Những thí nghiệm đầu tiên về phần thưởng và sự tha hóa
Đến thăm bất kỳ sở thú nào trong thành phố, ngay cả ở nơi hiện đại nhất, bạn cũng có thể chứng kiến những hành vi quen thuộc của hải cẩu. Chẳng hạn như tại sở thú của công viên Prospect, Brooklyn, các nhân viên cho thú ăn sẽ đi vào khu vực của hải cẩu trong một khoảng thời gian đã định, mang theo những túi cá và bắt đầu tạo ra một cảnh tượng mê hoặc các bạn nhỏ cùng các phụ huynh đang đứng tựa hàng rào để xem. Các nhân viên cho thú ăn ở đó không phải người điều khiển một màn xiếc để giải trí, mà chỉ đang làm công việc của mình, tình cờ mang lại thêm một màn trình diễn hay mà thôi. Khi họ thả từng con cá vào miệng một chú hải cẩu phàm ăn, nó gần như sẽ làm mọi thứ để được cho thêm thức ăn. Nó vỗ các chi vào nhau; vẫy chào đám đông; uốn mình như những nàng tiên cá trong một đài phun nước. Và khán giả yêu những màn trình diễn đó.
Các nhân viên cho thú ăn này đã sử dụng phần thưởng một cách vô cùng hiệu quả để khơi lên những hành vi mà họ mong muốn, và những cảnh tượng như thế dường như đã chứng thực được rằng sức mạnh của phần thưởng là một kỹ thuật tạo động lực ưu việt. Người ta có thể nghĩ rằng: “Nếu việc đó hiệu quả với hải cẩu, thì nó có thể cũng sẽ hiệu quả với con mình, học trò và nhân viên của mình”. Thông điệp có vẻ đơn giản: Cứ thưởng cho những hành vi mà ta mong đợi và khả năng hành vi đó được lặp lại sẽ cao hơn.
Nhưng hóa ra vấn đề không thật sự đơn giản như thế. Bạn có thể thoáng thấy vấn đề chính trong trường hợp những con hải cẩu. Ngay khi người cho chúng ăn biến mất, thì những hành vi mang tính giải trí cũng không còn. Bọn hải cẩu không còn hứng thú vỗ các chi hay vẫy chào khán giả nữa. Phần thưởng có thể làm tăng khả năng xảy ra các hành vi nhưng chỉ khi nào phần thưởng còn được đưa tới mà thôi.
Với con cái, học trò và nhân viên, chúng ta đặc biệt hy vọng rằng những hành vi ta mong muốn sẽ tiếp tục diễn ra ngay cả khi chúng ta không có ở đó để trao thưởng. Chúng ta muốn con cái vẫn tiếp tục học hành, tiếp tục san sẻ công việc nhà, muốn nhân viên tiếp tục duy trì hiệu suất làm việc, và câu hỏi mà chúng ta phải đối mặt là làm thế nào để thúc đẩy sự tự định hướng bền bỉ, thay vì sự vô trách nhiệm hay tha hóa dường như đã quá phổ biến trong thế giới hôm nay. Đó thật sự là một câu hỏi lớn và việc xác định câu trả lời sẽ bắt đầu với một khái niệm thú vị từ công trình nghiên cứu của Harry Halow, một nhà tâm lý học tiên phong đã dành gần cả sự nghiệp của mình để nghiên cứu loài khỉ vàng.
Khỉ vốn là những con vật rất năng động, thường xuyên tham gia vào tất cả các kiểu chơi đùa khôi hài. Chúng chạy quanh, trêu chọc lẫn nhau, ném đồ, làm mặt hề và thường luôn trông rất vui vẻ. Nhưng không phải tất cả năng lượng và sự chú ý của chúng đều dồn vào các trò chơi. Harlow lần lượt đưa từng chú khỉ vào một cái lồng chứa một bộ dụng cụ đánh đố: một loạt yếm khóa, móc và bản lề. Những con khỉ có vẻ cực kỳ hứng thú với trò chơi cơ học này. Chúng sẽ tìm cách mở ra; rồi tìm cách đóng lại như lúc đầu. Chúng lặp lại những hành động này nhiều lần. Chẳng có phần thưởng hữu hình nào cho hành vi đó cả, ấy vậy mà những con khỉ bản chất tò mò này vẫn tập trung và quyết tâm. Hơn thế, chúng dường như còn biết cách tự làm mình vui vẻ. Harlow sử dụng thuật ngữ động lực nội tại để giải thích lý do những con khỉ dành nhiều giờ đồng hồ để giải “câu đố”, trong khi “phần thưởng” khả dĩ duy nhất có vẻ chỉ là bản thân hoạt động đó mà thôi.
Mặc dù hết sức lưu ý để không đi quá xa trong việc so sánh giữa động vật với con người, nhưng hành vi tự phát của những con khỉ này cũng đã gợi cho người ta nghĩ về những hành vi tương tự ở trẻ nhỏ. Sự hiếu kỳ của một đứa trẻ là một nguồn năng lượng đáng ngạc nhiên. Bọn trẻ khám phá, thao tác và thắc mắc; chúng cầm mọi thứ lên, lắc, nếm, ném đi và hỏi: “Đây là cái gì?”. Chúng thích thú với một cái hộp giấy cũng hệt như với một món đồ kỳ công bằng nhựa mới tinh; chúng thử mọi thứ, bẻ cong và biến vật này thành vật khác. Chúng tìm tòi cái mới và háo hức học hỏi. Rõ ràng, có điều gì đó trong bọn trẻ thật sống động và tràn đầy sinh lực; điều gì đó trong chúng muốn làm chủ mọi thử thách trong cuộc sống. Thuật ngữ động lực nội tại có vẻ cũng áp dụng được cho bọn trẻ giống như với những con khỉ của Harlow vậy.
Đối với trẻ em, học hỏi là công việc quan trọng nhất; đó là những gì chúng làm một cách tự nhiên, với cường độ đáng kể, mỗi khi không phải bận tâm đến việc thỏa mãn cơn đói hay đáp ứng những mệnh lệnh của cha mẹ. Nhưng một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất mà chúng ta đang phải đối mặt trong nền văn hóa này chính là khi trẻ em lớn lên, chúng sẽ phải chịu một tổn thất sâu sắc. Chẳng hạn, ở trường, bọn trẻ dường như thể hiện rất ít tính hiếu kỳ bẩm sinh và sự hào hứng học hỏi, những điều vốn từng thể hiện rõ ràng ở chính những đứa trẻ đó khi chúng độ ba hay bốn tuổi. Chuyện gì đã xảy ra? Tại sao ngày nay quá nhiều học sinh bị mất đi động lực, trong khi không thể chối cãi rằng chúng chào đời với một thiên hướng khát khao học hỏi? Chính vấn đề lạ lùng này đã thôi thúc tôi bắt đầu nghiên cứu về động lực, trong nỗ lực tìm hiểu về tác động qua lại giữa tính chân thật và thế giới xã hội. Rốt cuộc thì còn điều gì chân thật hơn là sự hiếu kỳ và sức sống bừng bừng của một đứa trẻ ba tuổi bình thường chứ?
Đầu thập niên 1960, tôi bắt đầu nghiên cứu tâm lý học khi đang là sinh viên năm cuối ở Đại học Hamilton, New York, Hoa Kỳ. Đó là trường học của B. F. Skinner7, một nhà khoa học hành vi lừng danh. Công trình nghiên cứu tiên phong của ông đã dẫn đến sự phát triển của các chương trình điều hòa hành vi và cách sử dụng phần thưởng có hệ thống - hay nói theo ngôn ngữ riêng của chủ nghĩa hành vi là sự gia cố (reinforcement). Thời gian theo học ở Hamilton, tôi đã đắm chìm trong những nguyên lý của chủ nghĩa hành vi: Hãy trao thưởng cho một hành vi cụ thể có thể nhận diện, và phải trao thưởng ngay khi hành vi đó kết thúc, càng sớm càng tốt; chú tâm vào phần thưởng thay vì hình phạt; và phải nhất quán trong việc trao thưởng. Dĩ nhiên, đây chính xác là các nguyên lý đã tỏ ra rất hiệu quả với bọn hải cẩu ở công viên Prospect.
7 Burrhus Frederic Skinner (1904-1990) là nhà tâm lý học, hành vi học, triết học xã hội và nhà phát minh người Mỹ. Ông được đánh giá là một trong những nhà tâm lý học có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20.
Những nguyên lý của chủ nghĩa hành vi đã thu hút được nhiều nhà tâm lý học cũng như những người không có chuyên môn; về mặt triết lý, chúng phù hợp với ý tưởng chung rằng việc phấn đấu để nhận phần thưởng - như để có được thành công về tài chính chẳng hạn - là kiểu của người Mỹ. Chúng cũng phù hợp với lời kêu gọi đang ngày càng rầm rộ là phải kiểm soát nhiều hơn trong xã hội, và phù hợp với quan điểm của rất nhiều nhà giáo dục, rằng cách để khiến học sinh chịu học chính là sử dụng điểm số, những ngôi sao vàng hay các phần thưởng khác. Nói cho học sinh biết các em nên làm gì, rồi khen thưởng cho sự vâng lời đó. Theo góc nhìn này, câu trả lời cho cách thúc đẩy trẻ em học tập là vô cùng đơn giản: Sử dụng một cách phù hợp những phần thưởng bất ngờ.
Mặc dù những mấu chốt của phương pháp tiếp cận hành vi phần nào phức tạp nhưng thông điệp của nó, như nhà triết học, nhà tâm lý học hành vi Barry Schwartz8 chỉ ra, thì lại khá đơn giản: Con người về cơ bản khá thụ động và sẽ chỉ hồi đáp khi môi trường cám dỗ họ với cơ hội nhận phần thưởng và tránh được hình phạt.
8 Barry Schwartz (sinh năm 1946) là nhà tâm lý học người Mỹ, chuyên về lý thuyết xã hội và hành động xã hội. Công trình nghiên cứu của ông tập trung vào sự tương giao giữa tâm lý và kinh tế.
Năm 1969, khi đang là một nghiên cứu sinh tâm lý học tại Đại học Carnegie Mellon, Pittsburgh, tôi ngày càng bị cuốn hút bởi câu hỏi điều gì đã xảy ra với sức sống và tính hiếu kỳ của con người qua thời gian. Mặc dù ban đầu tôi nảy ra câu hỏi này khi lưu ý đến việc học hành của trẻ em, nhưng càng suy nghĩ về nó tôi càng nhận ra rằng câu hỏi này có liên quan đến nhiều phạm vi khác nữa. Câu trả lời của nhà hành vi học cho câu hỏi này sẽ là: Bất kỳ sự thiếu hụt động lực nào cũng đều có thể quy cho việc chưa trao đủ các phần thưởng bất ngờ. Nhưng tôi nhận thấy câu trả lời này chẳng những không thuyết phục mà thậm chí còn gây bối rối.
Giáo điều của các nhà hành vi học cho rằng không có cái gọi là động lực cố hữu cho việc học, nhưng điều này lại không phù hợp với thực tế là trẻ nhỏ - ở nhà hay ở các trường mẫu giáo - vẫn luôn không ngừng khám phá và thao tác với những món đồ mà chúng bắt gặp. Chúng tự thử thách bản thân để trở nên thành thạo, mà rõ ràng chúng làm vậy chỉ vì thích thú chính hoạt động đó. Trẻ em không thụ động chờ đợi bị lôi kéo vào việc học bằng những phần thưởng mời mọc, mà ngược lại, chúng chủ động tham gia vào quá trình học hỏi. Quả thật, chúng có một động lực nội tại đối với việc học hành.
Nhận định của nhà hành vi học rằng không có động lực cố hữu có vẻ chỉ hợp lý trong trường hợp có quá nhiều người hành động một cách thiếu động lực. Ví dụ như, trong nhiều tình huống cuộc sống khác nhau, có thể nhận thấy mình chỉ đang làm vừa đủ cho xong chuyện. Ngay cả ở trường, nhiều trẻ em cũng thụ động, thiếu sự say mê và hứng thú đối với việc học - một thứ vốn là đặc điểm có vẻ tự nhiên ở trẻ lên ba. Lẽ dĩ nhiên, đó là sự thiếu nhất quán đã khiến tôi luôn thắc mắc về động lực nội tại và những gì xảy ra với nó theo thời gian.
Sự hoài nghi của tôi đối với giáo điều của các nhà hành vi học chỉ càng củng cố thêm sự quả quyết của tôi, rằng những câu hỏi mà nhiều người đã đặt ra - Làm thế nào để tôi có thể thúc đẩy người khác học hành? Làm việc? Làm việc nhà? Hay uống thuốc? - đều là những câu hỏi sai. Sai là bởi vì chúng ngụ ý rằng động lực là thứ gì đó được tạo ra cho con người hơn là thứ gì đó do chính con người tạo ra. Một cách cơ bản và hữu ích hơn để suy nghĩ về vấn đề này bao gồm việc chấp nhận khái niệm động lực nội tại, đề cập đến quá trình thực hiện một hoạt động vì chính bản thân hoạt động đó, hay quá trình thực hiện một hoạt động mà phần thưởng vốn nằm trong bản thân hoạt động ấy. Động lực nội tại mô tả một cách hoàn hảo hành vi học hỏi của trẻ nhỏ, và nó dường như cũng phù hợp với hành vi của tất cả chúng ta, những người tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau (như giải trí) đơn giản vì cảm xúc hào hứng, cảm giác hoàn thành và sự thỏa mãn cá nhân mà các hoạt động đó mang lại. Việc suy nghĩ về khái niệm này rồi sẽ khiến người ta đặt ra câu hỏi rằng những kiểu trải nghiệm nào sẽ ảnh hưởng đến động lực nội tại của con người, và kiểu nào thường khiến động lực ấy bị hao mòn.
Robert Henri, người có thể xem là giáo viên mỹ thuật vĩ đại nhất của nước Mỹ thế kỷ 20, đã từng nắm bắt được điều bản chất của động lực nội tại khi viết thế này: “Mục tiêu của việc vẽ một bức tranh không phải là để làm ra một bức tranh - dù điều này nghe có vẻ khá vô lý. Bức tranh, nếu thành hình, chỉ là một sản phẩm phụ và có thể hữu ích, có giá trị và thú vị, như một dấu hiệu của những gì đã qua. Mục tiêu, thứ đứng đằng sau mọi tác phẩm nghệ thuật đích thực, là việc đạt đến một trạng thái hiện hữu, một trạng thái hoạt động cao cả, một thứ gì đó cao hơn khoảnh khắc tồn tại thông thường”. Quan điểm của Henri khá đơn giản, rằng việc được thúc đẩy từ bên trong phải gắn liền với việc dồn tất cả tâm trí vào chính bản thân hoạt động chứ không phải vào việc vươn đến một mục tiêu nào đó (dù là kiếm tiền hay vẽ một bức tranh).
Hầu hết trẻ nhỏ ở lứa tuổi chưa đến trường học hỏi không phải vì đó là công cụ để đạt được một thứ gì khác, mà bởi vì bọn trẻ hiếu kỳ, vì chúng muốn tìm hiểu. Rõ ràng, việc học hỏi của trẻ em được thúc đẩy từ bên trong, và sự say mê nồng nhiệt của chúng với việc học đại diện cho nguyên mẫu của “thứ gì đó cao hơn khoảnh khắc tồn tại thông thường”.
Mặc dù ý tưởng về động lực nội tại đối với việc học tập dường như đã nắm bắt được sự thật về hoạt động của trẻ chưa đến trường, nhưng bề ngoài mong manh của động lực nội tại này vẫn ám ảnh tôi. Và đương nhiên, bề ngoài mong manh này liên quan trực tiếp đến câu hỏi tại sao trẻ em lớn hơn không có nhiều động lực nội tại dành cho việc học như vậy. Vào năm 1969, khi suy ngẫm về điều này, tôi đã có một suy nghĩ thoáng qua - và chắc chắn là hơi báng bổ - rằng có thể tất cả những phần thưởng, luật lệ và sự đoàn thể hóa được sử dụng quá rộng rãi đã khuyến khích học sinh trở thành một đám tinh quái, thúc đẩy một trạng thái học tập không hề hào hứng mà chỉ có thờ ơ, buồn bã.
Cho rằng mình có khả năng sắp tiến tới một điều gì đó, cuối cùng tôi cũng định hình được câu hỏi của mình theo hướng có thể tiến hành một cuộc thí nghiệm để trả lời nó. Câu hỏi đó là: “Điều gì đã xảy ra với động lực nội tại của con người dành cho một hoạt động, khi họ nhận được phần thưởng từ bên ngoài cho việc thực hiện một hành động mà trước đó họ sẵn lòng làm không cần phần thưởng?”. Tôi đã quyết định sử dụng một khoản tiền làm phần thưởng để bắt đầu hoạt động mà sau này sẽ trở thành một chương trình nghiên cứu lớn.
Khía cạnh hấp dẫn của cuộc điều tra này, từ quan điểm của khoa học tâm lý, nằm ở chỗ tôi thật sự không biết liệu sự nghi ngờ của mình về tác động xấu của phần thưởng có chính xác hay không. Rõ ràng, theo “tri thức” học thuật thời điểm đó thì điều ngược lại mới đúng. Có thể động lực bên trong và phần thưởng bên ngoài sẽ kết hợp với nhau theo một cách tích cực và hữu ích, thay vì theo cách tiêu cực và đối chọi lẫn nhau. Có thể, chẳng hạn như, khi con người nhận được phần thưởng bên ngoài để làm một việc mà bản thân họ vốn dĩ đã tự thấy thú vị, thì họ càng thích thú với trải nghiệm đó hơn và muốn tiếp tục thực hiện nó. Nếu điều này hóa ra là đúng, thì tôi sẽ phải tìm hướng đi khác để trả lời câu hỏi tại sao có quá nhiều học sinh không có động lực học tập.
Với sự giúp đỡ của Victor Vroom, giáo sư cố vấn của tôi tại Carnegie Mellon, tôi đã phát triển một đề cương nghiên cứu tổng quát - gọi là một mẫu hình thực nghiệm - để khám phá câu hỏi phần thưởng đã ảnh hưởng thế nào đến động lực nội tại. Công trình này diễn ra tại phòng thí nghiệm tâm lý, một căn phòng nhỏ bé, bình thường, với vài món đồ trang trí, nơi mà mọi thứ xảy ra có thể được kiểm soát và điều khiển bởi một nhà thí nghiệm. Dĩ nhiên đó là một môi trường nhân tạo, nhưng các nhà tâm lý học chúng tôi tin rằng nó cung cấp khả năng hiểu được thế giới thực nhờ sự tương đồng. Nếu chúng tôi có thể khiến điều gì đó xảy ra trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng những tác nhân kích thích (được gọi là các yếu tố khả biến độc lập) diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, thì chúng tôi tin rằng hiện tượng tương tự cũng có thể diễn ra ở thế giới thật ngoài kia. Lợi thế của phòng thí nghiệm này là nó cho phép chúng tôi đặt ra những câu hỏi cụ thể và quan sát những câu trả lời tương đối rõ ràng. Cuối cùng, khi tìm ra những kết quả thú vị trong phòng thí nghiệm, chúng tôi có thể mạo hiểm đưa chúng vào thực địa - như trường học, nhà riêng, nơi làm việc và phòng khám - để xem liệu những phát hiện này có đứng vững được ở đó không.
Để làm thí nghiệm, tôi cần một nhiệm vụ, một việc gì đó mà các đối tượng là sinh viên đại học chắc chắn sẽ tìm thấy động lực nội tại. Một hôm, tôi tình cờ lang thang vào văn phòng của một nghiên cứu sinh đồng môn và phát hiện một bộ các khối hình kỳ lạ, một trò chơi ghép hình mới có tên là Soma, do công ty Parker Brothers sản xuất. “Trò chơi hình khối hay nhất thế giới” là lời quảng cáo về trò chơi trong tờ hướng dẫn. Bộ ghép hình này có bảy khối, mỗi khối có hình dạng khác nhau, khi lắp ghép với nhau theo một cách cụ thể thì các khối nhỏ này sẽ tạo thành một khối lập phương mỗi cạnh khoảng hơn 7cm. Ngoài ra, có hàng ngàn cách khác nhau để ghép các mảnh này thành nhiều hình khác. Một trong các mẫu của tờ hướng dẫn là “Con cún đang ngồi của Sam”, một kiểu khác là “Ghế dài”, mẫu thứ ba là “Máy bay”, và nhiều mẫu khác nữa. Hình của hai trong số bảy mảnh ghép và mẫu con cún đang ngồi được thể hiện ở trang sau.
Một vài hình mẫu khá dễ ghép, nhưng một số rất khó. Sự thú vị nằm ở chỗ sử dụng những mảnh ghép khác nhau để tạo ra những thiết kế mới, và một khi bạn làm được, cảm giác thành công sẽ xuất hiện rõ ràng. Một khi đã bắt đầu chơi trò ghép hình này thì sẽ khó để dừng lại. Ngay lập tức, tôi trở thành nô lệ của trò chơi, cứ làm hết mẫu này đến mẫu khác. Thật ra, tôi bắt đầu giải chúng trong đầu. Có vẻ như một khi đã trở nên đủ quen thuộc, bạn sẽ có thể ráp chúng trong không gian tưởng tượng, mặc dù trong lần thử sức đầu tiên, việc đó dường như là bất khả.

Soma quá hoàn hảo bởi nó rất linh hoạt cho các mục đích thí nghiệm: Cũng những mảnh ghép đó nhưng có thể tạo thành nhiều kiểu mẫu khác nhau; độ khó có thể thay đổi khi cần; và những kiểu trông có vẻ đơn giản lại là khó nhất. Nhưng tất nhiên, quan trọng hơn hết là trò chơi này mang tính thử thách và vô cùng thú vị, thử nghiệm thí điểm đã chứng minh rằng sinh viên yêu thích trò chơi này và chơi chỉ vì thấy vui. Trong thí nghiệm, đối tượng được cho xem một vài hình mẫu vẽ trên giấy, rồi họ được yêu cầu cố gắng mô phỏng lại các hình mẫu đó trong không gian ba chiều, bằng cách sử dụng những mảnh ghép thật.
Mẫu hình thí nghiệm này được triển khai với hai nhóm đối tượng: một nhóm sẽ nhận được các phần thưởng từ bên ngoài cho việc giải câu đố (hoàn thành mỗi mẫu sẽ được một đô-la - năm 1969, một đô-la rất có giá trị), nhóm thứ hai không nhận được phần thưởng nào cả. Câu hỏi trọng tâm là: Điều gì xảy ra với động lực nội tại của các đối tượng được thưởng so với động lực nội tại của nhóm đối tượng không được thưởng? Liệu động lực giải đố có tăng lên khi được trả tiền không, nó sẽ vẫn không thay đổi, hay sẽ bị giảm sút?
Đo lường động lực nội tại của các đối tượng nghiên cứu hóa ra là một vấn đề cần mưu mẹo. Đây là cách mà nó được thực hiện: Trong suốt buổi thí nghiệm, các đối tượng ngồi quanh một cái bàn, chăm chú lắp ghép trong nửa giờ đồng hồ hay khoảng đó. Rồi người điều khiển thí nghiệm sẽ báo cho các đối tượng biết thời gian giải đố đã hết, anh ta phải rời phòng trong vài phút để nhập dữ liệu vào máy tính và đợi máy tính in ra bảng hỏi để họ trả lời. Trên thực tế, người điều khiển thí nghiệm luôn rời khỏi phòng trong đúng tám phút, và phần căn bản của cuộc thí nghiệm có liên quan đến những gì các đối tượng thí nghiệm làm trong khoảng thời gian tám phút này. Trên chiếc bàn đặt gần các sinh viên có vài tờ tạp chí đáp ứng nhiều sở thích khác nhau: The New Yorker, Time,... Trong thời gian người điều khiển thí nghiệm không có ở đó, các sinh viên này có thể tiếp tục ghép hình, đọc tạp chí, hoặc, tôi đồ rằng họ còn có thể mơ màng. Và sau tám phút, người thí nghiệm quay trở lại cùng với bảng câu hỏi.
Giai đoạn quan trọng nhất của cuộc thí nghiệm không phải là thời gian người điều khiển thí nghiệm ở trong phòng, mà là khoảng thời gian anh ta không có mặt ở đó. Chính trong tám phút đó, các đối tượng có thể làm những gì họ thấy vui trong lúc chờ người làm thí nghiệm quay lại. Trong khi họ chờ đợi, chúng tôi bí mật quan sát để xác định xem họ dành bao nhiêu thời gian trong tám phút tự do đó để tiếp tục chơi trò lắp ghép. Ý tưởng là, nếu như họ dành toàn bộ thời gian tự do đó của mình để chơi trò Soma, trong khi chẳng có phần thưởng nào chờ đợi và còn nhiều hoạt động thú vị khác để lựa chọn, thì chắc hẳn họ phải có động lực nội tại dành cho trò giải đố này.
Kết quả là các sinh viên nhận được phần tiền thưởng cho trò giải đố hầu như ít mày mò các mảnh ghép “chỉ để cho vui” trong khoảng thời gian tự do. Không còn được trả tiền thì họ cũng ngừng chơi. Có vẻ như một khi đã nhận tiền thì các đối tượng thí nghiệm chỉ thực hiện việc đó vì tiền. Và thậm chí điều đó còn xảy ra với một hoạt động mà vốn dĩ ban đầu họ sẵn lòng thực hiện mà chẳng cần phần thưởng nào cả. Việc làm quen với tiền thưởng dường như đã nhanh chóng khiến các sinh viên này trở nên phụ thuộc vào phần thưởng, thay đổi góc nhìn của họ về trò chơi, từ một hoạt động tự bản chất đã tạo ra sự thỏa mãn thành một hoạt động chỉ là công cụ để đạt được phần thưởng. Dù phát hiện này gây bối rối, nhưng dưới góc độ khoa học, nó rất đáng được khích lệ. Một điều gì đó quan trọng dường như đang dần hé lộ.
Tiếp đó, tôi đã làm lại mẫu hình nghiên cứu chung đó, nhưng lần này thì đưa vào thực địa. Tôi thuyết phục biên tập viên của một tờ báo học đường giao cho tôi phụ trách phần đặt tiêu đề, vậy là tôi có thể tiếp quản một hoạt động thú vị mà sinh viên đã luôn làm miễn phí, rồi bắt đầu trả tiền cho một vài người trong số họ để làm việc đó. Nhờ vậy, tôi có thể đo lường khả năng duy trì động lực của họ khi mà, than ôi, toàn bộ quỹ tài trợ đã cạn kiệt. Mừng cho tôi, thí nghiệm thực địa này cho thấy những kết quả có thể so sánh được với kết quả từ nghiên cứu với trò chơi Soma trước đó: Một khi người ta bắt đầu được trả tiền, họ cũng đánh mất sự say mê với hoạt động. Để rồi khi phần thưởng không còn thì họ cũng không thể hiện tốt nữa.
Có lần, tôi hào hứng kể cho một người bạn nghe về các cuộc thí nghiệm này, và vài ngày sau, cậu ấy đưa cho tôi một cuốn truyện ngụ ngôn Do Thái. Câu chuyện ngụ ngôn đó đại khái thế này:
Có vẻ như những người cuồng tín rất muốn xua đuổi một người đàn ông Do Thái, là chủ một tiệm may trên phố chính, ra khỏi thị trấn, nên họ đã phái một nhóm côn đồ đến phá rối tiệm may này. Mỗi ngày, những gã lưu manh này đều xuất hiện để chế nhạo người thợ may. Tình huống khá tồi tệ, nhưng người thợ may rất mưu trí. Một hôm, khi bọn lưu manh đến, anh ta cho mỗi người một hào vì đã nỗ lực chế nhạo anh. Vui mừng, chúng buông lời lăng mạ rồi bỏ đi. Ngày hôm sau chúng quay trở lại chửi bới, mong chờ nhận được một hào nữa. Nhưng người thợ may nói rằng anh ta chỉ có thể trả năm xu thôi, rồi sau đó trao cho mỗi người năm xu. Ừ thì, chúng có chút thất vọng, nhưng năm xu rốt cuộc vẫn là năm xu, nên chúng nhận tiền, chửi bới sỉ nhục, rồi rời đi. Ngày hôm sau, chúng lại đến, người thợ may nói rằng anh ta chỉ còn có một xu để cho chúng thôi và anh chìa ra. Đầy căm phẫn, bọn lưu manh choai choai ấy cười khinh bỉ và dõng dạc tuyên bố rằng chúng chắc chắn sẽ không đời nào tốn thời gian để nhục mạ anh ta chỉ vì một xu cỏn con đó. Vậy là chúng đã không làm thế nữa. Và người thợ may được yên thân.
Trong khi làm nghiên cứu, việc quan trọng là phải nhớ rằng những phát hiện sau thử nghiệm luôn dễ bị công kích, bắt bẻ, bất kể thí nghiệm đó được lên kế hoạch và thực hiện hoàn hảo đến đâu hay kết quả thuyết phục ra sao đi nữa. Thế nên, bất cứ khi nào có ai tìm ra một kết quả mới mẻ, khác thường, hoặc gây tranh cãi, thì tốt nhất nên cố gắng đạt được kết quả đó thêm một lần nữa. Rốt cuộc, khi sử dụng các phương pháp suy luận mang tính thống kê để đưa ra kết luận về con người nói chung từ một mẫu nghiên cứu nhỏ, thì luôn có một khả năng nhỏ là chúng ta sẽ đi đến câu trả lời sai, chỉ vì vô tình, nếu như không có nguyên do đặc biệt nào khác. Sau khi chuyển sang Đại học Rochester, tôi đã thực hiện lại công trình nghiên cứu này và tìm ra cùng một kết quả: Tiền thưởng đã làm suy yếu động lực nội tại của con người.
Đương nhiên phát hiện này thật không dễ nuốt trôi đối với một vài bộ phận trong nghiên cứu tâm lý học. Dù sao, việc khẳng định rằng tiền thưởng có thể gây phản tác dụng cũng gần như là sự đả phá trắng trợn với những niềm tin lâu đời. Lập trường này cũng không được nhiều người ngoài ngành tâm lý dang tay đón nhận. Quả thật, khi các nhà nghiên cứu ở những trường đại học khác tái thực hiện và mở rộng kết quả nghiên cứu của tôi, sử dụng phần thưởng khác (giải thưởng, giải vận động viên xuất sắc, cả những buổi chiêu đãi ăn uống) và đối tượng nghiên cứu thuộc những độ tuổi khác (trẻ em mẫu giáo và học sinh trung học), thì những bài phê bình sắc bén cũng đã bắt đầu xuất hiện trên nhiều tờ báo và tạp chí.
***
Rõ ràng, tiền tạo nên một thế lực đầy uy quyền. Chắc chắn chẳng có nghi vấn nào về việc nó có thể tạo động lực cho con người. Chỉ cần nhìn xung quanh (thậm chí là tự nhìn chính mình) ta cũng có thể thấy rằng con người sẵn lòng tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau vì tiền đến mức nào. Họ buộc bản thân làm những công việc họ ghét, bởi vì họ cần tiền. Họ dính vào bài bạc, đôi khi mất hết tất cả chỉ vì niềm tin phi lý rằng họ sẽ thắng một ván lớn. Họ nhận thêm việc, khiến bản thân căng thẳng quá mức, đến độ có thể khiến họ đổ bệnh, chỉ để kiếm thêm tiền. Họ dính líu đến nhiều hoạt động bất chính khác nhau bởi lời hứa hẹn những phần thưởng hậu hĩnh. Chắc chắn rồi, đồng tiền tạo ra lực thúc đẩy, nhưng đó không phải là mấu chốt. Mấu chốt là dù đồng tiền thúc đẩy con người, nhưng nó cũng đồng thời hủy hoại động lực nội tại và, như chúng ta sẽ khám phá dưới đây, nó còn có hàng loạt tác động tiêu cực khác.
Năm 1968, nhà lý thuyết tâm lý học Richard deCharms9 đã xuất bản một quyển sách bàn về tầm quan trọng của một khái niệm mà ông gọi là nhân quả cá nhân (personal causation10). Ông tin rằng chìa khóa dẫn đến động lực nội tại là khao khát trở thành “căn nguyên” hành động của chính mình, thay vì là một “con tốt” bị những tác động bên ngoài điều khiển. Vận dụng lối suy nghĩ của ông, những cuộc thí nghiệm dường như đã đặt ra giả thuyết rằng phần thưởng làm suy yếu cảm giác nhân quả cá nhân của các đối tượng, do đó kéo theo cả sự suy yếu khao khát thể hiện quyền làm chủ bên trong họ. Phần thưởng có vẻ đã biến hành động vui chơi thành thứ gì đó bị bên ngoài điều khiển: Nó biến cuộc chơi thành công việc và biến người chơi thành con tốt.
9 Richard deCharms (sinh năm 1927) là nhà tâm lý học người Mỹ, ông giảng dạy chuyên ngành Tâm lý học và giáo dục tại Đại học Washington.
10 Personal causation là khái niệm chỉ nhận thức của một cá nhân về tác động của hành động, việc làm của mình, nhận thức này có bao gồm nhận thức về năng lực của bản thân, là sự đánh giá của chính cá nhân đó về năng lực thể chất, trí tuệ, năng lực xã hội và hiệu suất công việc của mình.
Hãy giả định rằng những thí nghiệm này thật sự đã khoanh vùng được một hiện tượng quan trọng và xem các kết quả thí nghiệm này có liên quan đến những vấn đề đã xuất hiện ở chương đầu như thế nào. Dĩ nhiên, bạn có thể phản đối việc tôi ngoại suy từ một vài thí nghiệm đơn giản trong phòng thực nghiệm tâm lý để khẳng định những vấn đề như vậy, nhưng hãy gác lại sự phản đối đó đã, bởi vì cũng đến lúc nhiều nghiên cứu khác được thực hiện trong nhiều môi trường khác nhau sẽ củng cố thêm cho kết quả này.
Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng khi đối tượng bắt đầu được trả công để chơi trò ghép hình thú vị đó, thì họ đã đánh mất hứng thú với nó. Mặc dù họ sẽ tiếp tục chơi ghép hình vì tiền - như nhiều người tiếp tục làm đủ mọi kiểu hoạt động vì tiền - nhưng mối quan hệ của họ với hoạt động đã trở nên gượng ép và chỉ còn mang tính công cụ. Hãy nghĩ về điều đó xem. Một mối quan hệ đầy gượng ép và mang tính phương tiện với hoạt động là dấu hiệu chắc chắn của trạng thái được gọi là sự tha hóa. Về bản chất, tôi đã thúc đẩy sự tha hóa ở những đối tượng này trong một thí nghiệm ngắn và có vẻ vô thưởng vô phạt. Và nếu điều đó là thật thì đồng tiền đang làm gì với con người trong thế giới thật, nơi mà nó nắm giữ sức mạnh quá lớn?
Con người ngày nay làm việc quá nhiều. Theo Viện Chính sách Kinh tế, hiện tại thời gian làm việc trung bình mỗi năm nhiều hơn 158 giờ đồng hồ so với thời điểm thí nghiệm động lực nội tại đầu tiên này được thực hiện - nhiều hơn tới một tháng xét so với công việc được xem là toàn thời gian ở năm 1969. Chuyện này thật sự khác thường. Thử tưởng tượng một vị vua nói với thần dân của mình rằng họ phải bắt đầu làm thêm 158 giờ mỗi năm. Chắc chắn sẽ có một cuộc đảo chính ngay tại cung điện trừ khi quân đội của ông ta cực kỳ mạnh. Nhưng việc tăng giờ làm đó thực tế đã xảy ra ở xã hội chúng ta chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, mà không hề có bất kỳ cuộc đảo chính nào cả.
Thứ quyền lực khiến cho điều này xảy ra không phải là sự ép buộc - cũng chẳng phải là quân đội của nhà vua - mà chính là khả năng cám dỗ của ông hoàng đô-la, cùng với những quá trình xã hội hóa đã giúp đồng đô-la lên ngôi. Tiền quả thật là một kẻ quyến rũ, và nó có vẻ liên quan mật thiết với quyền lực không tên mà Charles Reich đã nói đến. Khi một lực lượng quần chúng đông đảo nổi dậy chống lại chính quyền truyền thống chỉ trong một khoảng thời gian ngắn vào thập niên 1960, sức mạnh của đồng tiền dường như đã giảm bớt rất nhiều. Nhưng thời kỳ đó đã là dĩ vãng, việc kéo dài thời gian làm việc mỗi năm đã kéo theo vô vàn căng thẳng và những cái giá phải trả cho mỗi cá nhân.
Các cuộc thí nghiệm của chúng tôi cung cấp một phương tiện khoa học để bắt đầu trình bày tường tận những cái giá này một cách cụ thể. Cái giá đầu tiên là con người mất đi niềm hứng thú trong nhiều hoạt động. Họ bắt đầu xem các hoạt động đơn thuần là công cụ để đạt được phần thưởng bằng tiền tài, vậy nên họ mất đi sự hào hứng và sức sống mà họ từng dành cho những hoạt động đó. Theo một nghĩa quan trọng, phát hiện này thống nhất với ý kiến cho rằng con người đang mất kết nối với bản ngã bên trong khi họ dần bị những phần thưởng bằng tiền điều khiển. Chính vì vậy, những thí nghiệm đơn giản này có thể đã bắt đầu chỉ ra một hiện tượng sâu sắc trong mối quan hệ giữa con người bên trong và những thôi thúc của xã hội.
Khi con người nói về sự điều khiển, họ thường có ý nói về sự ép buộc - tức là sự kiểm soát thông qua quyền lực và đe dọa. Hầu hết mọi người đều thấy dễ dàng chấp nhận rằng việc sử dụng quyền lực có thể gây ra những hệ quả tiêu cực. Những kẻ độc tài thích điều khiển, và họ bị khinh thường. Thế nhưng đồng tiền cũng điều khiển con người. Khi người ta nói rằng đồng tiền tạo ra động lực, thì điều họ thật sự muốn nói là đồng tiền điều khiển con người. Khi điều đó xảy ra, con người trở nên tha hóa - họ từ bỏ phần nào con người chân thật của mình - và họ tự thúc ép bản thân làm những gì họ nghĩ là phải làm. Người ta chấp nhận ý nghĩa của sự tha hóa là nó bắt đầu khi con người mất kết nối với động lực nội tại của họ, với sức sống và sự hào hứng mà mọi đứa trẻ đều sở hữu, với việc thực hiện một hoạt động vì chính bản thân hoạt động đó, với trạng thái mà Robert Henri gọi là “cao hơn khoảnh khắc tồn tại thông thường”.