Khi phải đấu tranh để vượt qua những căng thẳng và áp lực trong cuộc sống, nhiều người bị đẩy đến chỗ hành động một cách vô trách nhiệm. Họ oán giận và trở nên tha hóa, điều đó thể hiện bằng vô vàn cách khác nhau. Bạo lực đã trở thành chuyện thường tình trong các gia đình và trên đường phố. Kiểu cư xử bạo lực tồi tệ tràn lan ở trường học. Giao dịch nội gián và thao túng giá cả dường như lại là chuẩn mực. Béo phì và chứng biếng ăn đang ở mức độ gần như trở thành một dịch bệnh. Và người ta phải đối mặt với những khoản nợ kếch xù.
Chắc chắn rằng, các cá nhân phải trả giá đắt cho sự vô trách nhiệm của họ nhưng những người thân thiết nhất với họ cũng vậy. Sự vô trách nhiệm của cha mẹ khiến con cái phải trả giá, sự vô trách nhiệm của các nhà quản lý, bác sĩ và giáo viên khiến cho nhân viên, bệnh nhân và học sinh phải trả giá. Bởi vì không thể đối phó với những căng thẳng và áp lực trong cuộc sống riêng một cách hiệu quả, các cá nhân đã làm tăng thêm căng thẳng và áp lực lên cuộc sống của những người khác.
Hiện nay, nhiều người không thể chịu đựng tình cảnh này thêm nữa. Họ cảm thấy như thế giới đang dần mất kiểm soát và họ đã chán ngấy. Họ muốn thẳng tay trừng trị, thi hành kỷ luật, buộc những người xung quanh hành xử tốt hơn. Họ đồng tình với những nhà văn và chính trị gia, những người kêu gọi trách nhiệm, những người nhìn vấn đề trên phương diện đạo đức, những người nói rằng đã đến lúc phải thắt chặt kiểm soát.
Kiểm soát là một câu trả lời dễ dàng. Nó giả định rằng lời hứa khen thưởng hay sự đe dọa trừng phạt sẽ khiến những kẻ phạm tội phải tuân thủ. Và điều đó nghe có vẻ cứng rắn, vậy nên nó tạo cảm giác yên lòng cho những người tin rằng mọi thứ đã trở nên sai lệch nhưng không có thời gian lẫn năng lượng để nghĩ về những vấn đề này - huống hồ là ra tay làm gì đó.
Tuy nhiên, bất chấp sự hấp dẫn của việc kiểm soát, người ta ngày càng thấy rõ sự thật rằng phương cách này đơn giản là không hiệu quả. Nỗ lực áp đặt kỷ luật nghiêm khắc phần lớn không có tác dụng, và việc phụ thuộc vào thưởng-phạt để thúc đẩy trách nhiệm đang lan rộng không mang lại kết quả mong muốn. Quả thật, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy rằng những thứ gọi là giải pháp, dựa trên nguyên tắc của một chính quyền cứng nhắc, đang làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn, thay vì cải thiện nó.
Một cách tiếp cận khác không bắt đầu với sự khiển trách và kiểm soát mà bắt đầu trước hết với việc đặt ra câu hỏi tại sao con người lại hành xử một cách vô trách nhiệm - vì sao họ lại hành xử bạo lực, cư xử một cách thiếu lành mạnh, lâm vào cảnh nợ nần đầy tuyệt vọng, hay bỏ mặc con cái chỉ để làm giàu. Cách tiếp cận này là từ góc nhìn của những cá nhân, tập trung vào động lực ẩn dưới sự vô trách nhiệm của họ, giải thích những tác động xã hội ảnh hưởng đến động lực đó. Rồi sau đó, chỉ ra những yếu tố có thể dẫn dắt con người hành xử có trách nhiệm hơn.
***
Quyển sách này bàn về động lực của con người và nó được sắp xếp xoay quanh sự phân biệt quan trọng trong hành vi, giữa việc nó là tự chủ hay bị kiểm soát mà ra. Về mặt từ nguyên, thuật ngữ tự chủ bắt nguồn từ việc tự quản. Tự chủ có nghĩa là hành động đúng theo cái tôi của một người - nghĩa là cảm thấy tự do và tự nguyện khi hành động. Khi tự chủ, con người tuyệt đối sẵn sàng làm những gì họ đang làm, và họ nắm bắt hoạt động với nhận thức về sự say mê và tận tụy. Hành động của họ bắt nguồn từ ý thức thật sự về cái tôi của mình, nên họ đang sống thật. Ngược lại, bị kiểm soát nghĩa là hành động vì phải chịu áp lực. Khi bị kiểm soát, con người hành động mà không cảm thấy có sự tán thành của bản thân. Hành vi của họ không phải là biểu hiện của cái tôi, vì cái tôi đã bị những sự kiểm soát khuất phục. Dễ hiểu là trong tình cảnh này con người có thể được mô tả là bị tha hóa1.
1 Alienation (sự tha hóa) là một khái niệm bắt nguồn từ triết học và được sử dụng trong các ngành khoa học xã hội khác. Sự tha hóa chỉ việc một đối tượng rời xa bản chất tự nhiên của mình, hay theo triết gia Hegel định nghĩa, tha hóa là quá trình biến thành cái khác, vẫn là chính nó nhưng ở trạng thái, hình thái khác. Trong tâm lý học, tha hóa là quá trình tách biệt khỏi cái tôi đích thực của một cá nhân.
Vấn đề của sự tự chủ và chân thật2, khi đối lập với sự kiểm soát và tha hóa, đều liên quan đến mọi khía cạnh của cuộc sống. Thi thoảng chúng đột ngột trở nên rõ ràng, với những ngụ ý mang tính xã hội, và những lúc khác chúng thật khó thấy, với những hệ quả mang tính cá nhân.
2 Authenticity là một khái niệm thường được nhắc tới trong tâm lý học tích cực. Sự chân thật, hay chân nguyên, của một người được thể hiện qua việc hiểu về bản chất thật sự của bản thân và cư xử đồng nhất với bản chất đó.
Một người kháng cự lại những áp lực buộc anh phải khuất phục trước việc thao túng giá cả, bởi vì cá nhân anh tin rằng nó sai, là đang hành động một cách tự chủ và sống thật. Nhưng nếu anh ta chịu thua những áp lực, và trong quá trình đó, gây hại nghiêm trọng cho hàng nghìn người và gây nên tình trạng tiêu cực cho quốc gia, thì tức là anh ta đang bị kiểm soát và không sống thật. Một người phục vụ trong hội đồng nhà trường ý thức đầy đủ về sự tự nguyện - bởi vì cô tin vào tầm quan trọng của nó - là cô đang tự chủ và sống thật. Nhưng nếu cô làm điều đó dù không muốn, bởi vì cô nghĩ rằng nó “trông có vẻ tốt cho người khác”, thì cô cũng đang bị kiểm soát và không sống thật.
Khi một hành vi không còn tự chủ, thì nghĩa là nó đang bị kiểm soát, và có hai loại hành vi bị kiểm soát. Loại thứ nhất là sự tuân thủ, và nó là sự tuân thủ mà các giải pháp độc đoán muốn đạt được. Tuân thủ nghĩa là làm những gì bạn được bảo, bởi vì bạn được bảo phải làm vậy. Tôi nhớ nhiều năm về trước khi các kênh truyền hình bắt đầu thói quen theo dõi diễn văn của tổng thống về những quan điểm bất đồng của các thượng nghị sĩ hoặc hạ nghị sĩ phe đối lập. Một người bạn của tôi đã bình luận thế này: “Tôi không nghĩ họ làm vậy là đúng”.
“Ý anh là sao?”, tôi đáp, “Cũng nên nghe những quan điểm bất đồng chứ”.
“Nhưng ông ấy là Tổng thống”, bạn tôi quả quyết.
Mặc dù ngày nay sự tôn kính kiểu ấy dành cho tổng thống có vẻ kỳ quặc, nhưng bình luận đó là hình ảnh thu nhỏ của thái độ tuân thủ. Tác giả tên tuổi Charles Reich3 đã nói về “quyền lực không tên”. Đây là thứ quyền lực tồn tại một cách vững vàng trong tư tưởng của bạn tôi, khiến anh suy nghĩ và hành động một cách phục tùng.
3 Charles Reich (1928-2019) là học giả, tác giả nổi tiếng một thời, nổi bật với tác phẩm The Greening of America (tạm dịch: Sự xanh hóa nước Mỹ), một tác phẩm ca ngợi phong trào phản văn hóa những năm 1960 ở Mỹ.
Loại phản ứng thứ hai đối với sự kiểm soát là thách thức, nghĩa là làm ngược lại những gì bạn được kỳ vọng sẽ làm chỉ vì người khác mong bạn làm điều đó. Sự tuân thủ và bất tuân tồn tại trong một mối chung thân không ổn định, đại diện cho các phản ứng mang tính bù trừ với sự kiểm soát. Khi có cái này thì cũng có khuynh hướng tồn tại cái kia, mặc dù bên trong một cá nhân thường sẽ có một bên vượt trội hơn bên con lại. Do đó, chúng ta thấy một số người rất phục tùng người khác, có vẻ luôn hành động theo những gì tình huống yêu cầu, và chúng ta cũng thấy có những người khác lại bất tuân mọi yêu cầu và thúc giục của các thế lực có uy quyền. Thế nhưng ngay cả với những người này, khi một kiểu phản ứng với sự kiểm soát chiếm ưu thế, thì kiểu còn lại vẫn sẽ ở đó và có thể xuất hiện theo những cách khó nhận thấy. Chẳng hạn, một người cấp dưới nhìn bên ngoài thì có vẻ đang nghe theo mọi yêu cầu của sếp, nhưng vẫn có thể âm thầm tham gia vào những hành động phá hoại như một cách trả thù.
Nổi loạn là biểu hiện bên ngoài của khuynh hướng bất tuân kiểm soát, và nó chung sống một cách không thoải mái với sự thích nghi, thứ vốn là biểu hiện cho khuynh hướng tuân thủ của con người. Những nhà độc tài trong thời đại chúng ta đã dựa vào sự kiểm soát, và họ đã có một liều thuốc nổi loạn lành mạnh đi kèm với sự tuân thủ mà họ mong chờ. Nhưng điều thậm chí còn tồi tệ hơn, và là điều hầu như không được nhận ra, chính là cái giá của sự tuân thủ vốn dĩ rất đắt. Cái giá đó - sự bất hòa sâu sắc cùng tất cả những hệ quả của nó - sẽ được phân tích chi tiết trong quyển sách này.
***
Tính chân thật đòi hỏi phải hành xử một cách tự chủ, có nghĩa ta phải là tác giả những hành động của bản thân - hành động theo đúng con người bên trong thật sự của mình. Chìa khóa để hiểu được sự tự chủ, chân nguyên và cái tôi là quá trình tâm lý được gọi là hợp nhất. Nhiều khía cạnh trong tâm trí con người khác nhau ở mức độ chúng được hợp nhất hay hòa hợp với cái tôi cốt lõi bẩm sinh của họ. Chỉ khi các quá trình khởi xướng và chỉnh đốn một hành động được hợp nhất với các khía cạnh trong bản ngã con người thì hành vi mới tự chủ và con người mới chân thật. Theo nghĩa này, sống thật chính là sống đúng với cái tôi của bản thân.
Một ẩn ý hiển nhiên và quan trọng về khái niệm cái tôi của chúng ta như một trung tâm hợp nhất mà nhờ đó con người có thể hành động một cách tự do và tự nguyện chính là: Có khả năng nguyên nhân của một hành động, nói theo cách ẩn dụ, là nằm trong bản thân chúng ta, nhưng không phải trong cái tôi của chúng ta. Không ai nói rằng những hành vi loạn thần là chân thật hay có tính tự quyết. Chúng được khơi dậy bởi một khía cạnh nào đó trong lớp hóa trang tinh thần của một người nhưng chúng không xuất phát từ những gì chúng ta gọi là cái tôi. Chẳng hạn, kẻ giết người hàng loạt “Con trai của Sam4” khai rằng đã nghe những giọng nói thôi thúc hắn giết người. Rõ ràng, giọng nói đến từ bên trong hắn, nhưng chúng không đại diện cho các khía cạnh trong cái tôi của hắn.
4 “Son of Sam” là biệt danh tự xưng của kẻ giết người hàng loạt David Berkowitz (tên khai sinh là Richard David Falco, sinh năm 1953). Từ năm 1976 đến năm 1977, David Berkowitz đã bắn chết 6 người vô tội và bắn bị thương nhiều người khác. Hắn bị kết tội 6 án chung thân, với tổng số năm ngồi tù lên đến 365 năm.
Không rõ ràng như vậy, nhưng có lẽ còn quan trọng hơn, là những ví dụ phổ biến hằng ngày, trong đó con người đã tiếp thu những sự kiểm soát cứng rắn của xã hội và phản ứng một cách phục tùng với những thế lực đó bên trong họ. Những hành vi như vậy lại thiếu tính chất tự do và linh hoạt, vốn là đặc điểm của tính tự chủ và chân thật. Hãy nghĩ về một người đến nhà thờ không vì anh ta muốn mà vì anh ta nghĩ mình nên làm vậy. Anh ta không hề tự chủ cũng không chân thật khi cư xử với trải nghiệm “phải làm” thay vì “chọn làm”.
Cũng có những trường hợp con người không tuân theo những áp lực bên trong. Hãy nghĩ đến một cô gái trẻ tiếp thu những yêu cầu của bố mẹ rằng hãy trở thành bác sĩ, rồi tự ép buộc bản thân tham gia những khóa dự bị y khoa ở trường đại học. Kết quả không tốt, bởi vì cái tôi của cô không nằm ở đó, cuối cùng cô bất tuân áp lực và bỏ học. Mặc dù thích học một số môn nhưng cô vẫn bỏ học vì không còn sẵn lòng khuất phục trước những sự kiểm soát bên trong nữa. Cô không được tự chủ cũng không chân thật trong hành động bất tuân của mình.
Bởi vì sự hợp nhất là một khía cạnh xác định cái tôi, nên hoàn toàn có khả năng hành vi được bắt đầu và được điều chỉnh bởi các khía cạnh của một con người tách biệt với cái tôi. Việc cân nhắc đến những khía cạnh tách biệt như vậy là cần thiết để hiểu biết thêm về sự tự chủ - đối lập với sự kiểm soát, và về sự nổi loạn, tuân thủ, “buông thả” mà người ta chứng kiến mỗi ngày. Đồng thời cũng cần phải hiểu rất nhiều biểu hiện của sự tha hóa và không chân thật - những hành vi như bạo hành gia đình và đánh đập vợ.
Khi người ta hiểu rằng cái tôi là cốt lõi tâm lý hợp nhất mà từ đó họ hành động một cách chân thật, với sự tự nguyện đích thực, thì họ sẽ dễ dàng thấy được tại sao có quá nhiều sự nhầm lẫn bắt nguồn từ những bài viết của các nhà học thuật chuyên phê bình xã hội như Christopher Lasch và Allan Bloom, những người cho rằng sự chân thật sẽ sinh ra tính vô trách nhiệm. Đối với họ, cái tôi - “tác giả” tạo ra sự chân thật - về cơ bản là tương đương với con người, do vậy việc tập trung vào bất kỳ khía cạnh nào của con người cũng đều được coi là say mê cái tôi.
Chẳng hạn, Lasch mô tả văn hóa Mỹ đang có một mối bận tâm mang tính ái kỷ với cái tôi. Ông có thể đúng về mối bận tâm ái kỷ trong nền văn hóa này nhưng nó không phải là một mối bận tâm với cái tôi. Ngược lại, hội chứng ái kỷ vốn liên quan đến khao khát tìm kiếm sự khẳng định từ người khác đến mức tuyệt vọng. Nó đòi hỏi sự tập trung hướng ra bên ngoài - và để tâm đến những gì người khác nghĩ - sự tập trung đó khiến con người xa rời cái tôi đích thực của họ. Tâm lý ái kỷ không bắt nguồn từ việc con người quá gắn bó với cái tôi, mà đúng hơn là từ việc bị mất kết nối với nó. Họ chấp nhận những giá trị ái kỷ trong một xã hội kiểm soát vì họ không có được kiểu nuôi dưỡng tâm lý cần thiết để phát triển một cái tôi lành mạnh và hợp nhất. Hội chứng ái kỷ không phải là kết quả của sự chân thật hay tự quyết, nó là thứ đối lập với chúng.
Có một đặc điểm khác bị nhầm lẫn xuyên suốt những buổi thảo luận về cái tôi do nhiều nhà tâm lý học và phê bình xã hội trình bày. Nó liên quan đến mối quan hệ giữa tự do và tự chủ với độc lập hay đơn độc. Sự nhầm lẫn này thể hiện rõ ràng trong mô tả của Bloom về sự chân thật khi con người quan tâm đến bản thân họ hơn là những người khác, và trong bình luận của nhà sử học Loren Baritz rằng khi con người tự do, họ hoàn toàn đơn độc và thiếu vắng sự sôi nổi trong cảm xúc. Những quan điểm này xuất phát từ nhận thức sai lầm rằng khi con người kết nối trọn vẹn hơn với chính mình, khi họ trở nên tự do hơn trong các hoạt động, khi họ giải phóng bản thân khỏi những kiểm soát của xã hội, thì họ sẽ chọn cách ly khỏi mọi liên hệ. Nhưng chẳng có bằng chứng nào cho điều đó, mà hoàn toàn ngược lại, khi con người trở nên chân thật hơn, khi họ phát triển khả năng tự chủ trong việc tự chỉnh đốn nhiều hơn, thì họ cũng có khả năng kết nối với người khác sâu sắc hơn.
Cần phải làm rõ rằng ta không thể hiểu rõ tính chân thật nếu chỉ xét đến những hành vi bên ngoài; chúng ta phải nhìn vào những động lực đằng sau các hành vi đó. Một số người xuống đường đòi quyền công dân trong những năm 1960 rất chân thật; nhưng số khác thì không. Một số người quanh quẩn trong các câu lạc bộ sức khỏe vào những năm 1990 rất chân thật; nhưng những người khác lại không. Chỉ khi xét đến động lực khiến con người hành động - như đi nhà thờ, làm bài tập về nhà, giảm cân, có con, hay kể cả ăn trộm một ổ bánh mì - và xem hành vi đó tự chủ đến mức nào, chúng ta mới có thể giải quyết các vấn đề về tính chân thật, và cuối cùng là về trách nhiệm.
Trong hơn hai mươi lăm năm, tôi đã tìm hiểu những khái niệm tự chủ, tính chân thật, tự do và cái tôi đích thực, đặt hoạt động nghiên cứu đó trên cơ sở những khái niệm về động lực. Phần lớn công việc này được hoàn thành nhờ sự cộng tác với Rich và Ryan. Công trình nghiên cứu có thể trình bày dưới hình thức khoa học ở nơi khác, nhưng trong quyển sách này, tôi sử dụng nó để lý giải một số vấn đề cơ bản liên quan đến cái tôi trong thế giới xã hội.
Ryan và tôi không phải là những nhà tâm lý học duy nhất quan tâm đến những vấn đề như sự tự chủ và tính chân thật. Chẳng hạn, các nhà phân tâm học Donald Winnicott và Alice Miller cũng phát triển những lý thuyết nhấn mạnh khái niệm cái tôi đích thực. Nhưng nghiên cứu của họ được thực hiện theo truyền thống dựa vào tư liệu về các trường hợp điều trị để có được chất liệu phát triển lý thuyết, trong khi nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành theo cái gọi là truyền thống thực nghiệm, vốn dựa vào việc áp dụng các nguyên tắc thống kê để thu thập dữ liệu bằng cách sử dụng các phương pháp khoa học.
Khi sử dụng phương pháp thực nghiệm, chúng tôi đã dùng các khái niệm có thể áp dụng cho cuộc sống hằng ngày của con người, khi họ đi làm hay đi học, khi họ nuôi nấng con cái và xử lý những đòi hỏi trong cuộc sống gia đình, khi họ đương đầu với các thử thách và đưa ra cách giải quyết. Do đó, bằng cách khái niệm hóa tính chân thật trên phương diện hành động một cách tự chủ, nó trở thành một tính cách có thể định rõ trong hoạt động của con người, thay vì chỉ là một khái niệm triết học trừu tượng. Điều đó cho phép người ta chuyển khái niệm này từ địa hạt nghiên cứu lý tính sang địa hạt nghiên cứu tâm lý. Nó cũng cho con người một công cụ để phản ánh mức độ chân thật của họ trong cuộc sống của chính mình. Tương tự như vậy, khái niệm tha hóa, có nghĩa triết học là ai đó tách biệt với cái tôi của mình, cũng có thể được nghiên cứu và giải thích một cách cụ thể trên phương diện những hành vi bị gây sức ép và kiểm soát. Hàng tá nghiên cứu tâm lý mà chúng tôi thực hiện đã cho những khái niệm này ý nghĩa rõ ràng.
***
Tất cả chúng ta đều nhận ra chính mình trong hàng loạt mối quan hệ có sự khác biệt về địa vị, quyền lực hay sự kiểm soát giữa hai hay nhiều đối tượng - những mối quan hệ mà cấu trúc của chúng có thể được xem là một bên cao/một bên thấp (bề trên - bề dưới). Những mối quan hệ này bao gồm quan hệ giữa cha mẹ với con cái, giữa quản lý với cấp dưới, giữa giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ với bệnh nhân. Trong những mối quan hệ này, một bên - cha mẹ, quản lý, giáo viên, hay bác sĩ - có thể được hiểu là tác nhân xã hội hóa. Nói vậy có nghĩa là người đó có nhiệm vụ tạo điều kiện khơi gợi động lực và tính trách nhiệm ở bên còn lại. Theo một nghĩa nào đó, vai trò này làm cho con người trở thành hiện thân của xã hội và phong cho họ nhiệm vụ truyền tải các giá trị và tập tục của nó. Các mối quan hệ này vì vậy đóng vai trò trung tâm trong những khái niệm tự chủ và kiểm soát - khái niệm chân thật và tha hóa - được trình bày trong quyển sách này.
Những người trưởng thành nhất - như cha mẹ, nhà tổ chức cộng đồng, huấn luyện viên, những người đứng đầu nhóm làm việc hay cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe - đều ở vị thế phân phát những lời khuyên và yêu cầu. Nhưng đôi khi họ cũng ở vào vị thế người nhận. Ngay cả các tỷ phú là CEO doanh nghiệp cũng phải làm theo mệnh lệnh của bác sĩ, vợ hay chồng họ hết lần này đến lần khác - và âm vang những lời khuyên răn của cha mẹ cũng còn kiểm soát họ. Con người không bao giờ thôi đấu tranh để tìm ra tiếng nói và phương hướng của riêng mình giữa bao nhiêu áp lực tác động lên họ trong những vai trò khác nhau, ở vị thế mà người khác có thẩm quyền hơn họ.
Ngay cả những mối quan hệ thân thiết - và những mối quan hệ khác mà nhìn bề ngoài có vẻ bình đẳng - cũng chứa đựng nhiều vấn đề về tự chủ và kiểm soát. Tuy nhiên, trong những mối quan hệ đó có một sự phức tạp gây nản lòng là mỗi bên không chỉ đấu tranh để được tự chủ mà còn cần phải ủng hộ sự tự chủ của bên kia. Đó là một sự cân bằng mong manh giữa cảm giác tự do với việc ủng hộ sự tự do của người khác, và nó là một động lực minh họa cho cách mà vấn đề tự chủ của con người được đan dệt trên tấm vải gồm tất cả những mối liên kết giữa người với người.
Để trở nên tự chủ và chân thật hơn, con người phải hiểu thấu các mối quan hệ một cao/một thấp của mình. Theo nghĩa nào đó, họ phải vượt qua chúng. Việc xem xét những mối quan hệ này đặc biệt có tính chỉ dẫn, bởi vì nó nêu bật cách con người ở những vị thế có thẩm quyền - những người chủ chốt trong việc sáng tạo ra cái mà chúng ta gọi là bối cảnh xã hội cho những người mà họ áp đặt thẩm quyền - tác động đến động lực của người khác. Nó cũng hé lộ chiến lược và nhu cầu của những người ở vị thế bề dưới khi họ nỗ lực duy trì và nuôi dưỡng sức sống của mình. Không khó để tìm những người làm công cảm thấy mình như “nô lệ”, nhưng tìm được những người làm công chủ động, theo nghĩa họ là chủ của chính mình, thì khó hơn. Và không phải nhà quản lý nào cũng giúp đỡ họ. Ta dễ dàng tìm thấy những đứa trẻ cảm thấy mình là một phần của “thủy thủ đoàn”, nhưng lại khó tìm được những đứa trẻ thấy mình là thuyền trưởng trên con tàu của chính chúng. Có nhiều kiểu vấn đề liên quan đến việc nuôi dưỡng động lực của những người ở vị thế thấp và rộng hơn là liên quan đến việc thúc đẩy sự tự chủ và trách nhiệm của con người trong xã hội.
***
Hầu hết mọi người dường như đều nghĩ rằng nguồn động lực có sức ảnh hưởng lớn nhất đều xuất phát từ bên ngoài chúng ta, rằng nó là điều gì đó mà một người có kỹ năng tạo ra cho người khác. Có vô vàn nguyên mẫu. Hãy nghĩ đến một huấn luyện viên trong phòng thay đồ, bằng sức mạnh của khả năng ăn nói thiên bẩm, dỗ dành và thúc giục, mạt sát và cổ vũ, để có thể biến những kẻ yếu đuối trở thành nhà vô địch. Hay thử nghĩ về người giáo viên trong một lớp học trật tự, nhờ sử dụng khéo léo thưởng và phạt đã biến đám “quái vật nhỏ bé” thành những học sinh vâng lời.
Nhưng trái lại, tất cả những nghiên cứu mà Ryan và tôi thực hiện đều chỉ ra rằng sự tự thúc đẩy, thay vì động lực thúc đẩy từ bên ngoài, mới là trung tâm của sự sáng tạo, trách nhiệm, hành vi lành mạnh và thay đổi lâu dài. Cách cư xử khéo léo hay áp lực từ bên ngoài đôi lúc có thể đem lại sự tuân thủ, nhưng cùng với sự tuân thủ đó, nhiều hậu quả tiêu cực sẽ xuất hiện, bao gồm cả thôi thúc bất tuân. Bởi vì cả tuân thủ và bất tuân đều không phải là ví dụ minh họa cho sự tự chủ và chân thật, chúng ta vẫn luôn phải đương đầu với câu hỏi có vẻ nghịch lý nhưng cực kỳ quan trọng: Làm thế nào những người ở vị thế bề trên, như nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay giáo viên, có thể thúc đẩy người ở vị thế bề dưới như bệnh nhân hay học sinh của họ, nếu như động lực mạnh mẽ nhất dẫn đến hành vi có trách nhiệm nhất phải xuất phát từ bên trong - nếu như nó phải đến từ cái tôi nội tại của người ở vị thế thấp?
Thật ra, câu trả lời cho câu hỏi quan trọng này chỉ có thể xuất hiện khi câu hỏi được trình bày lại. Câu hỏi chính xác không phải là “Làm thế nào người ta có thể thúc đẩy người khác?” mà là “Làm thế nào người ta có thể tạo ra những hoàn cảnh mà trong đó người khác sẽ tự thúc đẩy chính mình?”. Khi chúng tôi đặt câu hỏi theo cách này, các cuộc nghiên cứu của chúng tôi đã nhiều lần xác nhận rằng sự định hướng và hành động của những người ở vị thế có uy quyền đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định xem ai trong số những người mà họ giám sát, dạy dỗ, hay chăm sóc sẽ tự thúc đẩy bản thân một cách hiệu quả - liệu họ có thật sự phát triển tính tự chủ và chân thật hay không. Quyển sách này trình bày cách những lực lượng xã hội này vận hành để gây ảnh hưởng đến động lực và sự phát triển.
Trong suốt cuộc đời, con người luôn vật lộn với vấn đề liệu họ có đang đưa ra những lựa chọn của chính mình hay không - liệu hành động của họ có phải do họ tự quyết hay không, nói cách khác là họ đang chịu sự kiểm soát của một tác nhân bên ngoài hay của sức mạnh bên trong. Quyền lựa chọn là chìa khóa dẫn đến sự tự chủ và tính chân thật, và việc đặt câu hỏi xem một người nào đó có thật sự lựa chọn làm gì hay không là điều cần thiết đối với hầu hết những phiên tòa dân sự và hình sự. Hàng triệu đô-la có thể được phán quyết dựa trên việc một bệnh nhân có thật sự xác nhận đồng ý với một thủ thuật y tế hay không. Và phán quyết giữa án tử hình hay nhốt vào bệnh viện tâm thần có thể tùy thuộc vào câu trả lời của bồi thẩm đoàn rằng tay súng đã chọn bóp cò hay bị ép buộc bởi sự thôi thúc từ bên trong - thứ có thể được gán cho là “cơn điên bộc phát nhất thời”.
Đối với xã hội, vấn đề này liên quan đến những điều kiện - cả về thực tế lẫn tâm lý - mà theo đó con người phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Đương nhiên một số luật sư đã đặc biệt chú ý đến điều này và cố gắng thúc đẩy sự cân bằng theo cách này hay cách khác. Trong sự phát triển hiện đại cực đoan nhất, hệ thống tòa án hình sự đã chơi đùa với khái niệm “tự vệ không hoàn hảo”. Như trường hợp Lorena Bobbitt5 hay anh em nhà Menendez6, họ không phủ nhận rằng mình đã thực hiện những hành vi khủng khiếp, nhưng cứ khăng khăng rằng họ làm vậy không phải là tự nguyện, mà do chịu áp lực của một môi trường cá nhân đau khổ đến mức họ không thấy có lựa chọn nào khác. Họ đã công kích như một cách tự vệ dù không bị tấn công bất ngờ. Họ hành động với sự bạo lực lố bịch và lập luận rằng đó là vì họ tin rằng mình phải làm vậy.
5 Năm 1993, Lorena Bobbitt đã dùng con dao làm bếp cắt lìa dương vật của chồng mình. Tại tòa, luật sư bào chữa cho rằng Lorena bị bạo hành lâu ngày dẫn đến chấn thương tâm lý khiến cô có hành động bộc phát. Lorena thoát tội sau khi được kiểm tra tâm thần.
6 Lyle Menendez và Erik Menendez bị xử tù chung thân không ân xá vì tội giết chết cha mẹ ruột của mình (vụ án xảy ra năm 1989). Trên tòa, cả hai khai rằng họ là nạn nhân của bạo hành cảm xúc và áp lực kỳ vọng cao đến từ cha mẹ mình và hành vi của họ là để tự vệ.
Các vấn đề về sự tự chủ và chân thật có thể phức tạp và hấp dẫn khi được xem xét ở cấp độ nền văn hóa hay mối quan hệ liên cá nhân, nhưng chúng thậm chí còn trở nên phong phú hơn và thú vị hơn khi chỉ nhìn vào bên trong cá nhân. Mối quan hệ chủ-tớ tồn tại ở một mức độ nào đó bên trong mỗi con người. Con người có thể chỉnh đốn bản thân theo những cách thức hoàn toàn tự chủ và chân thật, hoặc cũng có thể theo những cách hoàn toàn kiểm soát và độc tài, tự gây áp lực và chỉ trích bản thân. Mức độ nghiêng về cái này hay cái kia phụ thuộc vào độ kiên quyết của sự phân ngôi chủ-tớ đó.
Nhiều người nhận thấy ý kiến này dễ hiểu, chẳng hạn trong trường hợp một người nghiện là nô lệ cho cơn nghiện của chính mình, hoặc một người bị ám ảnh cưỡng chế là nô lệ cho những sự cưỡng chế của chính mình. Nhưng các động lực cũng liên quan đến nhiều hành vi khác. Động lực bắt đầu như những quá trình liên cá nhân ở nhà, ở trường hay bất kỳ nơi nào khác, và được con người tiếp nhận theo những cách lành mạnh hay kém lành mạnh hơn. Việc hiểu được những quá trình này - những quá trình nội tâm lý cũng như liên cá nhân - cho phép đưa ra những câu trả lời ý nghĩa cho những câu hỏi quan trọng. Đó là sự hiểu biết có thể giúp con người duy trì được việc cai thuốc lá, nuôi dưỡng niềm đam mê học tập không mệt mỏi và có được thành tích tốt trong thể thao. Nó cũng là sự hiểu biết cần thiết để định vị và neo chặt cái tôi đích thực của một người giữa những đợt thủy triều đầy cám dỗ và có tính cưỡng ép của văn hóa hiện đại.
***
Mục tiêu của quyển sách này được tuyên bố một cách đơn giản: Người ta sử dụng toàn bộ nghiên cứu về động lực để xem xét mối quan hệ giữa sự tự chủ với trách nhiệm và để suy ngẫm về vấn đề thúc đẩy tính trách nhiệm trong một thế giới đang tha hóa. Quyển sách này chứa đầy hy vọng, vì nó cho biết những gì chúng ta có thể làm cho chính mình, cho con cái, nhân viên, bệnh nhân, học sinh và các vận động viên của chúng ta - đúng hơn là những gì chúng ta có thể làm cho xã hội. Giải pháp mà nó đưa ra không phải là thuốc chữa bá bệnh, và cũng không dễ dàng gì. Nhưng chúng tương thích với mỗi chúng ta trong việc quản lý bản thân, và chúng có thể áp dụng cho các vai trò giáo viên, nhà quản lý, cha mẹ, bác sĩ và huấn luyện viên. Thật vậy, chúng tương thích và quan trọng với tất cả mọi người trong vị trí hoạch định chính sách. Những “đơn thuốc” này bắt đầu từ việc hiểu về động lực của con người - ở mức độ mà nó còn có tính tự chủ - và chúng bao gồm việc sử dụng hiểu biết đó để quản lý bản thân hiệu quả hơn, quan hệ với người khác theo kiểu khác biệt hơn và tạo ra chính sách xã hội giàu ý nghĩa.
Cũng giống như các công trình của Lasch, Bloom, Baritz và những người khác, quyển sách này lên án hầu hết kiểu tuyên bố: sự xảo quyệt của quảng cáo mồi chài bản ngã của con người, cách những người ở vị thế vượt trội kiểm soát và hạ thấp những người họ tương tác, sự nhấn mạnh lạ thường vào tư duy công cụ (nhìn mọi thứ như là phương tiện để đạt được mục đích), việc đánh giá quá cao tài sản vật chất, và sự xói mòn việc cống hiến cho cộng đồng. Nhưng trong quyển sách này, phê bình xã hội chỉ là thứ yếu và nó ẩn ngầm bên trong hơn là thể hiện rõ bên ngoài. Điều chính yếu là phác họa những quá trình trong đó sự phân mảnh xã hội ảnh hưởng đến đời sống các thành viên của nó và xem xét việc có thể làm gì để giải quyết điều đó.
Khi nghiên cứu chân nguyên và tha hóa, Ryan và tôi đã sử dụng những phương pháp khoa học để tìm hiểu cơ sở tạo động lực cho chúng. Những phương pháp này phần lớn được phát triển bởi những người tin vào điều mà Aristotle gọi là nguyên nhân hiệu quả của hành vi, về cơ bản có nghĩa là những sự kiện có trước buộc người ta phải hành động. Tuy nhiên, chẳng có lý do gì mà các phương pháp này không thể áp dụng cho việc nghiên cứu những khái niệm như tự do tâm lý, mà phần lớn các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn và các nhà triết học trước đây đã nói đến nhưng không hề có sự hỗ trợ của các phương pháp khoa học.
Mặc dù việc sử dụng phương pháp thực nghiệm có lợi thế lớn là cho phép xác nhận hoặc bác bỏ các giả thuyết lý thuyết, nhưng nó cũng có một bất lợi lớn: Nó là một quá trình có thứ tự và diễn ra cực kỳ chậm. Trong hơn một phần tư thế kỷ, kết quả của hàng tá cuộc thử nghiệm và nghiên cứu thực địa đã được tích lũy - những thực nghiệm và nghiên cứu được thực hiện trong các phòng thí nghiệm tâm lý, cũng như tại nhà riêng, công ty, trường học, phòng khám khắp trong và ngoài nước. Trong quyển sách này, tôi sử dụng kết quả của những nghiên cứu đó làm cơ sở để thảo luận về tự do và trách nhiệm của con người. Nói vậy có nghĩa là những “đơn thuốc” và sự phê bình xã hội ở đây đại diện cho phép ngoại suy và những suy đoán. Những gì xuất phát là các suy luận có tính thống kê từ những quan sát có hệ thống đã được sử dụng ở đây để làm sáng tỏ các vấn đề rộng lớn của con người.
Nghiên cứu của chúng tôi về tự chủ cá nhân - về tính chân thật và trách nhiệm - tập trung vào các quá trình tạo động lực. Bằng cách xem xét những hành vi có thể được mô tả chính xác là tự chủ và khám phá các quá trình tạo động lực mà qua đó chúng được điều chỉnh, chúng tôi đã có thể trình bày chi tiết những tiền đề về bối cảnh xã hội của các hành vi này và hệ quả của chúng. Những vấn đề này chính là trọng tâm của quyển sách bạn đang cầm trên tay. Chúng cho biết tại sao chúng ta làm những việc mình làm, và chúng cung cấp cơ sở để giải quyết những câu hỏi cụ thể và thực tế như làm thế nào để thúc đẩy những hành vi có trách nhiệm - làm việc sao cho đạt hiệu suất, học hành sao cho vui vẻ và hiệu quả, làm sao để thay đổi hành vi một cách lành mạnh về lâu dài - để làm lợi cho xã hội cũng như các cá nhân của nó.