Mặc dù các thí nghiệm ban đầu đã nêu rõ một vài hệ quả tiêu cực của việc sử dụng phần thưởng làm động lực, nhưng hoạt động nghiên cứu này cũng chỉ đang ở bước đầu, vì vẫn còn vô số câu hỏi mà các thí nghiệm được thiết kế cẩn trọng trong phòng thí nghiệm và các nghiên cứu thực địa đã nhắc đến.
Tuy nhiên, để tiếp tục thì cần thực hiện một mô tả lý thuyết đầy đủ hơn về những gì xảy ra trong các thí nghiệm phần thưởng, nhằm có thể dùng mô tả đó để đưa ra những giả thuyết xa hơn. Tại sao động lực nội tại - sức sống, sự tự nguyện, tính chân thật và hiếu kỳ vốn nằm trong bản chất của con người - lại có thể bị những phần thưởng bên ngoài làm suy yếu?
Quan niệm của deCharms rằng con người nỗ lực là vì nhân quả cá nhân - rằng họ cố gắng để cảm thấy mình là căn nguyên của hành vi mình thực hiện - có thể xem là điểm xuất phát, và sự đóng góp của những người khác như nhà tâm lý học nhân cách Henry Murray11 đã giúp hoàn thiện bức tranh khái niệm này. Murray cho rằng con người có những nhu cầu về tâm trí cũng giống như nhu cầu về thể xác. Có lẽ có một nhu cầu bẩm sinh hay nội tại muốn cảm nhận được sự tự chủ cá nhân hay quyền tự quyết - cảm nhận được điều mà deCharms gọi là nhân quả cá nhân. Điều đó có nghĩa là con người cần cảm thấy rằng hành vi của họ thật sự do chính họ lựa chọn hơn là do những nguyên nhân bên ngoài - rằng nơi khởi đầu hành vi của họ nằm trong chính bản thân họ hơn là trong sự kiểm soát bên ngoài. Đây là một quan điểm tương đối mơ hồ, nhưng ý nghĩa của nó lại rất sâu sắc. Ẩn ý trong nhu cầu cảm nhận được sự tự chủ của con người chính là việc không thỏa mãn được nhu cầu đó, cũng giống như khi không giải quyết được nhu cầu đói khát, có thể làm suy giảm hạnh phúc - cùng hàng loạt hệ quả không thể thích nghi.
11 Henry Murray (1893-1988), tên đầy đủ là Henry Alexander Murray, là nhà tâm lý học người Mỹ, chuyên nghiên cứu về nhân cách của con người. Ông nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Harvard.
Vậy thì giả thuyết ở đây là bất kỳ biến cố nào làm suy yếu cảm giác tự chủ của con người - khiến họ có cảm giác bị điều khiển - cũng sẽ làm giảm sút động lực nội tại của họ và có nhiều khả năng dẫn đến những hệ quả tiêu cực khác. Bước tiếp theo trong chương trình nghiên cứu đã trở nên khá rõ ràng: Cần quyết định xem các sự kiện hay tình huống nào khác có thể làm suy yếu động lực nội tại. Nói cách khác, sự kiện nào, ngoài việc trao thưởng, có khả năng được con người hiểu là sự kiểm soát - tức hạn chế quyền tự chủ của họ?
Ứng cử viên sáng giá nhất, một nhân tố thúc đẩy được sử dụng rộng rãi mà hẳn con người luôn xem như sự điều khiển: Đó chính là đe dọa. Con người lúc nào cũng đe dọa người khác - nếu con không học thì con không được xem ti-vi; nếu không đi làm đúng giờ, cậu sẽ bị đuổi việc - và họ cho rằng nó là một chiến lược thúc đẩy hiệu quả. Đương nhiên, một lời đe dọa không chỉ hướng đến hình phạt, mà thay vào đó, nó thúc đẩy con người thông qua mong muốn không bị phạt.
Cũng sử dụng cùng mô hình Soma trong thí nghiệm về tiền bạc, chúng tôi thúc đẩy các đối tượng chơi trò lắp ghép bằng cách đe dọa sẽ trừng phạt nếu họ không làm tốt. Tuy họ đã làm vừa đủ để không bị phạt, nhưng dù sao đó vẫn là một trải nghiệm tiêu cực. Trên thực tế, sự đe dọa cũng giống như tiền vậy, nó khích lệ họ cố gắng giải trò chơi lắp ghép, nhưng cũng tước đoạt khỏi họ mong muốn tham gia vào một hoạt động vui chơi vì chính bản thân hoạt động đó.
Một số nhà nghiên cứu khác như Mark Lepper và các đồng sự của ông tại Đại học Stanford đã thêm vào danh sách các sự kiện mang lại hệ quả tiêu cực tương tự. Những kỳ hạn, mục tiêu bị áp đặt, sự giám sát và đánh giá đều được xem là những yếu tố hủy hoại động lực nội tại. Dĩ nhiên điều này có lý, vì tất cả chúng đều đại diện cho những chiến lược thường xuyên được sử dụng để gây áp lực và điều khiển con người. Người ta trải nghiệm chúng như sự tương phản với quyền tự chủ của họ, vì vậy mà những sự kiện này làm kiệt quệ nhiệt huyết và niềm say mê của con người dành cho các hoạt động bị kiểm soát.
Khi tôi mới bắt đầu giảng dạy chuyên đề ở Đại học Rochester, có lần, một sinh viên đã đặt ra vấn đề về sự cạnh tranh. Sự cạnh tranh rõ ràng là một trong những trụ cột của nền văn hóa Mỹ. Cứ mỗi cuối tuần lại có mười triệu người tụ họp quanh ti-vi để xem các cuộc thi đấu thể thao. Việc khuyến khích nhân viên cạnh tranh với nhau để xem ai bán được nhiều nhất hay ai có các bản báo cáo dịch vụ khách hàng hay nhất là một cách thức tạo động lực điển hình trong nền văn hóa chúng ta. Chắc chắn không thể sai khi nói rằng sự cạnh tranh ít nhiều tạo ra sức mạnh thúc đẩy, nhưng nó liên quan thế nào với những khao khát khó thấy hơn, khi các cá nhân muốn tự thúc đẩy bản thân và có được cảm giác tự chủ?
Một sinh viên trong buổi giảng chuyên đề đó đã đặt ra giả thuyết rằng sự cạnh tranh sẽ làm cho con người chỉ tập trung vào việc giành chiến thắng thay vì chú tâm vào bản thân hoạt động, rất giống với trường hợp phần thưởng khiến người ta không còn chú ý đến hoạt động. Thêm nữa, cạnh tranh có thể tạo ra một áp lực đẩy con người về phía những đích đến cụ thể và xa rời bản thân hoạt động. Nếu đúng là vậy thì nó cũng có thể làm xói mòn động lực nội tại. Một số vận động viên trong giảng đường hôm đó nghĩ rằng ý tưởng trên thật phi lý. Bởi vì theo họ, sự cạnh tranh kích thích động lực nội tại. Vậy nên chúng tôi quyết định đưa câu hỏi này vào phòng thí nghiệm.
Chúng tôi điều chỉnh mô hình thí nghiệm với trò Soma cho phù hợp với câu hỏi đang được đặt ra. Các đối tượng thí nghiệm sẽ giải ba hình mẫu lắp ghép với sự có mặt của một người hỗ trợ thí nghiệm đang đóng giả đối tượng thí nghiệm thứ hai. Một nửa số đối tượng được thông báo rằng nhiệm vụ của họ là chiến thắng cuộc thi - đánh bại đối thủ bằng cách giải câu đố nhanh hơn. Nửa còn lại đơn giản được yêu cầu giải càng nhanh càng tốt; không nhắc gì đến việc thi thố hay chiến thắng.
Người đóng giả luôn để đối tượng thí nghiệm thật làm xong trước, mà trong môi trường cạnh tranh thì có nghĩa là đối tượng đã thắng cả ba màn thi đấu. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng những đối tượng thi thố thể hiện ít động lực nội tại sau cuộc thi hơn những người chỉ đơn giản được yêu cầu làm hết sức có thể. Trải nghiệm cạnh tranh đã làm xói mòn động lực nội tại dành cho hoạt động thú vị này. Rõ ràng, họ cảm thấy bị cuộc thi gây áp lực và điều khiển (dù họ giành chiến thắng) và dường như điều đó đã làm vơi đi mong muốn được giải đố chỉ vì niềm vui mà nó mang lại.
Mặc dù khá thú vị, nhưng toàn bộ những kết quả này lại tương đối đáng lo ngại, bởi vì tất cả các sự kiện được phát hiện là sẽ làm suy yếu động lực nội tại lại chính là những sự kiện mà hầu hết mọi người thường xuyên gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Những quyền lực kia - tiếng chuông đồng hồ báo thức, áp lực đưa bọn trẻ đến trường đúng giờ và người lớn thì không trễ làm, phần thưởng, các kỳ hạn, những sự đe dọa, đánh giá mà họ phải đối mặt khi làm việc - đều là các khía cạnh của cuộc sống mà rõ ràng có thể khiến con người cảm thấy như bị thúc sau lưng và bản thân mình thì giống như những con tốt.
Đến đây, một câu hỏi hiển nhiên nảy sinh. Có phải tất cả các kết quả nghiên cứu này ngụ ý rằng, để không làm suy yếu động lực nội tại thì con người nên được phép làm bất cứ điều gì họ muốn? May mắn thay, nó không có ý đó. Nhưng trước khi có thể giải quyết vấn đề khó nhằn về việc làm sao đưa ra cấu trúc và xác định giới hạn cho hành vi mà không giết chết tinh thần của một người, chúng ta cần chú ý đến điều ngược lại với những gì vừa tường thuật. Chúng ta cần cân nhắc xem những yếu tố nào có thể làm tăng động lực nội tại.
Có vẻ như nếu việc điều khiển con người - tức là ép buộc họ cư xử theo một cách cụ thể nào đó - khiến họ bị giảm cảm giác tự quyết, thì việc cho họ lựa chọn cách cư xử hẳn sẽ làm tăng cảm giác đó. Một số đồng nghiệp đã cùng tôi kiểm tra linh cảm này. Chúng tôi đã sử dụng một biến thể của mẫu hình lắp ghép giải đố lần nữa. Một nhóm được lựa chọn hình mẫu nào họ muốn giải cũng như thời gian dành cho mỗi mẫu. Nhóm còn lại được chỉ định giải các mẫu nhất định và giới hạn thời gian tương ứng với các đối tượng trong nhóm đầu tiên đã chọn.
Một bức tranh toàn diện đang dần xuất hiện từ những thí nghiệm này - đúng như mong đợi, các đối tượng được phép đưa ra những lựa chọn đơn giản đã dành nhiều thời gian để chơi đùa với những mảnh ghép và báo cáo rằng họ thích trò chơi này nhiều hơn những đối tượng không được phép lựa chọn. Việc có cơ hội đưa ra những lựa chọn dù nhỏ bé cũng đã tạo ra sự khác biệt trong trải nghiệm và củng cố thêm động lực nội tại của họ.
Một lần nữa, sự đối nghịch giữa tự chủ và kiểm soát, với những sắc thái khác nhau của nó, chính là trọng tâm của vấn đề. Người được yêu cầu thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nhưng được tự do lên tiếng về cách thực hiện nó sẽ toàn tâm toàn ý với hoạt động - họ thích nó - hơn là những người không được đối xử như những cá nhân độc lập.
Người ta cứ mãi nói rằng con người cần được kiểm soát nhiều hơn, rằng họ cần được bảo cho biết phải làm gì và chịu trách nhiệm làm những việc đó. Nhưng chẳng có gì trong những cuộc thí nghiệm này cho thấy quan điểm đó là tình trạng điển hình của cuộc sống. Đương nhiên, việc đặt ra giới hạn là rất quan trọng, như chúng ta sẽ thấy, nhưng quá coi trọng sự kiểm soát và kỷ luật dường như cũng không đúng đắn. Nó đại diện cho cách mô tả hạ thấp giá trị trải nghiệm của con người, và chức năng cơ bản của nó có lẽ chỉ là cung cấp cho những người nào đó một sự giải thích duy lý, dễ dãi để áp đặt quyền lực lên người khác.
Trao quyền lựa chọn, theo đúng nghĩa rộng của thuật ngữ này, là khía cạnh trung tâm trong việc ủng hộ quyền tự chủ của một người. Chính vì vậy, những người ở vị thế có uy quyền cần phải bắt đầu cân nhắc về cách trao đi nhiều quyền lựa chọn hơn. Ngay cả trong những lớp học chật ních, những văn phòng tất bật hay những phòng khám đầy phiền nhiễu cũng vẫn có nhiều cách, và cách nào càng sáng tạo, thì khả năng người ta tìm ra nó sẽ càng cao. Chẳng hạn, tại sao không để cho sinh viên được chọn tham gia những chuyến đi thực tế và viết bài luận về chủ đề mà họ muốn? Tại sao không để cho nhóm làm việc tham gia vào việc quyết định cách phân chia trách nhiệm? Và tại sao không để bệnh nhân cùng lên kế hoạch cho phác đồ điều trị của họ? Việc trao quyền lựa chọn không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng bạn sẽ ngày càng thấy rõ rằng luôn có những lợi thế tích cực nếu làm vậy.
Điều cốt yếu của một lựa chọn có ý nghĩa là nó sinh ra sự tự nguyện. Nó khuyến khích con người đồng tình tuyệt đối với những gì họ đang làm; nó kéo họ vào trong hoạt động và giúp họ cảm thấy tự nguyện hơn; nó làm giảm bớt sự tha hóa ở họ. Khi bạn cho một người quyền lựa chọn, nó sẽ khiến họ có cảm giác như bạn sẵn sàng đáp lại họ với tư cách những cá nhân bình đẳng. Và trao quyền lựa chọn có thể sẽ đem lại nhiều giải pháp tốt hơn, khả thi hơn là những giải pháp mà bạn có thể đã áp đặt.
***
Có một người kể cho tôi nghe câu chuyện về người dì của anh ta. Bà đã uống thuốc tăng huyết áp trong nhiều năm - hay đúng hơn, bà có nhiệm vụ phải uống thuốc suốt nhiều năm. Nhưng bà chưa bao giờ giỏi về khoản tuân theo chỉ định, và kết quả là bà thường xuyên phải vào phòng cấp cứu trong tình trạng bất tỉnh, đột quỵ nhẹ và đau ngực. Bác sĩ của bà có lúc khá gắt gao với bà vì điều này. Ông ta kê đơn thuốc, dặn dò rằng bà phải uống mỗi buổi sáng và còn nhấn mạnh những điều tồi tệ có thể xảy ra nếu như bà không uống theo đúng chỉ định. Thế nhưng bà vẫn không uống theo đúng chỉ định và dĩ nhiên vài điều tồi tệ (may mắn là không phải những điều tồi tệ nhất) đã xảy ra với bà. Trong một cuộc trò chuyện vài năm trước, người cháu có hỏi tại sao bà không uống thuốc mỗi buổi sáng. Bà bảo rằng chỉ là bà không bao giờ nhớ nổi việc đó thôi.
Mới đây anh ta gặp lại dì, bà nói rằng mình đã làm tốt hơn trước nhiều. Bà đã uống thuốc đàng hoàng và không phải đi cấp cứu suốt nhiều tháng nay. Điều gì đã thay đổi? À, có một điều thay đổi, bà đã đổi bác sĩ. Và bà nói rằng bà thích vị bác sĩ mới này hơn. Điều thú vị là vị bác sĩ mới này đã nói chuyện với bà rất lâu về thuốc men và trong buổi nói chuyện đó, ông đã hỏi bà thấy thời gian nào trong ngày sẽ tiện nhất để uống thuốc. (Về mặt y học, điều này thật sự không gây ra vấn đề gì). Bà nghĩ một lúc rồi trả lời rằng: “Buổi tối, ngay trước khi tôi đi ngủ”. Bà nói nếu uống vào giờ đó thì bà có thể tập thành thói quen. Bà luôn uống một ly sữa trước khi đi ngủ và có thể uống thuốc cùng với ly sữa này. Mọi thứ nghe ra rất hợp lý. Bác sĩ của bà đã cho bà tự chọn cách giải quyết việc uống thuốc và điều đó đã tạo ra một thay đổi lớn. Giờ thì bà uống thuốc đều đặn mỗi ngày và bệnh tật ít quấy nhiễu cuộc sống của bà hơn.
Khi bác sĩ cho người phụ nữ này được lựa chọn, dường như có hai điều khiến bà thực hiện một cách có trách nhiệm hơn. Thứ nhất, bà có thể tự tổ chức nhiệm vụ này theo những đặc tính của riêng mình (thói quen uống một ly sữa mỗi đêm). Nói cách khác, lịch uống thuốc được lựa chọn khả thi với bà hơn. Và thứ hai, người phụ nữ này cảm thấy được hồi đáp - được trao quyền thật sự - qua cơ hội lựa chọn. Động lực cố hữu tăng lên vì quyền lựa chọn đã truyền sức mạnh cho sự tự chủ của bà. Dĩ nhiên có những lúc bác sĩ nên tự quyết định, bởi vì họ mới là người có chuyên môn, nhưng nếu họ trao quyền lựa chọn bất cứ khi nào có thể thì những tác động tích cực đến động lực sẽ có khả năng xảy ra.
Tất nhiên khi đưa ra đề nghị lựa chọn, người được lựa chọn cần phải có những thông tin cần thiết để đưa ra một quyết định ý nghĩa. Một kế toán viên hỏi bạn có muốn xử lý khoản khấu trừ tiềm năng hay không nhưng không trình bày toàn bộ thông tin bạn cần biết để đưa ra một quyết định thận trọng, thì vẫn chưa trao cho bạn một quyền lựa chọn có ý nghĩa. “Nó có thật sự hợp pháp không, hay nó đang lợi dụng các khe hở pháp luật?”; “Nó có liên quan gì đến các mục khác của tờ khai hoàn thuế?”,… Để trải nghiệm cảm giác lựa chọn, bạn cần phải biết (hoặc có thể tìm ra) các khả năng, ràng buộc, những khía cạnh tiềm tàng. Nếu không có những thông tin như vậy thì sự lựa chọn sẽ giống như một gánh nặng hơn là giúp tăng thêm cảm giác tự chủ. Nó cũng có thể gây ra lo lắng, và vì không đủ thông tin, con người có nhiều khả năng mắc phải sai lầm hơn.
***
Năm 1977, Richard Ryan chuyển đến Đại học Rochester. Nền tảng vững chắc về triết học và phân tâm học của anh đã bổ sung cho vốn kiến thức toán học và tâm lý học thực nghiệm của tôi. Chúng tôi nhanh chóng khám phá ra rằng, dù tiếp cận vấn đề từ nhiều hướng khác nhau, nhưng chúng tôi có chung một mối quan tâm cơ bản đối với những vấn đề tâm lý học về tự do và tự chỉnh đốn của con người, những thắc mắc về sự chân thật, trách nhiệm và sự tha hóa. Vậy nên chúng tôi đã ngay lập tức bắt đầu hợp tác nghiên cứu cùng nhau.
Trong một cuộc thảo luận ban đầu, Ryan tập trung vào luận điểm cho rằng tác động của phần thưởng sẽ tùy thuộc vào cách người ta hiểu nó - vào ý nghĩa tâm lý của nó đối với người đó. Những nghiên cứu có trước đã thể hiện rõ rằng con người thường xuyên hiểu phần thưởng là sự điều khiển, là phương tiện ép buộc họ phải hành xử theo những cách cụ thể. Nhưng có vẻ như ở những tình huống phù hợp, con người sẽ trải nghiệm phần thưởng đơn thuần là sự công nhận của người khác khi họ làm tốt một việc gì đó. Ryan giả thuyết, nếu điều đó là đúng thì việc trao thưởng theo cách không làm xói mòn động lực nội tại phải là điều khả thi.
Điều mà Ryan nghĩ có thể tạo nên sự khác biệt chính là ý định và phong cách của người trao thưởng. Phần thưởng thường được người ta sử dụng để thị uy với người khác. Họ trao thưởng với ý định kiểm soát - hay nói một cách hoa mỹ là “tạo động lực” - vậy nên người nhận có khả năng sẽ xem việc nhận thưởng như là bị kiểm soát.
Lấy một ví dụ không mấy vui vẻ, hãy hình dung một sinh viên đại học lớn lên trong một gia đình khá giả ở ngoại ô thành phố New York. Cha mẹ cậu ta đều là luật sư và họ muốn cậu cũng trở thành một luật sư. Như kỳ vọng, cậu tham gia một khóa dự bị về luật, nhưng chẳng mấy chốc cậu nhận ra rằng tình yêu thật sự của cậu là phim ảnh. Khi nói chuyện với cha mẹ trong một kỳ nghỉ, cậu đã bộc bạch mong muốn được chuyển ngành. Câu trả lời rõ là lạnh nhạt. “Được thôi”, cha mẹ cậu nói, “nhưng con phải tự lo liệu lấy. Cha mẹ sẽ không trả tiền học phí cho con nữa nếu như đó là cách con định tiêu phí những năm tháng đại học của mình”.
Mặc dù những người phụ huynh này đã cho con trai họ một cơ hội đặc biệt (và đắt đỏ) để học tại một trường đại học xuất sắc, nhưng đúng là ẩn sau điều đó còn là một sự kiểm soát. Họ không xem tiền bạc là nguồn lực chung của gia đình, mà là một thứ có thể sử dụng để uốn nắn con trai theo những gì họ muốn. Và có thể những ý định của họ bằng cách nào đó đã được truyền đạt, dù chỉ rất mơ hồ. Tối hậu thư về chuyện học phí đã đẩy mối quan hệ giữa hai vị phụ huynh và con trai lên đến mức cực kỳ căng thẳng, và vì lợi ích của mình, cậu con trai đã tự giữ khoảng cách cảm xúc với cha mẹ.
Mặc cho những ví dụ kiểu như vậy, Ryan vẫn cho rằng thay vì có ý định kiểm soát, nếu người trao thưởng xem phần thưởng đơn giản là một sự công nhận - như một chỉ báo của thành tựu - thì có khả năng người tiếp nhận sẽ không cảm thấy đó là sự kiểm soát.
Ý định thật sự của con người trong việc trao thưởng có thể được truyền tải bằng phong cách và những lời lẽ mà họ thể hiện trong khi trao phần thưởng đó. Do vậy, Ryan quyết định thực hiện một nghiên cứu mà trong đó, phần thưởng sẽ được trao theo hai phong cách liên cá nhân khác nhau. Một là kiểm soát, truyền đạt bằng những từ như “nên” và “phải”, cách còn lại là không kiểm soát - bình đẳng hơn, như bạn sẽ xem dưới đây.
Ryan tập huấn cho những người thực hiện thí nghiệm cách thể hiện hai hoàn cảnh liên cá nhân khác nhau mà trẻ em có thể gặp ở nhà, hoặc nhân viên gặp ở văn phòng, và kết quả cho thấy Ryan quả thật đã đúng. Cách tiếp cận này thật sự có giá trị. Khi những phần thưởng được trao đi theo cách kiểm soát người khác, về căn bản chúng đã gây ra một tác động tiêu cực lên động lực nội tại, chúng khiến người ta cảm thấy thêm áp lực và ít thích thú hơn. Nhưng khi chúng được trao đi theo cách không kiểm soát, mà đơn giản chỉ là công nhận họ đã làm tốt, thì chúng không gây ra ảnh hưởng bất lợi. Vì vậy, những kết quả này có vẻ đang nói lên rằng ý định kiểm soát bằng phần thưởng sẽ phá hủy nỗ lực thúc đẩy người khác - hủy hoại chính thứ động lực mà họ đang định thúc đẩy.
Thực tế, phát hiện này khẳng định rằng việc trao thưởng theo cách giảm thiểu những tác động tiêu cực là khả thi. Khi người ta tặng những phần thưởng mà không có ý định kiểm soát ai thì khả năng những phần thưởng này gây hại sẽ thấp hơn. Tuy nhiên, đây lại là một vấn đề khá phức tạp, bởi vì người ta phải ghép cặp phát hiện này với sự thật rằng trong những nghiên cứu về phần thưởng trước đây, các nhà thực nghiệm đã chấp nhận một lập trường rất trung lập, và dù vậy, phần thưởng vẫn làm suy yếu động lực. Điều đó có nghĩa là người ta đã chia bài gian lận để có lợi cho một phía, rằng phần thưởng đúng là có xu hướng mang ý nghĩa kiểm soát với con người. Đúng, phần thưởng có thể được sử dụng theo cách không gây bất lợi cho động lực nội tại - cho sức sống bẩm sinh - nhưng những người trao phần thưởng đó phải vô cùng cẩn thận trong cách sử dụng phần thưởng để chống lại kiểu tác động dễ xảy ra nhất - thứ vốn mang tính tiêu cực.
Tôi có một người bạn - cô bé Lisa sáu tuổi, bé đã học violin được gần một năm. Nó là loại nhạc cụ duy nhất được dạy ở trường học trong thành phố nhỏ bé của Lisa, nhiều bạn bè của cô bé cũng tham gia khóa học này. Lisa là một đứa trẻ cầu toàn, và mặc dù cha mẹ luôn nhiệt thành chấp nhận và cổ vũ con, nhưng cô bé vẫn cực kỳ khắc nghiệt với bản thân mỗi khi làm gì thất bại.
Khi mới bắt đầu khóa học, cô bé thường căng thẳng về việc luyện tập, dù chơi thế nào cô bé cũng cảm thấy không đủ hay. Cô bé bắt đầu kháng cự việc tập luyện để tránh sự mâu thuẫn nội tâm mà cảm giác đó gây ra. Vài tháng sau khi khóa học bắt đầu, giáo viên giới thiệu một phương pháp mới để thúc đẩy học sinh luyện tập nhiều hơn. Học sinh sẽ được một ngôi sao khi tập đủ một khoảng thời gian nhất định mỗi tuần, và khi tích đủ sao, các em sẽ nhận được một “báu vật”. Thú vị là, Lisa dường như lại bớt kháng cự với các buổi tập. Cô bé vẫn có vẻ căng thẳng về việc thực hành thực tế, nhưng ít lảng tránh các buổi tập hơn.
Bước ngoặt này làm tôi tò mò. Việc phân chia khoảng thời gian cụ thể mà cô bé nên luyện tập, cùng với lời hứa tặng phần thưởng nếu làm theo, dường như đã khiến cho Lisa thấy dễ dàng hơn. Sau khi tập xong trong một thời gian cụ thể, cô bé có thể ngừng và thấy rằng mình đã luyện tập đủ rồi. Nhưng có một điều khác lạ bắt đầu xảy ra trong những buổi tập; Lisa cứ nhìn đồng hồ. Cô bé không còn say mê với chiếc đàn nữa mà quan tâm đến việc hoàn thành các buổi tập hơn.
Vào một ngày Chủ nhật vài tháng sau đó, Lisa nhắc đi nhắc lại với cha mẹ rằng cô bé phải tập đàn, nhưng dường như cũng ít tỏ vẻ hào hứng hơn so với dạo gần đây. Mẹ cô bé bảo: “Được rồi, vậy thì đi tập thôi”. Như mọi khi, mẹ ngồi cạnh Lisa trong khi tập, nhưng mọi chuyện lại không hề tốt đẹp. Lisa đùa giỡn nhiều hơn là nghiêm túc luyện tập. Cô bé tùy tiện đàn những phần vu vơ và chỉ muốn chơi những phần dễ dàng. Tuy nhiên, mẹ động viên Lisa rằng phải kiên trì. Vì thế, Lisa đã thử chơi một bài mới, đàn sai, rồi cô bé bắt đầu khóc. Sự căng thẳng hiện diện thật rõ ràng.
Lát sau, cha Lisa vào phòng để giải vây cho vợ. Ông bảo cô bé: “Giờ cất đàn đi. Tối mai con có thể tập lại, rồi cha sẽ ngồi với con”. Lisa la lên đầy kích động: “Không, con phải tập liền bây giờ!”. Rồi cô bé cầm đàn lên và bắt đầu tập. Gần như lập tức, cô bé lại đàn sai và rối tung lên. Cha Lisa lấy cây đàn, đặt nó lên kệ phía bên kia phòng. Ông để cô bé bày tỏ sự bực dọc trong vài phút, rồi bắt đầu trò chuyện nhẹ nhàng. Ông muốn biết vì sao Lisa lại tự gây quá nhiều áp lực cho bản thân.
“Tại sao con nhất định phải tập trong hôm nay?”, ông hỏi. Dĩ nhiên ông cũng phải dỗ dành và trò chuyện đôi chút trước khi đi vào vấn đề này. Cuối cùng Lisa cũng tiết lộ rằng nếu không tập thì cô bé sẽ không nhận được ngôi sao, và nếu không nhận được ngôi sao này thì các bạn sẽ lấy được báu vật còn Lisa thì không. Cường độ áp lực mà đứa trẻ sáu tuổi này tự đặt ra cho bản thân mình khi giáo viên sử dụng một “sự khích lệ” thật đáng kinh ngạc.
Cha Lisa hỏi con “báu vật” đó là gì. Cô bé không biết, nhưng cha bé nói rằng bất kể nó là gì đi nữa, nếu giáo viên dạy đàn không phát cho Lisa thì ông sẽ mua một cái cho cô bé. Lisa sửng sốt hỏi lại: “Ý cha là con không cần phải tập cũng có được báu vật đó ạ?”. “Đúng, con có thể có nó dù có tập hay không?”. Sự căng thẳng đã được trút bỏ rất nhiều và việc luyện tập của cô bé cũng trở nên dễ dàng hơn. Rốt cuộc thì cô bé cũng có thể chơi đàn thật vui.
Những người tán thành việc sử dụng phần thưởng để thúc đẩy trẻ em thường kể những chuyện giống như nửa đầu của câu chuyện trên - treo thưởng để giúp bọn trẻ tập đàn, làm việc nhà, hoàn thành bài tập về nhà hay bất cứ điều gì khác. Tôi luôn có chút hoài nghi dù biết không phải phần thưởng nào cũng xấu. Tôi hoài nghi bởi vì rõ ràng các phần thưởng thường mang lại những hệ quả tiêu cực, dù không định trước, mà những người ủng hộ nó thường không sẵn sàng thừa nhận. Phần thưởng có thể đảm bảo cho những hành vi nhất định - như tập đàn thường xuyên hơn - nhưng hành vi mà nó đảm bảo không thật sự là bản thân chúng ta sau này. Trường hợp của Lisa là một minh chứng rõ ràng.
Thoạt đầu, việc đưa ra cấu trúc phần thưởng đã giúp ích vì nó cho cô bé thông tin rằng tập bao lâu là đủ. Nhưng chỉ cần thảo luận đôi chút và lên cấu trúc, mà không cần đến phần thưởng, cũng có thể đáp ứng tốt. Nói cách khác, một cuộc thương thảo về thời gian là đủ để đạt được mục đích vượt qua sự kháng cự ban đầu của cô bé - mà không gây ra những tác động tiêu cực như vậy.
Việc trao thưởng theo cách không điều khiển người khác đòi hỏi một sự trung thực đến tột cùng, mà thường vượt quá giới hạn của con người. Chẳng hạn, người ta nói rằng họ không cố gắng ép con vào khuôn khổ, rằng họ đơn giản chỉ đang thể hiện sự khen ngợi, dạy dỗ con bằng cách nêu gương, hay đang cho bọn trẻ thứ gì đó mà chúng thật sự muốn hay cần. Nhưng nếu suy nghĩ một cách thấu đáo, ta thường sẽ thấy rằng thật ra, người lớn đang dùng những phần thưởng đó để gây áp lực lên con trẻ, kể cả khi điều mà họ đang ép con làm có thể là những gì tốt nhất cho trẻ. Câu hỏi đích thực mà tất cả những điều này đặt ra là liệu gây áp lực bằng phần thưởng với trẻ em để chúng làm gì đó tốt cho bản thân chúng có phải là cách tốt nhất để đạt được mục đích mong muốn hay không.
Tất nhiên, vấn đề về áp lực và sự kiểm soát vượt xa tác dụng của phần thưởng. Một điều quan trọng trong nghiên cứu của Ryan về việc trao thưởng theo hai cách khác nhau - một cách nhấn mạnh áp lực và sự kiểm soát, cách còn lại thì không - là nó cho thấy nhiều sự kiện hay biến cố khác được cho là làm xói mòn động lực nội tại có thể đã không lâm vào tình trạng đó nếu chúng ta sử dụng chúng một cách thận trọng hơn.
Nghiên cứu về sự cạnh tranh mà tôi cùng các sinh viên tiến hành trước đó đã phần nào gây tranh cãi. Đơn giản vì con người không muốn tin rằng sự cạnh tranh làm suy yếu động lực nội tại. Sau những kết quả đắt giá đúc kết được từ nghiên cứu về phần thưởng của Ryan, tôi cùng một đồng nghiệp, anh Johnmarshall Reeve, quyết định tìm hiểu chính vấn đề đó ở phương diện cạnh tranh. Về căn bản, chúng tôi để cho một đội chiến thắng cuộc thi sau khi bị ép phải thắng - chúng tôi đã dùng “mưu mẹo của Vince Lombardi12” khi nói với họ rằng chiến thắng là tất cả - và một đội khác thắng cuộc thi mà không bị gây thêm sức ép. Thú vị là kết quả của chúng tôi cũng giống như của Ryan. Khi chúng tôi hướng các thành viên trong đội đến với cuộc thi bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh bại đối thủ, thì sự cạnh tranh hoàn toàn bất lợi cho động lực nội tại của họ. Nhưng khi chúng tôi không gây thêm áp lực, mà chỉ đơn giản động viên họ nỗ lực hết sức và cố gắng hoàn thành trước, thì sự cạnh tranh đã không gây hại.
12 Vince Lombardi (1913-1970) là huấn luyện viên bóng bầu dục huyền thoại của Mỹ. Tên ông được ghi trên cúp của giải Super Bowl (Siêu cúp bóng bầu dục).
Trong nghiên cứu về sự cạnh tranh này, chúng tôi còn có một đội không bị gây áp lực đã để thua cuộc thi, ở đội này chúng tôi phát hiện mức động lực nội tại cực kỳ thấp. Tuy tất cả những phát hiện này nói chung đều chỉ ra rằng sự cạnh tranh không nhất thiết xói mòn động lực nội tại, nhưng nó là một vấn đề khá nhạy cảm. Việc ép buộc người ta phải thắng, một chuyện dường như quá hiển nhiên trong những tình huống có tính cạnh tranh, có khả năng tạo ra tác động tiêu cực, ngay cả với người chiến thắng. Và dĩ nhiên, đối với người bại trận thì tác động đó còn tồi tệ hơn nhiều.
***
Với việc chấp nhận lập trường chung không công nhận việc phụ thuộc vào phần thưởng, sự đòi hỏi, đe dọa, giám sát, cạnh tranh và đánh giá khắt khe là những con đường tạo ra động lực cho hành vi của con người, tôi không ủng hộ - dưới bất kỳ hình thức nào - sự dễ dãi. Việc thiết lập giới hạn, các cấu trúc và mục tiêu thường được coi trọng ở trường học, tổ chức, cũng như trong các nền văn hóa, dù không thể mong chờ người ta thích chúng. Chẳng hạn như, việc cho phép trẻ em ném sơn màu vào nhau (người hoang dã cao quý13 thì không tính) hoặc để cho nhân viên nhàn tản làm việc bất cứ khi nào họ thích thì quả thật không hợp lý. Vậy, câu hỏi thật sự quan trọng là: Làm sao chúng ta có thể tránh được sự dễ dãi, mà không gây tắc nghẽn? Làm sao để vừa có thể ủng hộ sự tự chủ vừa đặt ra giới hạn? Các tiêu chuẩn và giới hạn có thể sử dụng như thế nào để một người trong tình thế bất lợi có thể sống trong những giới hạn mà vẫn giữ được cảm giác tự khởi xướng, và nhờ vậy, họ không đánh mất động lực nội tại?
13 Nguyên văn: noble savage. Đây là một hình tượng được dùng nhiều trong văn chương - một con người thoát khỏi những ảnh hưởng của nền văn minh, và do đó tượng trưng cho lòng tốt bẩm sinh của con người.
Ủng hộ sự tự chủ, thứ hoàn toàn đối lập với sự kiểm soát, có nghĩa là ta có thể đứng ở góc nhìn của một người khác và nỗ lực từ góc nhìn đó. Nó có nghĩa là tích cực khuyến khích tự khởi xướng, thử nghiệm và trách nhiệm, nhưng nó cũng có thể đòi hỏi phải đặt ra những giới hạn. Nhưng việc ủng hộ sự tự chủ nên được thể hiện bằng cách động viên chứ không phải gây áp lực. Đưa ra lời động viên mà không rơi vào tình trạng kiểm soát có vẻ khả dĩ, nhưng không hề dễ dàng. Chúng ta đều biết rằng ủng hộ sự tự chủ có thể khó khăn hơn là ép buộc, vì nó cần nhiều nỗ lực và kỹ năng.
Dựa vào những gì đúc kết được từ nghiên cứu các phong cách trao thưởng khác nhau, Ryan quyết định khám phá câu hỏi rằng liệu các giới hạn và sự tự chủ có thể tồn tại đồng thời hay không. Anh đã hợp tác với Richard Koestner (hiện là giáo sư tại Đại học McGill ở Montreal) và xác định một môi trường kinh điển đòi hỏi cả giới hạn và sự tự chủ sáng tạo: mỹ thuật ở trẻ em. Ý tưởng nghiên cứu được đề ra là cho những đứa trẻ (năm và sáu tuổi) tham gia một nhiệm vụ sáng tạo, nhưng tiềm tàng sự hỗn loạn, là cùng vẽ một bức tranh. Những giới hạn liên quan đến sự ngăn nắp được đưa ra theo hai cách khác nhau - một cách mang tính kiểm soát như truyền thống, cách còn lại khuyến khích tự chủ và không kiểm soát. Cách kiểm soát khá đơn giản: sử dụng ngôn từ ép buộc (“Hãy là một đứa trẻ ngoan và giữ cho dụng cụ gọn gàng vào nhé” hay “Làm việc cần làm thôi và đừng có trộn lẫn lộn màu với nhau”).
Cách khuyến khích tự chủ, bao gồm giảm thiểu áp lực bằng cách tránh những ngôn từ mang tính kiểm soát và cho phép lựa chọn càng nhiều càng tốt, đòi hỏi phải tinh tế hơn. Khi thiết lập những giới hạn, luôn có khả năng xảy ra xung đột bởi vì bạn đang yêu cầu người khác làm điều mà họ có thể không muốn làm. Đó là vấn đề quan trọng duy nhất đối với các giới hạn. Koestner và Ryan cho rằng sẽ có ích nếu nhận ra sự xung đột này, vì nó cho thấy người lớn coi trọng quan điểm của trẻ, nhờ đó bọn trẻ sẽ bớt cảm thấy bị điều khiển từ bên ngoài. Đối với nhóm có những giới hạn và khuyến khích tự chủ, họ nói rằng: “Chú biết rằng đôi khi đổ màu vẽ ra lung tung cũng vui đấy, nhưng chúng ta cần giữ cho số dụng cụ và căn phòng này gọn gàng để các bạn nhỏ khác còn sử dụng nữa”.
Thật đáng khích lệ, từ quan điểm tích lũy các nghiên cứu của chúng tôi, kết quả thu được rất ấn tượng. Chỉ cần vài thay đổi đơn giản trong cách hướng dẫn cũng đủ để tạo ra sự khác biệt. Tình huống khuyến khích sự tự chủ dường như có tác động tích cực tới bọn trẻ, trong khi tình huống kiểm soát lại gây suy yếu động lực nội tại. Bọn trẻ cảm thấy người lớn ít nhất cũng hiểu chúng đã tỏ ra nhiệt tình và có nhiều động lực nội tại hơn những đứa trẻ bị kiểm soát trong giới hạn. Cứ như người ta có thể nhìn thấy ngay tại đây cả uy lực và những hiểm họa của việc đặt ra giới hạn trong mọi tình huống cuộc sống, khi mà một người nào đó ở vị thế có uy quyền có thể tối ưu hóa trải nghiệm của cá nhân hoặc khiến họ bị cụt hứng - tùy vào phong cách liên cá nhân của mình.
Việc đặt ra giới hạn là cực kỳ quan trọng để thúc đẩy trách nhiệm, và những phát hiện của nghiên cứu này là nhân tố chính cho cách thực hiện điều đó. Khi đặt ra giới hạn theo hướng khuyến khích sự tự chủ - hay nói cách khác, khi xem bản thân bạn ngang hàng với người bị giới hạn, công nhận rằng người đó là một đối tượng chủ động, thay vì một mục tiêu để thao túng hay kiểm soát - ta sẽ có thể khuyến khích tinh thần trách nhiệm mà không hủy hoại chân nguyên của người đó.