Đường vào thị trấn Naunghwe, bắt đầu từ trạm mua vé đã thấy nên thơ. Đường nhỏ nhưng một bên có dòng kênh và hàng cây chạy dài thật đẹp. Thị trấn là nơi du khách nghỉ lại hay đi thẳng đến hồ Inle, một hồ nước ngọt nằm ở độ cao 800 m so với mặt nước biển, thuộc bang Shan, Myanmar.
Naunghwe cách Yangon khoảng 600 km, nhưng hôm ấy, chúng tôi đi từ Bagan nên chỉ khoảng hơn 300 km. Tuy vậy cũng mất tám tiếng!
Hai bên đường hầu như chỉ thấy một màu xanh ngút mắt, đồng xanh, núi xanh, trời xanh. Đường lên cao nguyên nhiều khúc quanh cùi chỏ, đẹp ngoạn mục. Xe đi lại nhường nhau, dù đèo cao, đường hẹp, nhiều đoạn đang làm nhưng thấy an toàn. Tôi ngang qua vài thị trấn với những vùng trồng rau, hoa hồng, vừa cảm giác giống vùng ven Đà Lạt, lại vừa như Sapa hay một thị trấn miền núi nào đó của Việt Nam.
Ấn tượng đầu tiên, Naunghwe nhỏ, xưa cũ, thanh bình và êm đềm. Đường láng nhựa hay rải đá nhưng không có vỉa hè nên nhiều bụi. Những ngôi nhà nhỏ, kiểu xưa, những dãy phố với các quán ăn cũ kỹ, thậm chí tuềnh toàng, bàn ghế gỗ thô sơ và sự hiện diện của những chiếc ti vi đèn hình càng tăng thêm vẻ buồn buồn, hiền lành, chất phác. Một vài khách sạn, nhà hàng mới xây dường như không đánh thức được cái tĩnh lặng, hiền hòa để xô bồ, nhộn nhịp hơn một chút.
Tiếng xe ngựa lộc cộc trong buổi sáng sớm hay chiều muộn bỗng khiến khách bâng khuâng. Tôi ngồi uống ly rượu nho trong buổi chiều muộn và nghe như vẳng lại bài nhạc jazz. Tôi mang những cảm xúc ấy vào giấc ngủ say bởi một ngày ngồi xe, lấy lại sức để sáng mai xuống bến tàu đi hồ Inle trong chương trình đã đặt sẵn.
Đường sông từ phố ra đến hồ khoảng mười phút, hai bên là nhà. Mọi người sinh hoạt, mua bán trên sông, không khác nhiều bức tranh miền Tây của Việt Nam. Vừa đến “ngã ba” hồ - sông chúng tôi đã thấy mặt nước mênh mông bát ngát trước mắt.
Do là vùng cao nguyên, hôm ấy chúng tôi đi trời không nắng nên cảm giác mát mẻ, rất dễ chịu. Với diện tích khoảng hơn 200 km, được bao quanh bởi núi, người dân sinh sống trên hồ là dân tộc thiểu số Inthar. Chiếc xuồng lần lượt đưa chúng tôi qua các làng, nhà cửa, chùa, các khu resort, quán ăn… Đặc biệt, một khu vực trồng trọt được ví như cánh đồng nổi trên nước, chủ yếu là cà chua. Nườm nượp những chiếc xuồng chở đầy ắp cà chua từ hồ ra phố hay những chiếc xuồng với những cần xé trống từ phố vào hồ cho thấy điều này.
Nơi đây hiếm có sự hiện diện của xi măng hay bê tông mà chỉ toàn gỗ. Nhìn hàng trụ điện bằng gỗ ngang dọc chạy dài, trông rất đặc biệt, khó thấy ở nơi nào khác. Thêm nữa, cách bắt cá của họ cũng đặc biệt, chỉ bằng một chân, đứng ở đầu mũi xuồng vừa chèo, vừa thả lưới.
Một điều thú vị nữa là người dân dệt lụa từ ngó sen. "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" là đây. Bao nhiêu sợi tơ ngắn trong một ngó sen mới làm nên một tấm lụa? Ôi, quả là kỳ công. Đó là chưa kể việc lấy ngó sen phải ngâm mình trong nước bùn và cho tay sâu xuống gốc mới lấy lên được. Thành ra, sản phẩm có giá cao cũng là điều dễ hiểu!
Những người phụ nữ “cổ dài” trong trang phục truyền thống đang ngồi dệt khăn choàng sẵn sàng nở nụ cười thật tươi nếu khách muốn chụp hình kỷ niệm. Họ kể rằng các cô gái của bộ tộc Kayan Lahwi bắt đầu đeo vòng cổ từ khi lên bảy tuổi. Cùng với số tuổi và sự phát triển cơ thể, số vòng cổ tăng dần. Có thể là một chiếc vòng đồng gồm hơn 20 vòng nặng trịch, không bao giờ được tháo ra. Quả là một nét văn hóa dân tộc của người bản xứ!
Chiều về, vì còn nhiều thời gian trước khi ra xe đêm đi thành phố khác, một vài người dạo chợ. Do đi cả ngày nên chúng tôi trả phòng từ sớm. Chủ khách sạn rất chìu khách, cho chúng tôi một phòng nghỉ tạm. Tôi tranh thủ sạc pin điện thoại, ngả lưng xuống giường, nghe tiếng xe ngựa vọng lại như sát cạnh mình, đưa quá khứ về gần lắm. Tôi bỗng nhớ thời áo đầm, chân sáo, có một ngày Tết lần đầu tiên tôi được đi xe ngựa từ Thành xuống Nha Trang, đến cầu Hà Ra con ngựa cứ nhảy chồm lên khiến ai nấy phải bám chặt lấy thành xe, hay bất cứ cái gì có thể nắm chắc. Ông đánh xe ngựa mãi mới điều khiển được con ngựa trở chứng bất ngờ. Ám ảnh từ nhỏ cho đến… già!
Bảy rưỡi tối giờ Việt Nam mà trời vẫn còn sáng. Cảm giác gần gũi ở một thị trấn mới tới lần đầu còn bởi bắt gặp những hộp bánh Nabati của Việt Nam trong cửa hàng tạp hóa, siêu thị nhỏ.
Những dãy phố, cửa hàng nhỏ, nhà thấp, đèn đường không đủ sáng đã khiến tôi một lần nữa nhớ lại nhiều năm trước. Con người ta khó có thể chọn lựa một thời thiếu thốn nhưng bình yên hay hiện tại đầy đủ hơn mà lại nhiều bất ổn. Phát triển nào cũng trả giá. Vùng hồ Inle mà tôi đã đi qua trong ngày được gìn giữ vừa là để bảo tồn cũng vừa là phát triển du lịch. Thế giới biết đến một nơi hoang sơ, thân thiện với môi trường và cuộc sống yên bình.
Khách đến rồi đi, có những cái nhìn thú vị, ngỡ ngàng và cả ái ngại.
Những thanh niên đứng bên trong một quầy hàng làm công việc têm trầu, đóng gói cho khách đến mua. Họ làm nhanh và thuần thục kiểu công nghiệp. Thấy tôi đưa máy hình lên, các em ấy còn giơ hai ngón tay thành hình chữ V. Không biết bao nhiêu quốc gia trên thế giới còn giữ tục ăn trầu này? Ở đây lại toàn các thanh niên trẻ?
Tạm biệt nơi này để đến một nơi khác, cảm xúc sẽ qua nhanh nhưng chắc chắn khi về nhà, lần giở lại loạt hình đã chụp, không chỉ là hình ảnh mà còn là quá khứ gần và xa. Đi để trở về, với người trẻ thấy mình lớn lên, với người nhiều trải nghiệm, kỷ niệm sẽ dày thêm. Để rồi khi gặp lại một khoảnh khắc xưa lại khiến mình bồi hồi.