Nước Mỹ có vô vàn huyền thoại - như Abe Lincoln, người đã vượt qua mọi trở ngại để vươn đến sự vĩ đại. Hơn cả huyền thoại, những người này thực tế là hình mẫu cho sự độc lập. Sau tất cả, Lincoln đã vượt qua bối cảnh nghèo khó bằng cách tự học khi mà giáo dục chính quy không dành cho ông.
Ngày nay cũng vậy, ta có thể thấy vô số người lớn lên trong nghèo khó và sự thờ ơ nhưng vẫn kiên trì theo đuổi những nghề nghiệp đặc biệt - hoặc phi thường theo đúng nghĩa của nó, với cuộc sống ổn định, viên mãn, trao cho con cái họ những thứ mà họ đã không được trao và đóng góp cho cộng đồng với một tinh thần biết ơn và hy vọng.
Mặc dù động lực, hành vi hay hạnh phúc của con người bị ảnh hưởng nặng nề bởi môi trường xã hội quanh họ, nhưng cũng thật ấn tượng khi một số người có thể sống một cách đáng ngưỡng mộ bất chấp việc đã trải nghiệm quá trình giáo dục hằn rõ những áp lực, hỗn loạn, bạo hành hay bị bỏ rơi. Làm thế nào để lý giải được vấn đề có vẻ khó hiểu này?
Để bắt đầu, ta phải thừa nhận rằng con người được sinh ra với những sự khác biệt về mặt cá nhân. Ở mỗi đặc tính (chiều cao, trí tuệ, tính hung hăng hay bất kỳ thứ gì khác), con người có khuynh hướng không chỉ khác nhau mà họ còn làm vậy để phù hợp với cái gọi là sự phân bố thông thường - đường cong hình chuông quen thuộc30. Điều này có nghĩa là trước khi môi trường có bất kỳ tác động nào lên con người, mỗi khía cạnh con người của họ đều đã có khởi điểm riêng.
30 Đường cong hình chuông (Bell Curve) là một đồ thị mô tả phân phối chuẩn của một biến, đồ thị này có hình dạng như một quả chuông. Điểm cao nhất trên đường cong hoặc đỉnh chuông, đại diện cho sự kiện có khả năng xảy ra nhất trong một chuỗi dữ liệu (giá trị trung bình), trong khi tất cả các khả năng khác được phân bổ đối xứng xung quanh giá trị trung bình, tạo ra đường cong xuống dốc ở mỗi bên của đỉnh. Chiều rộng của đường cong hình chuông tương đương với độ lệch chuẩn của nó.
Mỗi khía cạnh trong số này có tiêu chuẩn bình thường của nó - gọi chính xác là giá trị trung bình. Chẳng hạn như có chiều cao trung bình, có IQ trung bình và hầu hết mọi người đều quay quanh giá trị trung bình đó. Càng cách xa giá trị trung bình thì càng ít trường hợp. Ví dụ, IQ trung bình là khoảng 100, và 2/3 loài người có IQ trong khoảng 90-110. Ngược lại, chỉ khoảng 2% dân số có IQ trong khoảng từ 120-140 và 2% rơi vào khoảng 60-80.
Có nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em được sinh ra với những sự khác biệt cá nhân về các biến số tâm lý cũng như thể chất, và đây là những thứ quan trọng đối với câu hỏi mà chúng ta đang nói đến. Chẳng hạn, một nghiên cứu lớn đã ghi nhận rằng con người có những khác biệt bẩm sinh về tính khí. Một số trẻ sơ sinh hòa đồng và vui vẻ; một số khác lại khép kín và cáu kỉnh. Một số tràn đầy sức sống và chủ động, trong khi số khác lại thiếu sức sống và thụ động. Những phẩm chất về sức sống và sự chủ động này tất nhiên có liên quan đến động lực nội tại.
Trẻ em càng có sức sống và chủ động thì càng có khởi đầu tốt hơn trong việc phát triển một dáng vẻ tự tin một cách tự chủ. Nhưng đó chỉ là khởi đầu. Ngay lập tức, môi trường sẽ bắt đầu tác động đến những quá trình này - môi trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh nếu như nó cho phép những nhu cầu cơ bản được thỏa mãn, và nó gạt bỏ sự phát triển nếu nó không đáp ứng những nhu cầu cơ bản. Dĩ nhiên, điều này đặt ra giả thuyết rằng những đứa trẻ được nuôi nấng trong môi trường nghèo khổ sẽ sống trong tình trạng tồi tệ hơn những đứa trẻ lớn lên trong môi trường được dưỡng dục đầy đủ. Nhưng nó vẫn bỏ ngỏ câu hỏi tại sao một số người lại có thể sống khá tốt bất chấp những ảnh hưởng từ môi trường này.
Tìm kiếm một sự ủng hộ đặc biệt
Một số trẻ em sống trong môi trường mà nhìn chung không được dưỡng dục vẫn có thể tìm ra một mối quan hệ đặc biệt với một người trưởng thành. Điều này rõ ràng đặc biệt đúng với những đứa trẻ gắn kết và chủ động ngay từ đầu. Thông thường, những cá nhân vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn sẽ kể câu chuyện về một người nào đó thật sự tin tưởng họ và cho họ sự ủng hộ cần thiết để tin vào chính mình. Đôi lúc, đó có thể là người thân; cũng có khi là giáo viên hay huấn luyện viên. Dù là ai đi nữa, nếu trẻ có thể nhận được sự ủng hộ liên tục từ một người đặc biệt thật sự tin tưởng mình, chúng sẽ có thể vượt lên ảnh hưởng chung từ môi trường xung quanh. Và nếu chúng là những đứa trẻ có tính cách bẩm sinh khác thường ngay từ đầu, thì khả năng sẽ càng cao hơn.
Tôi từng nghe kể về một giám thị trường học - tôi sẽ gọi ông là Robert - lớn lên ở một khu phố rất nghèo. Ông có một em trai và một em gái nhưng chưa bao giờ gặp cha. Mẹ ông đã rất chật vật để gia đình được sống bên nhau bằng công việc dọn dẹp nhà cửa, nhưng điều đó có nghĩa là bà ít khi có mặt ở nhà. Và miêu tả của ông về những ngôi trường ông từng học nghe có vẻ như một cơn ác mộng.
Robert sống ở một vùng ngoại ô thoải mái, có hai đứa con dường như rất vui vẻ với cuộc sống của chúng và ông còn là thành viên của vài tổ chức tình nguyện. Những câu chuyện về thời trẻ của ông còn bao gồm vài điểm đáng chú ý về những người quan trọng. Khi ông còn bé, bà của ông sống cách đó chỉ hai dãy nhà, và hai bà cháu có sự gắn bó đặc biệt. Bà sống cùng Robert khi ông còn rất nhỏ, sau đó còn giúp ông làm bài tập về nhà. Những câu chuyện của ông còn thường xuyên nhắc đến một vị quản trị viên thể thao tại sở thanh toán trong vùng. Robert chơi bóng rổ đặc biệt giỏi và cũng tham gia các hoạt động thể thao khác. Quản trị viên này đã kết hôn, có gia đình riêng, và Robert thỉnh thoảng cũng dành thời gian ở bên cạnh họ. Tôi cho rằng hai mối quan hệ đặc biệt này là lực tác động mạnh mẽ cho phép Robert hiện thực hóa những gì hiển nhiên là tài năng đặc biệt.
Các cá nhân và thế giới xã hội của họ
Dĩ nhiên, những người sống trong môi trường nghèo khổ và áp bức không có lợi thế về những mối quan hệ đặc biệt như vậy, nhưng quả thật những người đó có khả năng ảnh hưởng đến thế giới xã hội của họ, đồng thời chịu ảnh hưởng từ mối quan hệ ấy một cách tích cực. Tôi đã không ngừng nhấn mạnh rằng những bối cảnh kiểm soát hay khuyến khích tự chủ có thể tạo nên những tác động mạnh mẽ tồn tại dai dẳng suốt cuộc đời của mỗi người, ảnh hưởng đến động lực, hành vi và sự phát triển của họ. Nhưng ở một mức độ nào đó, con người cũng ảnh hưởng ngược lại thế giới xã hội đang tác động lên họ, và một ẩn ý cực kỳ quan trọng ở đây chính là những đứa trẻ hòa đồng, tràn đầy sức sống và chủ động sẽ có khả năng gợi nên những gì tốt đẹp nhất của người chăm sóc chúng. Với trạng thái giàu sức sống và gắn kết hơn, chúng có thể khơi gợi sự kết nối và khuyến khích tự chủ ở những phụ huynh và giáo viên có tính lạnh lùng và thích kiểm soát. Sự khuyến khích tự chủ nhỏ nhoi đó có thể cho những đứa trẻ này thêm động lực.
Do vậy, những đặc tính bẩm sinh của trẻ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi và sự phát triển của chúng mà những đặc tính này còn có tác động đến môi trường xã hội, rồi sau đó môi trường sẽ ảnh hưởng ngược lại sự phát triển của trẻ. Các môi trường xã hội có những đặc tính ổn định của riêng nó, nhưng sự thật rằng con người có thể có tác động, dù nhỏ, lên các môi trường xã hội giúp ta giải thích được vì sao một số người có thể vươn lên từ những môi trường đó nhờ thái độ tích cực hơn.
Ta vẫn thường nghe các giáo viên nói rằng khuyến khích tính tự chủ ở những học sinh gắn kết và chủ động thì chẳng có gì khó, nhưng những đứa trẻ thụ động và hay gây hấn thì có vẻ cần phải kiểm soát. Và khi trẻ em ủng hộ sự kiểm soát, người ta rất dễ rơi vào cái bẫy kiểm soát chúng, thứ về sau sẽ thành ra cản trở sự phát triển của trẻ. Lấy ví dụ về hai đứa trẻ cùng lớp - một hơi bị động hơn mức bình thường và một hơi chủ động hơn mức bình thường. Giáo viên của lớp học ấy có phong cách hơi nghiêng về phía kiểm soát một chút. Cô đối xử với hai học sinh này hơi khác nhau, kiểm soát hơn một chút với em đầu tiên, và khuyến khích tự chủ hơn với em còn lại. Vì cô nghĩ đứa trẻ đầu tiên cần được kiểm soát, trong khi đứa trẻ còn lại có khả năng tự chịu trách nhiệm cho bản thân hơn. Lẽ đương nhiên, hai bối cảnh tương tác khác biệt dành cho hai đứa trẻ của cùng một giáo viên trong một lớp học đã ảnh hưởng đến hai đứa trẻ theo những cách khác nhau. Vậy nên vào cuối năm học, những đứa trẻ này đã khác hơn so với đầu năm học. Đứa trẻ đầu tiên thụ động hơn, còn đứa trẻ thứ hai tự chủ hơn. Vị trí tương đối của chúng trên đường cong hình chuông đã thay đổi.
Trong quá trình phát triển, con người xây dựng những kỳ vọng về bối cảnh xã hội. Chẳng hạn, nếu một bé gái sống năm năm đầu đời trong một gia đình cực kỳ kiểm soát, cô bé có thể bước vào môi trường học đường với kỳ vọng ngôi trường đó cũng kiểm soát nghiêm ngặt, và ở một mức độ nào đó, cô bé sẽ hành động như thể nó là vậy.
Thử hình dung tình huống có hai người khác nhau làm cùng một công việc, với một người quản lý đối xử với họ giống hệt nhau. Tuy nhiên, những trải nghiệm của họ có thể khá khác nhau. Một nhân viên có thể xem cách cư xử của người quản lý là khuyến khích tự chủ, trong khi người kia lại thấy nó mang tính kiểm soát, bởi vì hai nhân viên này đối mặt với tình huống bằng những kỳ vọng và sự nhạy cảm khác nhau. Người đầu tiên có thể thấy hoàn cảnh hỗ trợ lựa chọn nên sẽ sử dụng thông tin liên quan từ tình huống để đưa ra các lựa chọn, trong khi người còn lại có thể phản ứng trước những bình luận như thể chúng chỉ mang tính chỉ trích và xử lý những lời đề nghị như thể chúng là những đòi hỏi vậy. Người đầu tiên sẽ hành động tự chủ hơn, còn người thứ hai sẽ phục tùng hoặc bất phục tùng.
Trên phương diện phát triển, những trải nghiệm xuất phát từ kỳ vọng khác nhau dựa trên các sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến việc một người trở nên tự chủ hơn, trong khi người khác lại dần bị kiểm soát, ngay cả khi cả hai người đang ở trong cùng một bối cảnh và được đối xử như nhau. Đương nhiên, bối cảnh (chẳng hạn giáo viên của họ) có thể không cư xử với hai người giống hệt nhau, nhưng tôi chỉ đơn giản nhấn mạnh rằng những kỳ vọng mang tính định kiến của con người sẽ ảnh hưởng đến cách họ diễn giải một môi trường xã hội, và do đó có thể tác động lên việc liệu họ có thể vượt lên chúng hay không. Nếu một người phát triển kỳ vọng về việc khuyến khích tự chủ, giống như Robert, thì trong cùng một tình huống họ có thể sống tốt hơn so với những người mang kỳ vọng khác.
Một đứa trẻ sinh ra trong một căn nhà nghèo nàn về cả mối quan hệ lẫn tiền bạc phải đối mặt với hàng loạt vấn đề lớn hơn so với một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình có hỗ trợ, nhưng một số cá nhân - như Abe Lincoln - đã vươn lên khỏi những hoàn cảnh có vẻ khốn khó này để hướng đến cuộc sống mẫu mực. Và giờ đây chúng ta đã có vài luận điểm để trả lời câu hỏi điều này xảy ra như thế nào. Đầu tiên, những cá nhân này có thể nằm trong số phần trăm hiếm hoi những đứa trẻ vượt xa mức độ trung bình về những đặc tính tâm lý (và có lẽ cả thể chất nữa) mà có thể góp phần phát triển theo những cách lành mạnh, tự chủ. Thứ hai, những cá nhân này có thể tìm được ai đó đặc biệt để cho họ sự ủng hộ mà họ cần. Thứ ba, họ có thể thật sự tác động đến những người trưởng thành lạnh lùng và kiểm soát trong đời để ít bị kiểm soát và lạnh lùng hơn đôi chút. Và, cuối cùng, họ có thể phát triển những kỳ vọng khiến họ diễn giải nhiều tình huống khác nhau thành sự khuyến khích tự chủ hơn là chúng thật sự như vậy.
Trong khi đúng là các môi trường xã hội - dù mang tính áp bức hay nuôi dưỡng - có tác động to lớn lên sự phát triển của trẻ em, thì mỗi quá trình trong bốn quá trình vừa được phác thảo ở trên sẽ bắt đầu với việc tác động đến cá nhân thay vì môi trường, và mỗi quá trình giúp giải thích cách con người có thể vượt trội bất chấp môi trường tương đối nghèo nàn, hoặc, khi những quá trình này vận hành theo hướng tiêu cực, nó tạo ra hệ quả thậm chí còn tệ hơn những gì ta nghĩ.
Việc nhận ra rằng con cái, học sinh, nhân viên và bệnh nhân của chúng ta có thể tác động đến cách chúng ta đối xử với họ đã làm nổi bật một thách thức quan trọng đối với chúng ta, với tư cách là phụ huynh, giáo viên, quản lý và người cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Thách thức ở đây là phải khuyến khích sự tự chủ ngay cả với những cá nhân buộc chúng ta phải kiểm soát họ. Chính những cá nhân thụ động, phục tùng hay ương bướng mới là những người cần một bối cảnh quan hệ cá nhân tối ưu - với sự kết nối, khuyến khích tự chủ, hay thiết lập giới hạn nhạy cảm - nhưng đây cũng là những cá nhân mà chúng ta phải rất khó khăn mới có thể trao cho họ bối cảnh đó.
Quá trình tương tác giữa con người với môi trường xung quanh sẽ tiếp diễn trong suốt cuộc đời. Con người đến với mỗi hoàn cảnh mới với những đặc tính và cách diễn giải duy nhất của riêng họ, thứ phần nào phát triển từ những tương tác với môi trường trong quá khứ và sẽ ảnh hưởng đến những tương tác trong tương lai. Những sự khác biệt cá nhân mà con người mang vào các tình huống mở ra một dự đoán nào đó về cách họ phản ứng với các tình huống, và cùng với đặc điểm của bản thân tình huống đó, chúng giải thích được khá nhiều điều về sự tương tác giữa con người với môi trường của họ.
Những khác biệt cá nhân về động lực
Richard Ryan và tôi, cùng nhiều cộng tác viên đã tiến hành một chương trình nghiên cứu dài hạn để tìm hiểu xem những khác biệt cá nhân về động lực của con người ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời họ. Chúng tôi luận ra rằng tất cả mọi người đều tự chủ ở một mức độ nào đó, đó chính là khía cạnh đã dẫn dắt con người tìm kiếm những bối cảnh khuyến khích tự chủ và tác động đến người khác để họ đối xử với mình theo cách khuyến khích tự chủ hơn. Tương tự như vậy, mỗi người cũng bị kiểm soát ở một mức độ nào đó (nghĩa là, phục tùng và/hoặc bất phục tùng) trong hành vi của họ, và khía cạnh đó khiến họ tìm kiếm hoặc tạo ra sự kiểm soát. Những vấn đề mà chúng tôi quan tâm có liên quan đến việc khuynh hướng tự chủ của cá nhân - đối lập với việc bị kiểm soát - có quan hệ thế nào với hàng loạt đặc tính và hành vi cá nhân.
Chúng tôi bắt đầu bằng việc phát triển một công cụ tâm trắc học (psychometric) để đo lường mức độ hướng đến tự chủ và hướng đến kiểm soát của con người. Chúng tôi phát hiện ra rằng những người thiên về tự chủ sẽ có lòng tự trọng và khả năng tự hiện thực hóa cao hơn. Họ cũng chứng tỏ sự hợp nhất trong tính cách lớn hơn. Nói cách khác, những người tự chủ hơn cho thấy sự cố kết giữa nhiều khía cạnh khác nhau trong tính cách của họ, cũng như giữa tính cách và hành vi. Thêm nữa, người có khuynh hướng tự chủ cao cũng có sức khỏe tinh thần tích cực và cho thấy sự hài lòng với các mối quan hệ liên cá nhân của mình hơn.
Khi đó, rõ ràng việc hướng về tự chủ được kết hợp với những khía cạnh tích cực của tính cách. Điều có lẽ thú vị hơn là phát hiện rằng một sự định hướng tự chủ mạnh sẽ khiến con người trải nghiệm các bối cảnh xã hội khuyến khích tự chủ nhiều hơn. Do đó, điều này khẳng định quan điểm thông qua hành vi và những kỳ vọng của mình, con người có thể tác động đến môi trường để nó trao cho họ điều họ cần nhiều hơn.
Điều quan trọng cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành là mức độ tự chủ, sáng tạo, sức sống, và động lực nội tại của con người được quyết định bởi sự tương tác giữa những tính cách riêng của họ (thứ mà chúng ta gọi là sự định hướng tự chủ) với mức độ khuyến khích tự chủ của bối cảnh xã hội. Mặc dù bối cảnh xã hội là cực kỳ quan trọng trong việc tác động đến động lực và hành vi của con người, nhưng tính cách của con người cũng tác động đến hành vi và động lực của họ. Hơn thế nữa, tính cách của con người cũng ảnh hưởng đến bối cảnh xã hội, để rồi đến lượt bối cảnh xã hội lại tác động lên họ.
Thúc đẩy sự phát triển của riêng một người
Tầm quan trọng của luận điểm này là rất lớn: Con người có thể tận dụng nó để thúc đẩy sự phát triển của chính mình. Quả vậy, ảnh hưởng của môi trường đối với con người có thể lớn hơn những gì họ vẫn nghĩ - nó diễn ra một cách tinh vi và sâu sắc. Sự thật là môi trường có thể hủy hoại động lực nội tại của con người, khiến họ bị động và tuân thủ ngay cả khi họ không nhận ra. Nhưng theo cách tương tự, con người có thể thay đổi tất cả những điều đó. Họ có thể bắt đầu hành động một cách tự chủ hơn. Họ có thể tìm ra những gì họ cần cho bản thân và họ có thể bắt đầu tác động lên thế giới để đạt được chúng.
Thay vì chờ đợi thế giới trao những gì mình muốn, con người có thể chủ động hơn trong việc làm cho mọi thứ diễn ra vì lợi ích của chính họ. Họ có thể khiến quá trình tương tác diễn ra vì họ bằng cách hành xử tự chủ hơn. Họ có thể nhận được ngày càng nhiều sự khuyến khích từ bối cảnh xã hội để trở nên càng tự chủ hơn. Tính cách của họ và những bối cảnh xã hội sẽ hợp lực và cùng nhau tác động lên hành động lẫn trải nghiệm của con người.
Vài năm trước, tôi từng làm cố vấn cho một công ty ở khu vực San Francisco. Phong cách làm việc của quản lý cao nhất ở đó là kiểm soát và tám người quản lý dưới quyền anh ta hoàn toàn không hạnh phúc. Khi tôi gặp riêng mỗi người, họ than phiền rất nhiều về vị quản lý, nhưng họ đều rất thụ động và chẳng làm gì về điều đó cả. Không ngạc nhiên khi những người quản lý này phản ứng với phong cách kiểm soát của cấp trên bằng cách kiểm soát chính đội ngũ của mình, nên sự khốn khổ của họ lan tới khoảng một trăm người mà họ quản lý. Đây là một khuôn mẫu quen thuộc.
Tôi đã tập trung cao độ vào tám người quản lý này. Chúng tôi cũng dành thời gian tìm hiểu những cách để họ có thể khuyến khích tự chủ với nhóm làm việc của họ hơn. Nhưng quan trọng hơn cả là chúng tôi nghiên cứu về những cách họ có thể tự thỏa mãn nhu cầu của chính mình. Rõ ràng rằng nếu bản thân những người quản lý không cảm thấy mình có năng lực, tự chủ, và kết nối với những người khác, họ sẽ không thể khuyến khích tự chủ và để tâm đến cấp dưới của mình. Điều đó hiển nhiên đồng nhất với luận điểm chúng tôi đã xác nhận về các giáo viên trong nghiên cứu cho thấy họ bị áp lực bởi yêu cầu phải đảm bảo học sinh thể hiện được những tiêu chuẩn cao. Họ trở nên kiểm soát và đánh giá khắt khe với học sinh của mình hơn - trái ngược với những gì lẽ ra sẽ là tốt nhất cho học sinh và cho chính bản thân họ.
Với tôi, rõ ràng là những người quản lý của công ty ở Vùng Vịnh đó phải học cách “sử dụng” nhau - để đòi hỏi từ nhau, và để trao cho nhau. Và đó là những gì đã diễn ra. Sau vài tháng thực hiện những buổi gặp mặt định kỳ với họ, tôi để ý rằng cửa văn phòng của họ để mở nhiều hơn. Họ dành nhiều thời gian kết nối với nhau, hỗ trợ nhau và cùng nhau làm việc để giải quyết vấn đề. Họ đã phá vỡ sự cô lập vốn là đặc tính của nhóm quản lý trước đó. Khi bắt đầu kết nối với nhau một cách khác biệt, hỗ trợ cho nhau, họ cũng khuyến khích tự chủ hơn với các nhóm làm việc của mình, hướng đến một tinh thần tích cực hơn trong cả công ty.
Nhưng sự thay đổi trong cách những người quản lý này kết nối với những người ngang hàng hay với cấp dưới chỉ là một phần của sự thay đổi chung đã diễn ra. Thêm vào đó, họ học cách quản lý người quản lý của họ. Trong vài tháng ấy, người quản lý cấp cao đã hiểu thêm được rằng anh ta đang đòi hỏi và khắt khe như thế nào với những người làm việc cho mình, và điều đó đưa đến một số kết quả tích cực. Nhưng đối với tôi, những kết quả tích cực được sinh ra từ những thay đổi trong nhóm tám người quản lý cấp dưới thậm chí còn nhiều hơn. Những người quản lý này bắt đầu cư xử với cấp trên của họ khác đi và điều này thật sự tạo nên khác biệt. Họ yêu cầu từ anh ta những gì họ cần, thay vì chờ đợi và hờn dỗi vì phải chờ quá lâu. Họ bắt đầu thể hiện bất đồng với anh ta một cách tế nhị và mang tính xây dựng, thay vì cứ tiếp tục nói “Vâng, thưa sếp” rồi uất ức bỏ đi. Họ đã học được cách đọc tâm trạng của anh ta nên có thể tiếp cận anh khi cơ hội được đáp ứng là cao nhất. Và họ học được cách hỗ trợ anh ta nên anh ta cũng đáp lại.
Trong một chuyến nghỉ dưỡng cùng nhóm quản lý, tôi đã động viên họ đưa ra những phản hồi tích cực cho nhau ngay tại buổi họp nhóm. Thoạt đầu họ thấy việc đó rất khó khăn - không phải vì họ không nghĩ ra điều gì để nói mà vì họ không quen với quá trình đưa ra những phản hồi tích cực trong đội ngũ quản lý. Nhờ rèn luyện, mọi thứ đã trở nên dễ dàng hơn, và một phần trong những điều họ học được về “quản lý người quản lý của mình” chính là việc cung cấp cho anh ta những phản hồi tích cực sẽ rất hữu ích.
Dần dần, những người quản lý phát hiện ra rằng khi họ giúp đỡ cấp dưới nhiều hơn thì những người ngang hàng với họ và cả cấp trên cũng sẽ giúp đỡ họ nhiều hơn. Một sự hợp lực quả thật đã phát triển, và sự thay đổi trong hành vi của tám người quản lý là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến hiệu ứng tích cực đó. Nó lan tỏa theo cả hai hướng, với những kết quả khả quan cho toàn bộ công ty.
Quản lý trải nghiệm của riêng mình
Tự chủ bất chấp hoàn cảnh mang tính kiểm soát không chỉ liên quan đến việc làm chủ môi trường xung quanh. Hơn thế, nó là sự kiểm soát bản thân và trải nghiệm sâu bên trong chính mình. Nó bao gồm việc phát triển những quy trình để kiểm soát các cảm xúc lẫn thôi thúc bên trong và tìm cách để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Cảm xúc của con người là một nguồn năng lượng mạnh mẽ cho hành động. Khi tức giận hay hoảng sợ, con người đều có một nguồn năng lượng khổng lồ. Có đầy rẫy những câu chuyện về những người bị kẹt dưới ô-tô hay đống gạch vụn đã tự thoát ra được. Khi người ta cảm thấy những cảm xúc mãnh liệt, họ sẽ có một nguồn năng lượng đáng kinh ngạc. Con người thậm chí còn nói rằng họ không thể kiểm soát chính mình khi có những cảm xúc mãnh liệt.
Thiết lập các cấu trúc và quy trình cần thiết để kiểm soát cảm xúc một cách hiệu quả là thách thức chính trong quá trình phát triển của tất cả mọi người. Một số người thành công hơn những người khác trong việc chinh phục thách thức này chắc chắn, phần nào, là vì họ được nuôi dạy tích cực hơn. Những người đã thành công có thể cảm nhận cảm xúc của họ một cách trọn vẹn trong khi vẫn đồng thời trải nghiệm một sự lựa chọn chân thực về cách thể hiện chúng. Tuy nhiên, những người thất bại trong việc chinh phục thử thách này sẽ có kết cuộc hoặc là đè nén cảm xúc để không phải cảm nhận gì hoặc là sẽ bị cảm xúc lấn át hoàn toàn.
Tôi biết một người đàn ông dường như không bao giờ cảm nhận được bất kỳ thứ cảm xúc nào, luôn cư xử như thể chẳng có gì xảy ra kể cả khi anh ta bị chọc tức. Anh ta thấy hãnh diện về bản thân mình vì đã mạnh mẽ. Anh ta đè nén cảm xúc của mình với các cấu trúc quy tắc cứng nhắc mà anh ta đã nội nhập trong quá trình trưởng thành. Anh ta là đại diện cho mẫu người khá đối lập với những người dường như luôn thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ mà tôi biết. Những người này không thể phát triển các cấu trúc quy tắc thích đáng để kiểm soát việc thể hiện cảm xúc của mình nên họ thường bị chúng lấn át. Không trường hợp nào trong số này đại diện cho quy tắc về cảm xúc tối ưu và cho hoạt động tự chủ liên quan đến cảm xúc.
Cảm xúc là những phản ứng đáp lại tác nhân kích thích thực tế hay tưởng tượng trong tình cảnh hiện tại hoặc trong ký ức. Một nắm đấm dứ về phía bạn, một bình luận về việc bạn xinh thế nào, hay một chiếc xe phóng ra trước mặt bạn là những tác nhân kích thích có thể dẫn đến trải nghiệm một cảm xúc. Ký ức đứng trên bãi biển trong kỳ trăng mật hay ký ức bị bắt nạt ở trường cũng có thể đưa đến trải nghiệm như vậy.
Tuy nhiên, những tác nhân kích thích tạo nên phản ứng cảm xúc của con người lại không mang ý nghĩa phổ quát. Con người gán những ý nghĩa của riêng họ cho tác nhân kích thích mà họ gặp phải và những ý nghĩa được truyền đi bởi hai người bất kỳ nào đó có thể rất khác nhau. Một tác nhân kích thích có thể khiến người này cảm nhận được niềm vui, nhưng lại khiến người khác cảm thấy giận dữ do ý nghĩa mà mỗi người gán cho nó. Những ý nghĩa này bắt nguồn từ việc tác nhân kích thích liên quan như thế nào với nhu cầu, ước muốn và kỳ vọng của con người.
Một người bạn của tôi, Jim Astman, đã từng viết một bài hát cho em gái anh khoảng một năm trước, khi cô bé, như hầu hết mọi đứa trẻ, bị “những con quái vật” làm phiền. Trong bài hát của mình, anh đã khuyên cô bé “biến con quái vật thành người bạn thân nhất của em”. Thông điệp ở đây rất đơn giản: Những con quái vật không thể hù dọa bạn nếu bạn không xem chúng là những thứ đáng sợ.
Chỉnh đốn cảm xúc của một người
Quá trình truyền ý nghĩa cho các tác nhân kích thích gợi ra cảm xúc bao gồm hai phần, do nhà tâm lý học Magda Arnold chỉ ra. Khi con người gặp phải các tác nhân kích thích cụ thể, họ sẽ trực cảm được một ý nghĩa gần như tức thời và có một khuynh hướng sẵn có để hồi đáp những ý nghĩa trực cảm cụ thể theo những cách cụ thể. Chẳng hạn, một vật thể đang lao ào ào về phía một bên đầu, bạn gần như chắc chắn sẽ nhận ra bằng trực giác đó là một hiểm họa và adrenaline tăng lên tức thì, cùng những cảm xúc sợ hãi xen lẫn tức giận. Khuynh hướng né tránh và tấn công tồn tại cùng lúc trong hệ thống thần kinh của chúng ta.
Nhưng sự hồi đáp bằng trực giác tức thời chỉ là bước đầu tiên. Sau đó, bạn bước vào quá trình suy ngẫm nhiều hơn để chịu đựng, suy nghĩ về những gì đang xảy ra. Bạn có thể nhận ra rằng vật thể đó sẽ không va vào bạn mà chỉ là một con mòng biển bay qua, hướng về thứ đồ ăn mà ai đó đã vứt trên mặt đất sau lưng. Khả năng suy nghĩ thận trọng của bạn có thể điều chỉnh cách diễn giải tức thời mà bạn đã đặt ra cho một tác nhân kích thích, và cảm xúc bạn trải nghiệm sẽ thay đổi khi ý nghĩa thay đổi. Nỗi sợ và sự giận dữ của bạn sẽ tan biến khi bạn đánh giá lại những gì đang thật sự diễn ra.
Chính quá trình đánh giá lại - sự đánh giá mang tính suy xét nhiều hơn - cho con người sức mạnh vượt lên cảm xúc của họ, và đây cũng là quá trình mà Jim Astman đã nhấn mạnh trong bài hát của anh. Quá trình gán cho tác nhân kích thích những ý nghĩa ít đe dọa hơn có thể là một công cụ rất mạnh cho sự tự chỉnh đốn, nhưng không may là không phải lúc nào ta cũng đạt được điều đó dễ dàng. Bạn phải nỗ lực thực hiện nó.
Một lý do khiến con người diễn giải nhiều sự kiện như những mối đe dọa chính là vì họ đã phát triển những ràng buộc với cái tôi. Như đã nói, bị ràng buộc với cái tôi nghĩa là những cảm xúc của con người về giá trị bản thân sẽ tùy thuộc vào một kiểu kết quả nào đó. Họ có thể phải được nhìn nhận là thông minh mới cảm thấy mình có giá trị, hoặc phải được xem là nữ tính, mạnh mẽ, nghệ sĩ hay đẹp trai. Con người có thể bị ràng buộc với cái tôi trong mọi thứ, và khi họ trở nên cực kỳ cứng nhắc và kiểm soát chính mình, họ sẽ tỏ ra thông minh, nữ tính, hoặc tương tự vậy. Và khi bị ràng buộc với cái tôi, họ sẽ dễ dàng bị người khác đe dọa.
Sự ràng buộc với cái tôi biến người ta thành con tốt cho những cảm xúc của chính họ. Nếu ai đó cần được nhìn nhận là mạnh mẽ mới cảm thấy mình có giá trị thì việc bị gọi là kẻ yếu đuối sẽ đe dọa đến giá trị bản thân của họ và khiến họ phẫn nộ. Sự tức giận bắt nguồn từ việc diễn dịch một lời bình luận thành mối đe dọa, nhưng lời bình luận chỉ trở thành mối đe dọa khi giá trị bản thân của con người bị mắc kẹt với việc phải được xem là mạnh mẽ. Con người có thể tự hỏi: “Được nhìn nhận là mạnh mẽ (nữ tính, sáng tạo, thông minh, hay đại loại vậy) có thật sự quan trọng hay không?”. Liệu điều đó có thật sự đáng để dốc tâm bồi đắp, và có thể nào cư xử theo những cách này họ sẽ hối tiếc về sau không? Thật thú vị khi nhận ra rằng thông qua việc bị ràng buộc với cái tôi, con người đã trao cho người khác một thứ vũ khí. Và những người khác sẽ nhanh chóng học được cách sử dụng nó.
Chẳng có gì đe dọa đến cái tôi nếu con người không tự diễn dịch nó như vậy - nếu họ không đe dọa cái tôi của họ với điều đó. Đương nhiên, một số thứ nhìn chung gây tổn thương nhiều hơn những thứ khác, và có lẽ ta khó lòng không hiểu một lời nhục mạ có chủ đích như là một mối đe dọa, nhưng dù sao thì con người cũng có thể trở nên thuần thục hơn trong việc không diễn giải các tác nhân kích thích là những mối đe dọa. Nếu không có hệ quả thực tế nào gắn với một lời xúc phạm, như là bị chối bỏ, bị bỏ rơi, bị sa thải, thì người ta có thể học cách hiểu lời xúc phạm đó như là sự công kích của người nói và không cảm thấy bị đe dọa, kể cả nó có khiến ta đau đớn ít nhiều. Bằng việc học cách diễn dịch các tác nhân kích thích khác đi, con người có thể dần kiểm soát những cảm xúc của bản thân thuần thục hơn.
Một phần trong cách để con người vượt lên trên hoàn cảnh chính là để tâm đến những ràng buộc cái tôi của họ, để bắt đầu khám phá xem điều gì đang khiến họ bị cuốn theo. Khi đó họ có thể tự hỏi mình rằng liệu có thật sự cần thiết để gây áp lực và kiểm soát bản thân họ theo cách đó hay không. Bằng cách khám phá những ràng buộc cái tôi của mình, con người có thể tìm ra những cách để ít phản ứng, ít bị kiểm soát và trông như một con tốt hơn. Bằng cách khám phá những ràng buộc cái tôi và cách chúng tác động đến sự diễn dịch mà họ gán cho những tác nhân kích thích, con người có thể tăng khả năng quản lý cảm xúc của mình mà không đè nén chúng - và họ có thể trở nên tự chủ hơn.
Chỉnh đốn hành vi của một người
Chỉnh đốn những cảm xúc của một người bằng cách thay đổi sự diễn giải mà họ gán cho các tác nhân kích thích khơi gợi cảm xúc chỉ là một trong hai bước cần thiết để trở nên hợp nhất và tự chủ hơn về mặt cảm xúc - và trong quá trình này, cho bản thân một phương tiện để vượt lên những tác động mang tính kiểm soát. Cách còn lại liên quan đến việc gia tăng nhiều tính linh hoạt về mặt điều chỉnh những hành vi mà cảm xúc con người thúc đẩy.
Các cảm xúc đều có những khuynh hướng hành vi cụ thể gắn chặt với chúng, những thứ chắc chắn còn sót lại từ giai đoạn đầu của lịch sử tiến hóa. Các khuynh hướng này - như động tay động chân khi tức giận, trốn chạy khi sợ hãi, hay đến gần khi thấy vui - có thể xảy ra gần như tự động, như một cách biểu hiện cảm xúc. Nhưng con người có khả năng kiềm chế sự thôi thúc này và quyết định cư xử như thế nào.
Trở nên tự chủ bao gồm việc phát triển các quá trình chỉnh đốn được tích hợp để kiểm soát hành vi khi cảm xúc bị kích thích. Khi làm như vậy, con người có thể trải nghiệm sự lựa chọn đích thực liên quan đến hành vi của mình khi họ giận dữ, phẫn nộ hay vui vẻ. Họ có thể chọn nói về nó, hoặc không; họ có thể chọn cách kéo dài nó, hoặc không; họ có thể chọn giải quyết vấn đề, hoặc không; hoặc họ đơn giản có thể chọn cách rời khỏi hiện trường. Ở mức độ mà con người đã hợp nhất đối với một cảm xúc, họ sẽ thấy được cảm giác tự do trong cách hành xử. Cảm xúc không quyết định hành vi, thay vào đó, nó là một mẩu thông tin liên quan đến quá trình chọn lựa cách cư xử. Hành vi sẽ được chọn lựa dựa trên việc nhận thức về cảm xúc và cân nhắc những mục tiêu họ muốn đạt được. Khi con người tự chủ, họ sẽ cho phép mình trải nghiệm cảm xúc một cách trọn vẹn và họ sẽ cảm thấy tự do trong việc quyết định cách thể hiện chúng.
Ngược lại, khi hành vi do cảm xúc thúc đẩy bị kiểm soát bởi các quá trình điều chỉnh đã được nội nhập, thì khi trải nghiệm cảm xúc cụ thể đó con người sẽ hành xử theo những cách được lập trình, cứng nhắc. Chẳng hạn, khi thấy tức giận, một sự nội nhập có thể thúc ép con người phải trừng trị những ai chọc giận họ. Sự nội nhập đó có thể nói rằng: “Đó là cách bạn giữ thể diện”. Hoặc theo cách khác, nó có thể ép người ta không để cho người khác biết họ đang giận dữ.
Cực đoan hơn, một số nguyên tắc nội nhập thậm chí khiến con người kìm nén toàn bộ cảm xúc của bản thân. Một người quen của tôi có vẻ là ví dụ điển hình cho điều này - người này dường như chưa bao giờ bận tâm đến bất kỳ điều gì. Tuy nhiên, sự kìm nén đã can thiệp vào các diễn trình sinh học tự nhiên và có thể dẫn đến những hậu quả kinh khủng. Cảm xúc của chúng ta là một người đưa tin quan trọng. Chúng nói với ta rằng ta đang - hoặc không - nhận được điều gì đó chúng ta cần. Chẳng hạn như, cảm xúc sợ hãi hay giận dữ có thể ngụ ý rằng chúng ta nghĩ mình sẽ không nhận được điều mà bản thân mong muốn, khao khát hay cần.
Bằng cách sử dụng cảm xúc như một gợi ý, con người có thể tự hỏi bản thân hai câu hỏi quan trọng. Đầu tiên, “tôi đang không có được điều gì?”. Và thứ hai, “tôi có thật sự cần nó không?”. Cảm xúc cho thấy sự khác nhau giữa tình trạng hiện tại của con người và một vài tiêu chuẩn họ đang theo đuổi. Điều này có nghĩa là nó sẽ hữu dụng cho họ trong việc tìm cách nhận được những gì họ muốn (chẳng hạn như sự khuyến khích tự chủ từ người khác nhiều hơn hay những mối quan hệ liên cá nhân khiến ta hài lòng hơn), hoặc nó có thể ngụ ý rằng những mong muốn hay khát khao họ đang ấp ủ là không cần thiết hay vô lý. Những ràng buộc của cái tôi là một ví dụ cho những tiêu chuẩn không cần thiết mà con người đang giữ lấy.
Một chuẩn mực khác hạn chế sự tự chủ và trải nghiệm cuộc sống mà một số người đang theo đuổi là niềm tin rằng tất cả những gì họ muốn trong đời là được hạnh phúc. Đó là một phát biểu mơ hồ, nhưng lại là thứ làm nên những cái kết cổ tích. Thực tế, hạnh phúc không tuyệt vời như những gì người ta nói và dẫu sao thì hầu hết mọi người đều không thật sự mong muốn lúc nào mình cũng phải hạnh phúc. Con người thường chọn xem những bộ phim hay những vở opera khiến họ cực kỳ bất an - khiến họ khiếp sợ, đau buồn, phẫn nộ hay tức giận với chúng. Việc người ta bị cuốn hút bởi trải nghiệm những cảm xúc này có một ý nghĩa nào đó - dù là trong một nhà hát thoải mái và an toàn hay trên một con đèo nguy hiểm của Himalayas. Họ tìm kiếm nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau - cả cái được gọi là tiêu cực cũng như cái được cho là tích cực. Sự kinh hoàng không phải là hạnh phúc. Nỗi buồn, sự phẫn nộ hay tức giận cũng không. Và thật vô lý khi nói rằng việc cảm thấy tức giận hay phẫn nộ khiến ai đó hạnh phúc. Hạnh phúc đơn giản là một khái niệm sai lầm đối với những gì nằm trong bản chất của con người, những gì họ tìm kiếm và những gì thúc đẩy sự phát triển của con người.
Khi con người chỉ muốn hạnh phúc, họ có thể thật sự hủy hoại sự phát triển của chính mình, bởi vì cuộc truy tìm hạnh phúc có thể khiến họ đè nén những khía cạnh khác của trải nghiệm. Mong mỏi hạnh phúc có thể làm cho người ta né tránh (tức là đè nén) nỗi buồn khi một người họ yêu thương qua đời, hay né tránh nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với hiểm nguy. Ý nghĩa đích thực của việc sống không chỉ là để cảm thấy hạnh phúc, mà còn để trải nghiệm mọi cung bậc cảm xúc của con người. Chừng nào việc kiếm tìm hạnh phúc còn cản trở việc trải nghiệm các cảm xúc khác, thì hệ quả tiêu cực còn có khả năng xảy ra.
Hợp nhất và tự chủ có nghĩa là cho phép bản thân cảm nhận các cảm xúc - tất cả các cảm xúc - rồi quyết định xem phải làm gì với chúng. Tuy nhiên, nó chỉ hữu ích trong việc giúp ta phân biệt các cảm giác chừng nào các cảm xúc còn “thuần khiết”. Có những cảm xúc cơ bản là cốt lõi của trải nghiệm con người, như vui vẻ, buồn rầu, hào hứng, giận dữ, và cũng có những cảm xúc phủ một lớp vỏ nhận thức bên ngoài. U uất không phải là một cảm xúc thuần khiết. Nó thường bị nhầm lẫn với nỗi buồn nhưng hai thứ thật ra hoàn toàn khác nhau. Nỗi buồn thì thuần khiết, và khi một người cảm thấy buồn, họ đang được nó nuôi dưỡng. Còn u uất chỉ chất chứa sự tự hạ thấp, lo âu và hồ nghi. U uất không hề mang tính nuôi dưỡng; nó khiến ta hoang mang và kiệt sức. Nó mang tính không thích nghi.
Tự phụ, theo một nghĩa nào đó, cũng giống như u uất. Trong khi u uất là kết quả của thất bại và mất mát khi một người nội nhập các tiêu chuẩn, thì tự phụ chính là kết quả của việc đáp ứng được những tiêu chuẩn đó. Tự phụ, cũng như u uất, đều không thuần khiết. Nó được bao phủ bởi sự kiêu căng về bản thân và hạ thấp giá trị của những người khác. Nó không hề nuôi dưỡng nhận thức đúng đắn về bản ngã của người đó.
Cuộc sống đầy những trải nghiệm đa dạng. Con người thành công và thất bại, họ xây dựng các mối quan hệ và cũng đánh mất người mà họ yêu thương. Và trong khi con người hiển nhiên không chọn lựa thất bại hay mất đi người họ yêu, thì trải nghiệm những cảm xúc thuần khiết đi kèm các trải nghiệm này là cần thiết để tạo ra sự điều chỉnh tối ưu cho những thay đổi trong cuộc sống. Tự chủ bao hàm việc cho phép người ta trải nghiệm những cảm xúc của họ một cách trọn vẹn, và việc trải nghiệm cảm xúc có thể là một trong những yếu tố thực tế nhất và hài lòng nhất của việc được sống. Tự chủ không có nghĩa là ngăn chặn việc nhận thức những cảm xúc chỉ vì những lời khuyên răn đã được nội nhập, cũng không có nghĩa là để cho chúng lấn át ta. Nó có nghĩa là trải nghiệm chúng một cách trọn vẹn và cảm nhận được ý nghĩa của việc lựa chọn cách thể hiện chúng.
Lợi ích của các phương pháp
Trên chuyến bay gần đây khởi hành từ London, tôi đã được một tiếp viên hàng không trẻ dễ tính và vui vẻ phục vụ một ly nước giải khát. Anh ta đeo một vòng tay cao su ở cổ tay phải. Tôi đùa: “Vòng đẹp đấy”, nhưng thực tế tôi đã tự hỏi là liệu có phải anh ta đang dùng nó như một phương pháp sửa đổi hành vi hay không. Có một phương pháp tự trừng phạt bản thân như vậy, mỗi khi bạn cảm thấy một sự thôi thúc hay một suy nghĩ ám ảnh nào đó, bạn sẽ cắn vào vòng dây cao su. Nó có thể làm bạn đau, nhưng mục đích của nó chính là đập tan khuôn mẫu suy nghĩ hay vượt qua sự thôi thúc bằng cách liên kết nó với một tác nhân kích thích gây khó chịu.
Khi đề cập đến các vấn đề về động lực, con người dường như luôn cần những phương pháp để thúc đẩy và kiểm soát bản thân. Lời hô hào trên trang bìa những quyển sách tự lực hay nhất là những tuyên ngôn về “Phương pháp thúc đẩy bản thân mới nhất”, hay “Các phương pháp đã cho thấy hiệu quả”. Nhưng sự thật là chẳng có phương pháp nào thúc đẩy con người hay làm cho họ tự chủ cả. Động lực phải xuất phát từ bên trong, chứ không phải từ những phương pháp. Nó xuất phát từ việc người ta quyết định rằng họ đã sẵn sàng để chịu trách nhiệm cho việc kiểm soát bản thân.
Khi con người thật sự sẵn sàng thay đổi vì những nguyên nhân cá nhân, khi họ sẵn lòng đối mặt và đương đầu với vô vàn cảm xúc - lo âu, không xứng, giận dữ, khiếp sợ hay cô đơn - ẩn dưới những hành vi không thích ứng, thì họ sẽ có động lực để thay đổi. Một khi điều đó xảy ra, các phương pháp khác nhau có thể sẽ hữu ích cho họ, nhưng nếu không có một quyết tâm đích thực, không có lý do thay đổi về mặt cá nhân thật sự quan trọng, thì các phương pháp sẽ chẳng giúp được gì. Khi con người đặt hết lòng tin vào phương pháp, tin rằng nó sẽ thay đổi họ, thì họ đang thể hiện một nhận thức về nhân quả nằm bên ngoài hơn là bên trong; họ đang có một niềm tin lệch lạc rằng thay vì tự chủ, bị kiểm soát mới là phương tiện mang lại sự thay đổi cá nhân có ý nghĩa.
Trước tiên cá nhân đó phải có khao khát thay đổi sâu sắc. Khi đó thì hẳn một phương pháp có thể giúp đỡ họ đôi chút. Tôi có quen một người bạn lớn tuổi. Ông là một người có hệ thống, trong hầu hết mọi việc ông làm. Tôi nhớ thời điểm ông bỏ hút thuốc, ông đã thực hiện theo từng bước mà chúng tôi lên kế hoạch sẵn. Trước đó ông hút đến hai gói thuốc mỗi ngày, và ông quyết định sẽ dành ra năm tháng để cai. Thế là ông lập ra những mục tiêu; tháng đầu tiên hút ba mươi điếu mỗi ngày; tháng thứ hai hút hai mươi điếu mỗi ngày; tháng thứ ba còn mười điếu mỗi ngày; tháng thứ tư hút năm điếu mỗi ngày; và trong tháng cuối cùng còn hút thuốc, ông nói, ông sẽ chỉ hút hai điếu mỗi ngày - một sau bữa trưa và một sau bữa tối. Vào cuối tháng thứ năm, đúng theo lộ trình, ông đã rất kiên quyết và không bao giờ đụng vào điếu thuốc một lần nào nữa. Ông thề rằng sự thỏa mãn của việc đạt được những mục tiêu là phần thưởng duy nhất ông cần. Và đúng là ông đã làm được, bảy năm về trước, và kể từ đó ông không còn hít một hơi thuốc nào nữa.
Phương pháp đặt ra mục tiêu phù hợp với tính cách của ông ấy, vậy nên đó là cách ông tiến hành. Nó là phương pháp hữu hiệu với ông. Nhưng nhiều người cũng đã sử dụng phương pháp này và thất bại thảm hại. Không phải phương pháp đó giúp người đàn ông ngừng hút thuốc; mà chính động lực có tính tự chủ của ông ấy. Một số người hạ quyết tâm bỏ thuốc thấy việc bỏ ngay lập tức là dễ dàng hơn, thế nên việc đề ra các mục tiêu giảm dần lượng nicotine sẽ là phương pháp không hiệu quả với họ. Việc sử dụng các phương pháp chỉ có ích khi nó đúng với một người, và chỉ khi người đó đưa ra một lựa chọn thay đổi thật sự. Người ta có thể cắn vào cổ tay đeo chiếc vòng cao su khi họ thèm một điếu thuốc nếu đó là phương pháp thu hút họ. Họ có thể tự thưởng cho mình những món quà nho nhỏ khi họ đạt được các tiêu chuẩn nếu phương pháp đó có vẻ phù hợp với họ. Họ có thể tạo ra một phương pháp cho riêng mình, nếu muốn sử dụng một phương pháp nào đó. Nhưng nếu họ không thật sự sẵn sàng thay đổi, thì chẳng có lý gì phải bận tâm về một phương pháp bởi vì nó rồi cũng sẽ thất bại.
Chấp nhận chính mình
Điểm khởi đầu cho sự thay đổi chính là chấp nhận chính mình và thế giới nội tâm của mình. Người ta có thể tự hỏi: “Tại sao tôi lại ăn quá nhiều? Tại sao tôi lại quát vợ mình? Tại sao tôi lại dành quá ít thời gian cho các con? Tại sao tôi quá phụ thuộc vào thuốc lá?”. Ngay từ đầu, con người thực hiện những hành vi này - có lẽ là nhiều năm hay thậm chí hàng chục năm trước - bởi vì những hành vi đó là giải pháp tốt nhất họ có thể tìm ra để đương đầu với một tình cảnh khó khăn.
Tìm hiểu lý do khiến người ta làm việc gì đó có thể là một khởi đầu hữu ích nhưng nó không nên là cái cớ để ta đổ lỗi. Quá trình thay đổi trở nên dễ dàng hơn nhờ nhận thức được lý do tại sao con người đang thực hiện những hành vi không thích ứng, tương tự như vậy, quá trình sẽ bị cản trở bởi việc đổ lỗi về hành vi đó cho bản thân hay cho người khác. Khi con người thật sự quan tâm đến lý do tại sao họ làm một việc gì, và cá nhân họ cam kết tạo ra một sự thay đổi, thì việc đổ lỗi là không thích đáng. Họ có thể sẽ nhận ra rằng họ ăn quá nhiều bất cứ khi nào họ sợ thất bại trong một dự án công việc. Đó là một phát hiện thú vị. Và nó giúp họ tìm ra cách kiểm soát sự lo âu theo những cách ít tự hủy hoại bản thân hơn. Nhưng đổ lỗi cho bản thân vì ăn quá nhiều hay vì không thể kiểm soát nỗi sợ thất bại sẽ chỉ cản trở sự thay đổi mà thôi. Hãy nhớ những gì Charlotte Selver từng nói: “Dám béo. Quan tâm đến lý do vì sao bạn béo. Và rồi bạn sẽ sẵn sàng để gầy”.
Một người đàn ông có thể nhận ra rằng anh ta quát mắng vợ vì anh ta không biết cách (hoặc sợ) chia sẻ một số cảm xúc thầm kín hay bí mật với vợ. Anh ta quát nạt để giữ khoảng cách với vợ - để bảo vệ bản thân. Phát hiện đó cũng rất thú vị, và nó chính là bước đầu tiên trong việc tìm ra cách chia sẻ về bản thân nhiều hơn, cách để mở lòng và để nhạy cảm hơn. Việc đó có thể không dễ dàng gì, nhưng nó có khả năng giúp ta thỏa mãn hơn.
Những thay đổi có ý nghĩa xuất phát từ sự sẵn sàng về mặt sinh học. Nó xuất hiện khi con người cảm thấy đã đến lúc thay đổi, khi họ sẵn sàng đưa ra một cam kết cho từng khoảnh khắc. Áp lực chẳng giúp ích được gì; thật ra, nó cũng giống như việc đổ lỗi cho bản thân, chỉ có khả năng làm họ tổn thương. Khi con người thấy áp lực, họ sẽ tuân thủ hoặc bất tuân. Sự tuân thủ tạo ra những thay đổi không thể duy trì, và sự bất tuân sẽ ngăn chặn thay đổi ngay từ đầu. Sự thay đổi có ý nghĩa sẽ xảy ra khi con người chấp nhận bản thân mình, quan tâm đến lý do vì sao họ làm những gì họ làm và quyết định rằng họ đã sẵn sàng để khác đi.