Tiếng gà rừng gáy râm ran gọi mặt trời buổi sáng mọc lên phía trước bản. Cầu thang nhà sàn còn đẫm sương đêm. Anh Đức Cường đã dớm chân lên bậc cầu thang, gọi em Páo đi câu cá suối.
Đường ra suối phải luồn qua rừng tre. Sương đêm đọng trên lá tre rơi xuống vai áo chàm. Hai anh em vác cần câu vừa đi, vừa trò chuyện ríu rít với nhau. Anh Đức Cường khoe với em Páo việc ông nội khắc ngày sinh của anh lên cây cột cái nhà sàn. Hằn vào cột những con số ngày 15 tháng 5 năm 1925.
Páo hỏi:
- Năm nay, anh Đức Cường lớn qua bao nhiêu mùa hái măng rừng rồi?
Anh Đức Cường cười toe:
- Sáng nay, nhìn con số trên cột nhà thì biết mình mười tám tuổi. Mười tám mùa măng rừng rồi à!
Páo thích chí, khoe:
- Me (mẹ) bảo em mới lớn qua mười hai mùa măng rừng! Anh lớn hơn em sáu mùa măng rừng thôi đấy!
- Vậy em sinh năm 1931?
- 1931 là gì?
- Là cái số ghi năm me đẻ ra Páo đó!
- Ông nội nhà em không biết cái số. Anh nói với ông nội nhà anh giúp ông nội nhà em khắc ngày sinh của em lên cây cột cái nhà sàn nhé!
Hai anh em tới bờ suối. Nước suối chảy re re tạo nên âm thanh như khúc nhạc của cây đàn tính. Anh Đức Cường mỉm cười nhìn em Páo đang cài mồi vào lưỡi câu. Mắt anh long lanh, ngập ngừng như mắt con nai đực bên bụi măng rừng. Môi mấp máy định nói điều gì đó. Đầu đang nghĩ ngợi. Chợt, anh đặt một bàn tay tin cậy lên vai gầy của Páo:
- Em Páo à! Thôn Nà Mạ ở châu Hà Quảng, cùng tỉnh Cao Bằng ta. Tại nơi ấy có Đội Thiếu niên Tiền phong. Đội được cách mạng đẻ ra vào đúng ngày 15 tháng 5, cách hôm nay ba mùa măng rừng. Thiếu niên Nông Văn Dền, bí danh Kim Đồng là đội trưởng đội thiếu niên.
Anh Đức Cường đăm đăm nhìn xuống dòng suối chảy. Giọng nói nghèn nghẹn như nước suối đang chảy xuôi, bỗng bị vướng tảng đá:
- Em Páo à! Thiếu niên Kim Đồng đã anh dũng hy sinh bảo vệ cách mạng, cách ngày hôm nay đúng ba tháng. Nhưng tấm gương của Kim Đồng còn sống mãi với non nước Cao Bằng!
Anh Đức Cường đặt cả hai bàn tay chắc khỏe lên hai vai gầy của em Páo:
- Hôm nay, anh thay mặt tổ chức tuyên bố thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong của bản ta. Anh phân công em Hoàng Văn Páo làm đội trưởng!
Páo ngước đôi mắt long lanh nhìn anh Đức Cường, hỏi:
- Anh ơi! Đội Thiếu niên Tiền phong toàn là trẻ con trong bản thì làm gì hả anh?
- Làm cách mạng, em Páo à!
- Làm cách mạng để làm gì ạ?
- Là để đánh tan giặc Pháp, đuổi hết giặc Nhật ra khỏi bờ cõi nước ta!
- Lính Pháp, lính Nhật thân to như con bò hoang trong rừng, lại cầm súng khạc ra lửa. Trẻ con lít nhít chúng em đánh chúng thế nào ạ?
- Tuổi nhỏ thì làm việc nhỏ. Nghìn vạn việc nhỏ của thiếu niên cùng với nghìn vạn việc của người lớn sẽ mạnh như cơn lũ rừng. Lũ rừng sẽ cuốn phăng quân Pháp, quân Nhật.
Mắt anh Đức Cường sáng lên như hai giọt nắng:
- Lúc đó, đất nước độc lập, em Páo cùng các bạn thiếu niên trong bản tha hồ được chơi đánh quay, chơi trò đẩy gậy, tung tăng vào rừng bắt chim sáo. Ai ai cũng được cầm sách đến trường học chữ quốc ngữ.
- Chữ quốc ngữ là gì hở anh?
- Là chữ viết của nước ta. Páo biết chữ quốc ngữ thì em tự khắc năm, tháng me đẻ ra em lên thân cây cột cái trong nhà sàn. Em không phải nhờ ông nội anh khắc hộ.
Páo nhảy choi choi bên bờ suối, reo lên:
- Biết chữ thích quá! Vậy em muốn học chữ quốc ngữ từ hôm nay được không à?
Anh Đức Cường rất vui, đồng ý ngay:
- Được! Học chữ ngay hôm nay, em Páo nhé!
Anh Đức Cường men xuống bờ suối, lựa tìm mấy viên đá non làm phấn viết. Hai anh em đi dọc bờ suối tìm phiến đá mặt phẳng phiu kề bên dòng nước chảy, làm bảng viết chữ. Xong buổi học, té nước lên phiến đá, xóa sạch dấu vết chữ viết.
Anh Đức Cường bảo:
- Học chữ cũng là công việc cách mạng hiện nay. Học chữ cũng phải bí mật. Đất nước độc lập thì tha hồ viết chữ lên bảng đen, trên giấy trắng, em à!
Páo khoanh tay, kính cẩn trả lời:
- Vâng ạ! Em ghi nhớ rồi ạ!
Từ hôm nay, Páo trở thành đội viên thiếu niên tiền phong. Páo lại làm đội trưởng Đội Thiếu niên Tiền phong của bản. Páo là thiếu niên đầu tiên trong bản được học chữ quốc ngữ. Trở về nhà, Páo thấy người thay đổi. Bước huỳnh huỵch trên bậc thang nhà sàn. Mắt nhìn cao tới ngọn cây đa đầu bản. Hai má nóng bừng. Páo nghĩ đến từng bạn thiếu nhi trong bản, giới thiệu cho anh Đức Cường kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền phong.
Ông nội quan sát nết ăn nết ở của Páo. Ông thấy thằng cháu đích tôn ra dáng một con nai nhỏ bắt đầu nhú sừng.
Sáng sáng, tiếng gà rừng te te trong khu rừng phía sau bản, Páo lại vác cần câu sang nhà anh Đức Cường. Páo gõ cần câu vào bậc cầu thang nhà sàn, ra ám hiệu. Lát sau, anh Đức Cường cầm cây cần câu bước xuống. Hai người đi cách nhau khoảng nửa quăng dao để bảo đảm bí mật. Anh Đức Cường vẫn luôn nhắc nhở Páo:
- Anh cùng em đi câu cá suối là để học chữ quốc ngữ. Mai đây, anh sẽ dạy các em thiếu niên khác bằng cách giả đi lấy măng rừng, đi lấy mật ong, đi bẫy chim ngói... Gặp mỗi em, mỗi cách khác nhau nhưng cùng mục đích học chữ quốc ngữ.
Tuổi thiếu niên rất thích những trò chơi ú tim. Vì vậy, bí mật học chữ khiến Páo thích thú. Páo thưa với anh Đức Cường:
- Hôm qua, một người lạ vào bản. Em vác cần câu về nhà nhưng tay không xách xâu cá. Người lạ len lén theo chân em về nhà. Em suỵt đàn chó săn của ông nội. Chó đuổi người lạ cong đuôi chạy ra khỏi bản.
Anh Đức Cường biết rõ người lạ mặt đó ở bản gần. Hắn tên Vi Long làm Việt gian cho quân Nhật. Anh nhắc nhở em Páo: Học chữ cho tốt thì phải coi cái tên Vi Long là kẻ muốn trẻ em mù chữ! Từ hôm ấy, Páo đều nhìn trước nhìn sau không thấy bóng dáng tên Vi Long mới đi ra bờ suối học chữ.
Anh Đức Cường lấy hòn đá son, cầm tay Páo viết từng chữ lên mặt phiến đá. Chữ “o” hình quả trứng gà rừng. Chữ “i” hình lưỡi câu cá suối. Chữ “u” ghép hai lưỡi câu cá suối với nhau... Páo học mau tiến bộ. Ba ngày sau Páo đã tự viết được hết các chữ cái. Năm ngày sau Páo đã ghép được hai chữ với nhau: chữ “t” với chữ “o” ; chữ “h” với chữ “o”; chữ “m” với chữ “e”... Anh Đức Cường khen Páo sáng dạ. Ngày thứ sáu, Páo được học các thanh âm. Páo tự viết ghép chữ, rồi viết dấu, chữ “p” ghép chữ “a”, đánh dấu sắc phía trên thành chữ “pá” (bố)...
Páo thích viết được nhiều chữ khác, thậm chí viết được cả tên của mình là chữ “Páo”. Sau mỗi buổi học, Páo đều té nước suối lên mặt phiến đá, rửa sạch chữ viết. Sự ham thích viết chữ không nén được trong lòng Páo. Páo lấy hòn than viết chữ bên bếp lửa nhà mình. Viết được nhiều chữ lại xóa đi. Có lúc, Páo đang viết chữ thì các bạn gọi đi sinh hoạt đội thiếu niên. Vội quá, quên không xóa chữ bên bếp lửa. Về nhà, ai đó đã xóa chữ bên bếp lửa hộ mình rồi.
Một trăm ngày học chữ quốc ngữ, Páo đã đọc được tài liệu do anh Đức Cường đưa cho. Anh Đức Cường bảo:
- Em Páo tiến bộ học chữ quốc ngữ rồi! Nhưng muốn đánh thắng giặc Pháp thì Páo cần phải học cả tiếng Pháp. Anh em ta phải lấy tiếng Pháp làm vũ khí đánh giặc Pháp.
Páo ngạc nhiên, hỏi:
- Học tiếng Pháp giống như học bắn súng kíp, tập phóng lao hả anh?
Anh Đức Cường cười:
- Lấy tiếng Pháp làm vũ khí đánh giặc Pháp, có lúc, có khi còn lợi hại hơn cả đạn súng kíp, mũi lao nhọn, em Páo à!
- Vậy thì anh dạy em học tiếng Pháp nhé!
Mùa đông, người dân trong bản chia từng tốp người vào rừng bắt con dúi, lấy mật ong, đặt bẫy lợn rừng. Người nào bắt được con thú bé, lấy được ít mật ong thì để nhà dùng. Người nào bắt được con thú to, lấy được nhiều mật ong thì đem san sẻ, biếu nhà hàng xóm. Vì thế, dân bản bắt được con lợn rừng to béo thì bếp nhà nào cũng thơm ngào ngạt món thịt lợn rừng.
Páo theo anh Đức Cường đi lấy mật ong rừng. Lấy mật ong phải leo lên cây nhưng không phải im tiếng như rình thú rừng. Vì thế đi trong rừng, Páo vẫn dỏng tai nghe anh Đức Cường đọc thơ ngụ ngôn của nhà thơ La Phôngten, bằng tiếng Pháp.
Páo cũng tập làm thơ bằng chữ quốc ngữ. Những bài thơ, câu thơ làm ban đầu không có vần. Làm thơ mãi thì thơ cũng có vần. Vần thơ đọc lên cũng khoái lỗ tai. Tối qua, sinh hoạt đội thiếu niên, Páo được nghe các anh Việt Minh người lớn kể chuyện về Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Được nghe về những tấm gương đánh đuổi ngoại xâm của thiếu niên Trần Quốc Toản thời nhà Trần, của bạn Nông Văn Dền cùng quê hương Cao Bằng. Lòng Páo xúc động, dâng trào thành thơ. Sáng nay, đi trong rừng, Páo đọc thơ của mình cho anh Đức Cường nghe:
Thiếu niên là cháu Cụ Hồ
Tuổi nhỏ hăng hái phất cờ đánh Tây
Anh Đức Cường cảm nhận chí khí của em thiếu niên cùng bản mà anh yêu quý và tin cậy. Anh thầm nghĩ: “Có thể giao nhiệm vụ mới cho em Páo rồi đấy!”.
Hôm nay, anh Đức Cường cùng em Páo đi lấy măng rừng. Những cái măng cuối mùa gầy teo. Páo hì hụi đào lấy cả củ măng dưới đất. Đi rừng với Páo, anh Đức Cường mới phát hiện điều kỳ diệu mà trời, đất ban cho Páo. Đôi mắt của Páo to, đen lay láy ẩn dưới lông mi cong dài. Đôi mắt của Páo nhìn mọi vật trong đêm hay trong sương mù dày đặc vẫn rõ như nhìn mọi vật giữa trời nắng. Ban đêm, người lớn giơ cao đuốc cháy rừng rực để soi ếch bên suối, Páo không cần lửa đuốc soi sáng mà vẫn nhìn rõ con ếch ẩn dưới lá khoai môn.
Người lớn đi săn lợn rừng ban đêm đều nói khó với gia đình để Páo đi cùng.
Đêm tối đen, không trăng sao nhưng mắt Páo tinh hơn cả mắt chim cú mèo. Mắt Páo nhìn rõ con lợn rừng ủi đất, đào củ sắn trên nương tận ngoài bìa rừng.
Cẳng chân của Páo mảnh khảnh nhưng chạy nhanh hơn cả con nai tung vó trong rừng hoang. Páo chạy vun vút, vồ thỏ rừng lẩn trong đồi cỏ tranh. Đôi tai của Páo thính nhạy hơn tai con dơi treo mình trên ngọn cây đa.
Páo lại rất giỏi võ dân tộc. Ông nội dạy võ cho cháu đích tôn từ năm bốn tuổi.
Năm mười tuổi, Páo đã đi đấu võ tranh giải của phủ Hòa An và đoạt giải cao nhất. Páo nổi tiếng ngón võ song phi và điểm huyệt đối phương bằng đầu ngón tay.
Anh Đức Cường cùng em Páo hạ gùi măng xuống đỉnh đèo, hóng gió mát. Hai anh em kéo vạt áo chàm lau mồ hôi ròng ròng trên mặt. Anh Đức Cường nắn cẳng chân gầy gầy của Páo. Anh bảo:
- Tổ chức thấy em ngoan, lại nhiều cái tài rất đặc biệt. Em đã làm rất tốt đội trưởng Đội Thiếu niên Tiền phong của bản. Hôm nay, tổ chức phân công em làm giao liên cho các anh Việt Minh. Em thấy sao?
Thiếu niên Páo quay lại, mở to cặp mắt sáng dưới hàng lông mi cong dài hỏi anh Đức Cường:
- Việt Minh là ai hả anh?
- Việt Minh là tổ chức đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam đánh giặc Pháp, đuổi giặc Nhật.
- Thế anh có là Việt Minh không?
- Anh là Việt Minh từ mấy mùa măng rừng rồi!
Nghe anh Đức Cường nói vậy, Páo thấy tin tưởng và thích làm Việt Minh. Páo nghĩ: “Lớn bằng anh Đức Cường thì mình cũng làm Việt Minh. Bây giờ còn bé thì mình làm giao liên cho các anh Việt Minh vậy!”. Nghĩ tới đó, Páo thưa với anh Đức Cường:
- Em thích làm giao liên cho Việt Minh ạ!
Anh Đức Cường rất vui. Tổ chức Việt Minh có thiếu niên Páo làm giao liên, lợi cho hoạt động nhiều lắm!
Thiếu niên Páo làm giao liên cho Việt Minh phủ Hòa An. Các anh Việt Minh gồm chín người cùng trạc tuổi anh Đức Cường. Sáu anh: Kim Anh, Đàm Quang Trung, Bế Văn Sắt, Thu Sơn, Hà Hưng Long, Kế Hoạch là người dân tộc Tày.
Hai anh Nông Văn Bê, Ngọc Trinh là người dân tộc Nùng. Mỗi anh Đức Cường là người dân tộc Kinh biết chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Anh Thu Sơn nói với thiếu niên Páo:
- Hiện thời, tổ chức Việt Minh của quê hương ta còn ít người. Vài năm tới, em Páo và các em thiếu niên khác lớn lên thì nối tiếp đứng trong hàng ngũ Việt Minh. Lúc đó, Việt Minh Hòa An đông hàng nghìn, hàng vạn người.
Anh Đức Cường nói với các anh Việt Minh cùng thiếu niên Páo:
- Anh em Việt Minh chúng ta và em Páo đang làm cách mạng. Đây là công việc lớn lắm và nguy hiểm nhiều. Vì vậy, mọi việc chúng ta làm, đều phải giữ kín, rất bí mật. Em Páo đồng ý không nào?
Thiếu niên Páo đứng thẳng người như măng mọc thẳng, trả lời:
- Em làm theo lời anh dặn ạ!
Gà trong bản gọi mặt trời mọc lên sườn núi phía đông, đó là lúc thiếu niên Páo xách lồng chim sáo lượn gần nơi các anh Việt Minh hội họp. Các anh thoắt đi, thoắt đến bàn công việc. Khi các anh gặp nhau trên nương. Lúc các anh hú nhau đi săn lợn rừng. Lúc thì thả lả uống rượu, ăn mằn thắn trong chợ. Thiếu niên Páo đánh quay, đẩy gậy cách chỗ mấy anh nửa quăng dao.
Đêm nay, cuộc họp bí mật trong nương sắn. Thiếu niên Páo đưa cặp mắt nhìn xuyên màn đêm thấy rõ như ban ngày. Con mèo rừng đang rình mồi đằng xa Páo cũng nhìn thấy thật rõ con mèo đang ve vẩy cái đuôi. Trời thay đổi thời tiết nên đom đóm vỡ tổ. Từng đàn đom đóm thắp đèn bay khắp nơi. Páo đuổi theo đom đóm, bắt gom vào túi áo. Ánh đèn đom đóm trong túi áo sáng hơn mấy hòn than hoa trong bếp. Mải đuổi bắt đom đóm nên Páo không biết mấy kẻ lạ mặt đang mò mẫm trong đêm tối. Chúng len lỏi qua các bụi cây, sắp đến nương sắn, nơi các anh Việt Minh đang họp. Một tên khom lưng đi trước. Chân hắn bước nhẹ như chân con mèo rừng. Đằng sau là ba tên lính Nhật cài kín lá cây trên người. Bỗng, tên khom lưng đi trước vô ý đạp phải cành cây khô. Hắn vội ngồi sụp xuống. Ba tên lính Nhật đằng sau vội giơ ba cây súng dài ra đằng trước. Nghe tiếng động, Páo rọi cặp mắt. Ngay lập tức phát hiện ra tên đang ngồi sụp bên lùm cây. Rõ ràng là tên Việt gian Vi Long. Khẩn cấp, không kịp báo động cho các anh Việt Minh! Páo bèn chụm hai bàn tay lên miệng làm loa, gầm lên tiếng con báo hoa. Ba tên lính Nhật giật bắn người, tay kéo cò súng đoàng đoàng đoàng!
Bất chợt nghe tiếng súng nổ, các anh Việt Minh thoắt mất hút vào bóng đêm...
Cuối mùa thu.
Sương mù phủ kín bầu trời phủ Hòa An. Trẻ con thích chơi ú tim trong màn sương mù. Khoảng cách năm bước chân cũng nhọ mặt người. Lợi dụng sương mù dày đặc, các anh Việt Minh họp ngay dưới chái nhà sàn cuối bản. Các anh đóng vai làm thợ rèn. Ba chiếc lò rừng rực lửa. Những thỏi sắt đỏ lôi ra khỏi lò. Tiếng búa đập trên đe choang choang. Các anh vừa làm, vừa phổ biến với nhau tình hình Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân sắp được thành lập tại quê hương Cao Bằng...
Bầu trời, rừng núi, bản làng vẫn dày đặc sương mù. Thiếu niên Páo vẫn chơi đánh quay một mình, như thể tự luyện tập để chuẩn bị đi thi đánh quay ở bản, ở phủ Hòa An. Đôi tai tinh tường lọc trong tiếng búa lò rèn âm thanh lạ từ xa. Mắt vẫn đảo quanh, dõi qua màn sương tới tận bìa rừng, tới tận lối mòn đi vào bản.
Yên tĩnh!
Cả bản lặng nghe tiếng búa lò rèn nhịp nhàng. Sương mù lảng bảng theo gió. Đó cùng là lúc các anh Việt Minh thôi họp. Anh Đức Cường đến gần thiếu niên Páo. Anh nói nhỏ với thiếu niên Páo:
- Cuối năm 1944 này, em Páo cùng các anh xuyên rừng xuống châu Nguyên Bình nhé! Anh đã thưa chuyện này với ung (ông), với pá (bố) và me (mẹ) của Páo rồi. Ai cũng đồng ý cho em đi lận lâm sản liền mấy ngày với anh.
Páo nhảy cẫng lên, chân khẳng khiu vung lên gần chạm mang tai, reo khẽ:
- Đi chơi xa thế, em thích lắm vớ!
Bầu trời phủ Hòa An mù sương. Bỗng trên trời cao, dày đặc sương, lòe quầng lửa to hơn ngọn cây đa. Tiếp đó, tiếng nổ ùng ùng oàng oàng vang lên. Páo nhìn xuyên màn sương mù dày đặc từ mặt đất đến bầu trời. Một chiếc máy bay to bằng thân cây cổ thụ nổ ùng oàng trên trời. Páo biết đó là chiếc máy bay. Vì gần đây, máy bay Đồng minh thỉnh thoảng lượn trên bầu trời phủ Hòa An. Páo vội gọi anh Đức Cường:
- Anh ơi! Một cái máy bay nổ trên trời!
Ngay lúc đó, Páo nhìn thấy một cái ô to gấp hàng trăm lần cái ô che đầu của ông nội. Cái dù (Páo gọi là cái ô) treo một thân người lơ lửng, lơ lửng rơi xuống phía cuối bản. Páo vội vàng báo cho anh Đức Cường cùng các anh trong đội Việt Minh. Người vơ vội khúc củi khô. Người cầm con dao quắm vừa rèn xong. Những bước chân sải dài, băng qua khu rừng cây rậm rạp, băng qua con suối. Páo chạy nhanh hơn con nai. Thoáng mắt, Páo đã chạy tới cuối bản. Chiếc dù mắc rối trên ngọn cây rừng. Người trên ngọn cây lúng túng như con chim rừng mắc vào lưới đánh bẫy. Các anh trong đội Việt Minh bao vây dưới gốc cây. Anh Đức Cường cử ba anh Kim Anh, Đàm Quang Trung, Hà Hưng Long cùng em Páo leo lên cây cứu phi công. Páo thoăn thoắt leo lên ngọn cây nhanh hơn các anh người lớn. Viên phi công nói bằng tiếng Pháp khẩn cầu Páo cắt dây dù, gỡ rối dây quấn thân người. Páo biết tiếng Pháp nên hiểu ý, nhanh chóng rút dao quắm bên sườn, cắt dây dù. Các anh người lớn buộc dây rừng quanh bụng viên phi công, rồi thòng xuống đất. Chân vừa chạm đất, viên phi công vội giơ thẳng hai tay lên trời. Anh Đức Cường rất tinh mắt. Anh nhận ra viên phi công không phải là lính Pháp. Nhưng anh hỏi bằng tiếng Pháp, vì anh nói giỏi tiếng Pháp:
- Anh lính! Anh không phải là lính Pháp?
Viên phi công vẫn giơ thẳng hai tay lên trời, trả lời bằng tiếng Pháp:
- Thưa ngài! Tôi không phải là lính Pháp! Tôi là người Mỹ thuộc lực lượng Đồng minh.
Viên phi công nói vội vàng để người đứng trước mặt hiểu rõ mình hơn:
- Lực lượng Đồng minh cùng Việt Minh đánh phát xít Nhật. Tôi cùng phe với Việt Minh! Tôi bị quân Nhật bắn hỏng máy bay. Chúa đã cử các ngài cứu sống tôi. Tôi vô cùng biết ơn. Tôi mong muốn được gặp chỉ huy Việt Minh để nói rõ mọi việc, thưa ngài!
Anh Đức Cường nhạy bén tình hình thời sự. Sau khi nghe viên phi công đề đạt nguyện vọng, anh dõng dạc trả lời bằng tiếng Pháp:
- Được!
Anh lệnh cho viên phi công hạ hai tay xuống. Bộ đồ bay được thay bằng bộ quần áo chàm đàn ông rộng thùng thình vừa được dân bản đem tới. Quần dài quá cỡ đàn ông trong bản, vẫn cộc ngang bắp chân viên phi công. Viên phi công sau khi trút bộ đồ bay, cảm thấy nhẹ nhõm trong bộ quần áo chàm. Anh Đức Cường cùng các anh Việt Minh và thiếu niên Páo đưa viên phi công đến nhà trưởng bản. Các anh trong đội Việt Minh cùng trai bản thu dọn dù, bộ đồ bay, ba lô... giúp viên phi công. Thiếu niên Páo cầm chiếc mũ bay của viên phi công. Mũ nặng trịch, to như cái nồi nấu rượu ngô. Páo đội mũ phi công lên đầu giả làm đầu sư tử, múa may ngả sang trái, nghiêng qua phải. Lũ trẻ trong bản hò reo theo sau Páo múa đầu sư tử. Viên phi công nhìn cảnh múa đầu sư tử thì cười ngả cười nghiêng. Viên phi công chỉ đám trẻ em múa đầu sư tử bằng mũ phi công, nói bằng tiếng Pháp với anh Đức Cường:
- Quân đội Mỹ, trừ tôi ra, không ai có thể hình dung trang bị chiến trường của phi công Mỹ lại trở thành đồ chơi của trẻ em Việt Nam!
Anh Đức Cường mỉm cười, chỉ vào trang phục đàn ông dân tộc Tày trên người viên phi công, trả lời bằng tiếng Pháp:
- Tất cả những người lính Mỹ, lính Pháp, lính Nhật quẳng súng, quẳng gươm trên tay đi, ắt trở thành người đàn ông mặc áo chàm hiền lành như ngài đây!