đôi mắt tinh tường của thiếu niên Páo nhận ra cụ già chính là Cụ Hồ Chí Minh tại lán Nà Lừa. Bác sĩ Pôn thì nhận ra ngay Mr Hồ, bệnh nhân đã khỏi kỳ diệu trận ốm nặng tại lán Nà Lừa. Nhóm Con Nai và các thành viên OSS nhận ra vị Lãnh tụ Việt Minh mà họ vô cùng kính phục, ngưỡng mộ từ căn cứ địa Tân Trào. OSS truyền ngay thông tin đặc biệt này tới Côn Minh.
Thế giới cũng cập nhật thông tin sự kiện lịch sử của nhân loại đang diễn ra tại Quảng trường Ba Đình, Việt Nam.
L.A. Pátty nói với Tômát bằng tiếng Anh:
- Mr Hồ chính là vị Chủ tịch nước đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Thiếu tá Tômát và nhóm Con Nai nhận ra anh Võ Nguyên Giáp, vị chỉ huy quân sự Việt Minh đứng trên Lễ đài cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên đường tiến quân từ căn cứ địa Tân Trào về Thái Nguyên, Tômát được nghe anh Võ Nguyên Giáp kể những chuyện về gia đình, về khát vọng độc lập của đất nước. Người có dáng thư sinh, nói năng nhỏ nhẹ, trí tuệ uyên bác, tầm vóc danh tướng. Anh chiến sĩ bảo vệ tại căn cứ Tân Trào nhận ra ông Trần Huy Liệu, người viết Bản quân lệnh số 1, ông Nguyễn Lương Bằng đại biểu của Tổng bộ Việt Minh... Đứng trên Lễ đài đều là những con người tinh hoa của nước Việt Nam độc lập. Nhưng ai cũng lịch thiệp, giản dị, khiêm nhường. Các chiến sĩ đại đội “Bộ đội Việt - Mỹ” nhận ra trên Lễ đài là những người thân quen hoạt động tại căn cứ địa Việt Bắc.
Giờ phút lịch sử đã đến. Giờ phút “Một cuộc khai sinh vĩ đại của thế giới” đã điểm. Trên Lễ đài, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân, đồng bào - Khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Henri làm dấu thánh, trang trọng dịch lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc bản Tuyên ngôn Độc lập sang tiếng Anh cho nhóm Con Nai. Thiếu niên Páo thì dịch bản Tuyên ngôn sang tiếng Anh cho anh L.A. Pátty và các anh OSS nghe trực tiếp:
“Tất cả mọi người sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Vừa nghe dịch câu mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, các thành viên nhóm Con Nai và OSS vô cùng kinh ngạc, thốt lên:
- Chúa ơi! Vì sao lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc trên Lễ đài, Người nhắc lời trong bản Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ?
Henri nhớ tới câu chuyện của thầy giáo Hà Nội: “Năm 1912, khi ở Bôtxtôn. Anh Văn Ba thường lui tới thư viện công cộng Bôtxtôn. Anh nghiên cứu rất kỹ và rất xúc động nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ”. Henri tự hỏi: “Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đang đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trên Lễ đài kia, phải chăng là anh Văn Ba? Những ngày ở khu rừng Nà Lừa mình từng muốn hỏi Người về điều này, nhưng chưa gặp cơ hội thích hợp!”.
Thiếu tá L.A. Pátty nói với thiếu niên Páo bằng tiếng Anh:
- Hôm qua, ngày 1 tháng 9, anh có vinh dự được tới gặp Mr Hồ tại gác hai của ngôi nhà số 48, phố Hàng Ngang. Mr Hồ đọc cho anh nghe dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập mà hôm nay, Người đang đọc trên Lễ đài. Anh vô cùng sửng sốt, tưởng mình nghe nhầm: “Người đọc dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam, lại nhắc lời trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ?”. Anh hỏi Người điều này. Người khẳng định: “Đúng thế!”. Người cầm bản dự thảo trên tay, nở nụ cười, nói với anh: “Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của con người!”.
Thiếu niên Páo quay sang nhóm Con Nai, dịch rành rọt sang tiếng Anh lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với L.A. Pátty hôm qua:
- Chúng ta chiến đấu vì hạnh phúc của con người!
Ngày Lễ Độc lập đầu tiên được đồng bào gọi là ngày Tết Độc lập. Trong ngày Tết Độc lập đầu tiên của người dân Việt Nam, nhóm Con Nai được nghỉ thảnh thơi. Thiếu niên Páo và thiếu niên Hoàng Bình cũng được nghỉ ngơi, tự do đi chơi, thăm thú Hà Nội. Henri cao hứng, rủ rê:
- Tại sao chúng ta không trở thành những người Mỹ đầu tiên đi tham quan Hà Nội như những vị khách du lịch vào ngày Tết Độc lập của nước Việt Nam?
Thiếu tá Tômát cũng cao hứng không kém:
- Làm khách du lịch Mỹ đầu tiên, thực sự là vinh dự đời người của mỗi chúng ta. Nhất là nhóm du lịch Mỹ chúng ta lại có hai em thiếu niên Páo và Hoàng Bình cùng ham muốn giống nhau?
Thiếu niên Páo reo lên:
- Em thích làm giao liên du lịch cho các anh tham quan Hà Nội!
Các thành viên nhóm Con Nai trút bỏ quân phục, mặc bộ quần áo chàm của đàn ông Tày. Đó là y phục do đồng bào căn cứ địa Tân Trào tặng các thành viên nhóm Con Nai trước khi rời căn cứ địa Tân Trào, tiến về Hà Nội. Thiếu niên Páo cùng bạn Hoàng Bình cũng diện áo chàm của dân tộc mình. Trung úy Lorenxơ ngắm nghía đồng đội mặc áo chàm, nắc nỏm khen ngợi bộ thời trang mới:
- Đây là bộ y phục đẹp nhất, kể từ khi chúng ta bước vào tuổi thanh niên, cho đến hôm nay!
Đường phố Hà Nội tràn ngập không khí ngày Tết Độc lập đầu tiên. Đường nhỏ, hẹp không theo ô bàn cờ nên đoàn khách du lịch đi một thôi một hồi lại trở về phố cũ. Thiếu niên Páo làm giao liên du lịch đi đầu hàng. Con chim sáo đậu trên vai Páo, ngó nghiêng cái đầu xinh xinh nhìn phố phường. Thiếu niên Hoàng Bình đi cuối hàng. Đội hình đi tham quan du lịch vẫn theo kiểu hành tiến từ căn cứ Tân Trào về Hà Nội. Henri nêu sáng kiến:
- Chúng ta không hỏi thăm, cứ đi lạc đường một cách tự nhiên. Lạc đường mới cảm nhận hết thú vị nét quanh co, độc đáo của phố phường Hà Nội.
Trung úy Rên xuýt xoa:
- Khắp tiểu bang quê hương tôi, không tầm vóc siêu thị ngoài trời nào rộng lớn bằng siêu thị ngoài trời Hà Nội!
Siêu thị ngoài trời Hà Nội trải rộng 36 phố phường. Cả 36 phố phường đều mang tên “Hàng” ở đầu: Hàng Buồm, Hàng Cót, Hàng Da, Hàng Dầu, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Đậu... Hàng hóa rất thiết thực với tiêu dùng hằng ngày của cư dân bản địa. Các cửa hàng đều sản xuất tại chỗ và bán luôn hàng vừa sản xuất ra. Rên thấy khác hẳn nơi bán hàng, tách rời nơi sản xuất ở Mỹ.
Các căn nhà bên đường phố treo cờ đỏ sao vàng. Phụ nữ răng đen, nhai trầu đỏ môi, niềm nở bán hàng. Người mua hàng và người bán hàng chúc nhau những lời tốt đẹp. Họ chúc nhau gia đình ấm no, con cái được học hành, đất nước trường tồn, độc lập. Henri dịch những lời chúc nhau của người dân Hà Nội cho các thành viên nhóm Con Nai nghe và cảm nhận. Trung sĩ thông tin Uyliam trước khi đăng lính, trải qua những năm làm nghề bốc vác vất vả, tại ga xe lửa. Đói nghèo, mù chữ bám riết kiếp người phố ga. Trẻ con mù chữ, đi chân trần, đá trái bóng bằng vải rách bó lại. Người dân di cư từ các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, châu Phi... tới sống quần tụm quanh nhà ga. Người lớn tập nói tiếng Anh truyền miệng. Bố mẹ không đủ tiền mua giấy, bút cho trẻ con học viết. Hôm nay đi trên đường phố Hà Nội, Uyliam cảm nhận lời chúc nhau của người dân phố cổ Hà Nội cũng là lời ước nguyện, hy vọng về cuộc sống của người dân lao động Mỹ.
Nhóm Con Nai đi dọc qua nhiều đường phố. Qua cửa nhà nào cũng được chủ nhà đon đả chào mời uống nước, ăn nếm quà buổi chiều. Đi qua phố Hàng Trống, một thanh niên chạy ra, tặng Pôn cái trống cơm để gõ hát chèo. Tham quan phố Hàng Cau, thiếu nữ mặc áo tứ thân bê khay, mời trầu cánh phượng. Qua phố Hàng Bút, hai em thiếu niên cầm hai chiếc bút máy, hai lọ mực hiệu Parker, hai quyển vở tặng thiếu niên Páo và thiếu niên Hoàng Bình.
Đầu Tômát ngó nghiêng như đầu con chim sáo của thiếu niên Páo, tò mò xem phố Hàng Điếu. Chủ cửa hiệu là người đàn ông trung niên mặc áo dài the, quần ống sớ, đầu đội khăn xếp. Chủ cửa hiệu thấy Tômát râu ria xồm xoàm, má hóp, tưởng là dân nghiện nặng thuốc lào. Ông ta ân cần mời “ăn” nếm vài điếu thiếu lào Vĩnh Bảo. Tômát trổ tài hút thuốc lào ở làng Kim Lung, rít một hơi căng, nhả khói lên tới trần nhà. Chủ cửa hiệu hoan hỉ tặng Tômát một bộ điếu bát, một bánh thuốc lào Vĩnh Bảo gói bằng lá chuối khô...
Thiếu niên Páo thay mặt anh Tômát cảm ơn chủ cửa hiệu bằng tiếng Việt phổ thông:
- Xin đa tạ cảm ơn ông! Bảy anh người Mỹ thuộc lực lượng Đồng minh cùng Việt Minh đánh đuổi quân Nhật. Nhiệm vụ hoàn thành. Hôm nay cùng nhau đi tham quan phố phường Hà Nội đây!
Chủ cửa hiệu nghe giới thiệu khách phương xa thì thiết tha mời khách vào chơi nhà, được vinh hạnh mời khách nước trà Tân Cương. Khách và chủ ngồi ấm chỗ. Chủ nhà trầm ngâm, thổ lộ tâm can. Thiếu niên Páo dịch lời chủ nhà sang tiếng Anh với những lời lẽ trầm buồn, như sau:
- Tôi bày tỏ điều này là để thỏa cõi lòng chứ chẳng cầu mong được đáp lại. Bố đẻ của tôi tham gia phong trào đánh giặc Pháp từ cuối thế kỷ trước. Ông tham gia cuộc tử thủ bảo vệ thành Hà Nội khi mới mười lăm tuổi. Người bị thương, rồi bị giặc Pháp bắt làm tù binh. Khi đó, tôi là một cái mầm bé bằng hạt thóc nằm trong bụng mẹ. Giặc Pháp đày người cùng các bạn tù tới tận Nam Mỹ. Tôi nghe tên nhà tù là Guyane. Được các bạn tù cưu mang và trời phù hộ, người đã trốn khỏi nhà tù, chạy sang tận nước Mỹ sinh sống. Hôm nay gặp các ngài là người Mỹ thì tôi giãi bày mấy lời để vơi nỗi lòng, vậy thôi!
Henri nghe chuyện liền liên tưởng ngay đến thầy giáo Hà Nội của mình.
Thân phận người bố của chủ nhà đây sao mà giống thân phận của thầy giáo Hà Nội? Trầm lặng suy nghĩ một lúc, Henri mạnh bạo hỏi thăm bằng tiếng Việt phổ thông:
- Người bố của ông tên là gì ạ?
- Họ Lê, tên đầy đủ là Lê Quỳnh Lâu.
- Thưa ông! Thuở đang tuổi niên thiếu bằng em Páo và em Hoàng Bình ngồi đây, tôi được gặp một người lai lịch khá giống với lai lịch người bố của ông. Tôi được học tiếng nói và chữ Việt phổ thông của thầy giáo già ấy. Cố hương của thầy giáo chính là Hà Nội. Thầy là người uyên bác, chí khí, dải râu dài. Thầy thủy chung nhận lời của một người bạn nhỏ tuổi hơn mình, tên là Văn Ba nên ở lại nước Mỹ. Thầy sống trên nước Mỹ gần nửa thế kỷ nay, cùng mưu việc độc lập cho nước nhà. Thầy tên là Lê Hà Nội. Rất tiếc, tên của thầy giáo của tôi không giống tên người bố đẻ của chủ nhà.
Chủ nhà có linh cảm khác thường khi nghe chuyện của người Mỹ. Ông chầm chậm bước tới ban thờ gia tiên. Kính cẩn thắp hương khấn vái tổ tiên, các vị thần linh. Bàn tay run run gỡ tấm ảnh thờ mang lại bàn uống nước. Chủ nhà bày tỏ:
- Cơ duyên của trời đất Hà Nội, của tổ tiên nhà tôi phù hộ, khi các khách quý trở về nước Mỹ, nếu gặp người trong ảnh này thì... - Nói tới đó, chủ nhà bưng mặt khóc hu hu như con trẻ.
Ảnh truyền thần chân dung người thanh niên tuổi mười lăm, mặc áo dài the. Đôi mắt sáng nhìn xa xăm... Chủ nhà phân trần:
- Thời phong kiến, nam nữ lấy nhau ở tuổi “gái mười ba, trai mười sáu”. Bố tôi thuộc gia đình độc đinh, độc con trai, bố mẹ ép lấy vợ từ năm mười bốn tuổi. Vì vậy, mẹ sinh ra tôi, năm bố tôi mới tuổi mười lăm!
Henri nhận ra người trong ảnh có hai mụn ruồi cơm đối xứng, nổi bật trên hàng lông mày. Trái tim mách bảo Henri, người trong ảnh chính là thầy giáo Hà Nội. Henri nghẹn lòng, liền ôm mặt òa khóc:
- Thầy của tôi! Người trong ảnh chính là thầy giáo của tôi! Thầy giáo Hà Nội ơi, trò đến nhà thầy đây rồi!
Henri nghẹn ngào kể cho ông chủ nhà, đồng đội trong nhóm Con Nai, thiếu niên Páo và thiếu niên Hoàng Bình về thời thơ ấu của mình tại quê hương Maxachuxét. Kể về bố mẹ, kể về thầy giáo lấy tên cố hương Hà Nội làm tên bí danh cho mình... Ôi, nếu thầy còn sống trên đất Mỹ thì năm nay thầy Hà Nội thọ 82 tuổi. Henri nhớ lời thầy: “Ta sinh năm 1863, anh Văn Ba sinh năm 1890. Thầy hơn anh Văn Ba 27 tuổi”. Henri biết rằng, tuổi thọ của đàn ông Mỹ thấp nhiều so với tuổi thọ đàn ông các nước khác. Thầy giáo Hà Nội là người Việt Nam, không phải là người Mỹ. Người thọ tới trăm tuổi? Có thể, giờ này, người đang ở Caliphoócnia hân hoan đón tin nước Việt Nam độc lập?
Theo phong tục tập quán phương Đông, bảy người lính tình báo nhóm Con Nai xếp hàng ngang trước ban thờ gia tiên của chủ nhà, thắp hương khấn vái. Thầy giáo Hà Nội phía sau bát hương trên ban thờ như đang nháy mắt nói rằng: “Ta vẫn đang chờ anh Văn Ba quay lại thăm nước Mỹ. Ta đang soạn các câu hỏi kiểm tra trò Henri tiến bộ về tiếng Việt phổ thông và tiếng Tày tới mức nào?”.
Tômát thành kính nhìn tấm ảnh người thầy giáo Hà Nội của Henri, tuổi cao, đơn thân tận nước Mỹ, trải biết bao gian khổ nhưng chí khí của người nghĩa sĩ thành Hà Nội vẫn kiên trung. Tômát cầu khấn bằng tiếng Anh:
- Cầu chúc thầy giáo Hà Nội bình an bên Chúa!
Henri chắp tay trước ảnh người thầy giáo của mình. Với lòng thành kính và đức tin, Henri không tin con đường đi của thầy là đến với Chúa như lời cầu khấn của Tômát. Con đường của thầy là trở về Hà Nội, trở về nước Việt Nam độc lập! Tômát tỏ lời cầu khấn xong, Henri khấn rành rọt từng lời:
- Thầy Hà Nội đã trở về đất nước của mình trong ngày độc lập với sự chứng kiến của người con trai, của người học trò, của những người Mỹ nhóm Con Nai, của hai em thiếu niên yêu quý! Trò kính lạy thầy ạ!
Lời khấn của Henri đúng với nỗi lòng người con trai của thầy giáo Hà Nội!
Chủ cửa hiệu nén lòng mình lại. Ông bần thần giây lát, rồi đóng cửa hiệu. Ông tình nguyện làm người hướng dẫn hành trình du lịch phố cổ Hà Nội, phục vụ vô điều kiện nhóm Con Nai cùng hai em thiếu niên người Tày.
Thiếu niên Páo rất ngỡ ngàng khi chủ cửa hiệu thuốc lào sinh sống trong lòng phố cổ Hà Nội cũng không thuộc đường phố cổ Hà Nội.
Lạc đường...
Lại lạc đường...
Loanh quanh, loanh quanh đi hồi lâu, đoàn khách du lịch lại trở về Bờ Hồ xinh đẹp. Trung úy Rên đã thấy chân mỏi nhừ, đứng ngắm tòa tháp uy nghiêm trên mặt hồ. Nước trong hồ xanh màu lá cây. Sóng lăn tăn đùa nhau trên mặt nước. Rên nói với Tômát:
- Anh Tômát à, chúng ta đi loanh quanh, loanh quanh qua nhiều đường phố, rồi lại trở về hồ nước lớn này. Hình như đây là đích của cuộc hành trình du lịch Hà Nội?
Ông chủ cửa hiệu thuốc lào giới thiệu:
- Đoàn đang dừng chân bên bờ Hồ Gươm, hay gọi tên là Hồ Hoàn Kiếm.
Henri mang toàn bộ vốn từ tiếng Việt dịch trở lại tiếng Anh cho đồng đội nghe, chưa thật rạch ròi là “Gươm” hay “Kiếm” hay “Đao”?
Ông chủ cửa hiệu thuốc lào phân trần:
- Tôi có thể nói chuyện với quý khách cả ngày về thuốc lào Vĩnh Bảo, thuốc lào Tiên Lãng. Riêng dụng cụ hút thuốc lào bằng điếu bát, điếu cày, điếu róc đút túi, điếu nửa viên gạch chỉ và cách hút thuốc lào, nhả khói thuốc... tôi nói hai ngày còn dở dang. Nhưng nói về các di tích lịch sử của Hà Nội, các anh em cần hỏi chuyện cụ đồ đang ngồi viết chữ dưới gốc liễu bên hồ kia!
Thiếu niên Páo bước tới chào cụ đồ mặc áo dài the, đội khăn xếp, đang viết chữ dưới gốc liễu. Páo kính cẩn thưa:
- Thưa cụ! Các anh em người Mỹ thuộc lực lượng Đồng minh từ căn cứ địa Tân Trào mới về Hà Nội. Các anh ấy rất mong cụ nói vài lời về hồ nước rộng lớn, tòa tháp nổi trên mặt nước ạ?
Cụ đồ dừng bút, nói với thiếu niên Páo:
- Cháu mời khách quý tới ngồi quanh ta đây, ta sẽ kể sự tích hồ nước thiêng này cho mà biết.
Cụ đồ tự giới thiệu mình vốn là giáo sư trường Bưởi. Hôm qua, đứng trong khối nhân dân trên Quảng trường Ba Đình, nhìn lên Lễ đài, thấy một đồng nghiệp trẻ là giáo sư sử học. Vị giáo sư trẻ tuổi đó là Võ Nguyên Giáp. Nghe cụ đồ giới thiệu là đồng nghiệp của Mr Võ, nhóm Con Nai vô cùng tự hào đã được chiến đấu bên nhà trí thức quân sự đó.
Cụ đồ giới thiệu về sự tích hồ bằng tiếng Anh:
- Đức vua Lê Lợi sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh ở phương Bắc, người cưỡi thuyền rồng du ngoạn trên hồ nước này. Tay vua cầm thanh gươm báu. Thanh gươm cùng người xông pha qua biết bao trận mạc. Đang đứng trên đầu thuyền rồng, vua thấy một con rùa rất lớn nổi lên trước mũi thuyền. Rùa nói tiếng người, đòi nhận lại thanh gươm báu trên tay vua. Vua thấu hiểu lời của rùa thần, bèn nâng thanh gươm lên, trả lại rùa thần. Rùa thần ngậm thanh gươm báu, gật gật đầu, rồi lặn xuống hồ nước thiêng này. Sự tích đó mà dân gian gọi tên hồ là “Hồ Gươm” hay “Hồ Hoàn Kiếm”. Tòa tháp trên hồ để thờ sự tích mà ta vừa kể.
Cụ đồ nói với những người khách ngồi xung quanh:
- Triết lý đánh đuổi giặc ngoại xâm của người Việt Nam ta truyền lại cho con cháu thật rõ ràng. Triết lý đó là, sau khi đánh đuổi hết giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước, hãy vứt bỏ súng gươm để làm người dân hiền lành!
Thiếu niên Páo hỏi anh Henri:
- Nước Mỹ có hồ nước hoàn lại súng gươm như Hồ Hoàn Kiếm của Việt Nam không?
Câu hỏi thơ ngây của thiếu niên Páo làm cho bảy người lính Mỹ giật mình. Triết lý sự tích Hồ Hoàn Kiếm thật cao thượng, nhân văn. Đó là triết lý của muôn đời nhân loại trên trái đất này.
Thiếu tá Tômát thưa với cụ đồ bằng tiếng Anh:
- Thưa cụ! Mỗi đất nước đều phải có Hồ Hoàn Kiếm. Nếu hồ Michigân là Hồ Hoàn Kiếm thì nước Mỹ đã khác đi!
Cụ đồ mỉm cười, bút chấm đẫm mực, viết tặng mỗi người lính Mỹ một chữ “Tâm” đen nhánh.
Đoàn khách du lịch nghỉ chân trên bãi cỏ, bên gốc liễu. Con chim sáo đậu trên vai thiếu niên Páo. Chim nghển cổ cảm nhận trời nước mênh mang. Chim cất tiếng hót líu lo. Bàn tay thiếu niên Páo đỡ chim sáo, rồi tung chim bay lên. Chim sáo vỗ cánh, lượn trên mặt hồ nước bình yên. Đôi cánh vỗ nhịp nhàng. Chim bay lên ngọn cây liễu ven hồ Hoàn Kiếm, ngó nghiêng nhìn đất, nhìn trời. Thiếu niên Páo nói với các anh nhóm Con Nai:
- Chim sáo đi cùng anh em ta từ Tân Trào về Hà Nội. Anh em ta đã tới hồ Hoàn Kiếm, chim sáo cũng tới bầu trời tự do của nó!
Anh Henri lấy từ trong túi ra ống tơ đựng con dế của thiếu niên Tân Trào tặng. Bắt chước em Páo, Henri thả con dế ra bãi cỏ xanh rờn. Con dế ngập ngừng giây lát, rồi co cẳng nhảy nhảy ra bãi cỏ. Dế cao hứng gáy re re...
Sáng nay, Pôn vừa khóc, vừa tự xăm lên ngực bên trái của mình số “09-9-1945”. Thời gian khắc nghiệt làm sao! Hôm nay, ngày 09 tháng 9 năm 1945, toàn bộ thành viên nhóm Con Nai lưu luyến rời Hà Nội, trở về nước Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt chặt tay từng người bạn Mỹ. Người trao tận tay mỗi người bạn Mỹ những kỷ vật về Hà Nội, cùng chiếc áo comlê may bằng vải đũi. Henri xúc động giàn giụa nước mắt nhìn áo comlê vải đũi sang trọng mình mặc trên người, rồi nhìn áo sờn cổ của vị Chủ tịch nước Việt Nam đang mặc.
Henri cúi chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói:
- Cháu xin được gìn giữ kỷ vật áo comlê này suốt đời mình!
(50 năm sau, mùa thu năm 1995, Henri, Tômát và các nhân viên OSS là L.A. Pátty, Phơranhkin Tan, Mac Shin... trở lại Hà Nội. Tômát mặc áo comlê vải đũi, báu vật vẫn giữ nếp gấp qua 50 năm. Tômát đứng trên bậc thềm ngôi nhà 105A, phố Quán Thánh, bồi hồi nhớ về mùa thu Hà Nội năm mươi năm trước. Mùa thu này, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của Henri, Tômát, L.A. Pátty và các thành viên nhóm Con Nai, OSS đã về thế giới người hiền từ 26 năm trước!).
Ông chủ cửa hiệu thuốc lào gửi quà cho thân phụ của mình chiếc bị cói đựng nhiều bánh thuốc lào Vĩnh Bảo, thuốc lào Tiên Lãng, cùng một bộ điếu bát. Lúc ngồi trên máy bay qua đại dương, Henri nhìn bị cói đựng thuốc lào, bừng nhớ thầy giáo Hà Nội kính yêu của mình. Nỗi lòng của Henri cồn lên khi nợ thầy một câu hỏi: “Vị Chủ tịch Hồ Chí Minh có phải là anh Văn Ba không?”. Đã mấy lần định hỏi trực tiếp Mr Hồ mà Henri tự lỗi hẹn mình!
4. Hai người phụ nữ kéo lá cờ đỏ sao vàng là chị Lê Thi và chị Đàm Thị Loan.