Tiếng chuông báo hết tiết vang lên; đám sinh viên nhốn nháo đổ ra cửa giảng đường, nhanh đến mức khiến người ta tưởng tiếng chuông đó là chuông báo cháy. Đám đông lướt đi nhanh như gió, còn Lang và tôi thì bắt đầu hành động khi đã vãn người. Cùng nhau, chúng tôi đi xuống các bậc thang, không nhìn nhau, và cũng không nhìn bất kì ai khác ngoài kẻ mà cả hai chúng tôi cùng đang nhắm tới: Newman Smith. Người khác có thể nghĩ rằng tôi sẽ cảm thấy thấy lo lắng trước khi đến gặp kẻ có khả năng đang bám đuôi mình.
Nhưng tôi không hề.
Trong tôi không có chút do dự hay sợ hãi nào khi phải đối mặt với kẻ rất có thể đang theo dõi mình, và tôi cũng có lý do chính đáng để không sợ hắn. Đơn giản là vì tôi cảm thấy so với việc để hắn âm thầm quan sát mình trong bóng tối thì đối mặt trực tiếp sẽ dễ dàng hơn nhiều. Thời điểm vạch mặt được kẻ thù của mình cũng là lúc bạn bắt đầu hiểu và đánh bại hắn.
Newman đang đứng phía sau bàn, sắp xếp lại giấy tờ và làm ra vẻ không biết chúng tôi đang đến gần, nhưng tôi không tin điều đó. Có một vài dấu hiệu cho tôi biết rằng Newman đã nhận ra. Sống lưng ông ta thẳng đứng, và cử động thì cứng nhắc hơn bình thường. Chúng tôi đã đi xuống được một đoạn dài như vậy rồi mà ông ta vẫn giữ nguyên tư thế đó, đây cũng là một dấu hiệu. Đối với tôi, điều này cho thấy rằng ông ta đang cố giấu mình khỏi ánh mắt dò xét của chúng tôi, đồng thời không để chúng tôi có cơ hội nghiên cứu những đặc điểm và sự rối loạn trong nội tâm của mình từ xa.
Chúng tôi vừa mới đến trước bàn thì ông ta đã quàng cặp sách lên vai và quay người về hướng cửa như thể đang chuẩn bị ra về.
“Ông Newman Smith?” Tôi hỏi, buộc ông ta phải dừng lại.
Ông ta dừng bước, như thể không muốn quay đầu lại, nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận rằng bản thân đang ở thế yếu với một sự kháng cự rõ ràng và lại thẳng người đối mặt với chúng tôi ở sau chiếc bàn gỗ dày. Giờ Lang và tôi đang đứng ở phía đối diện, nhưng đôi mắt màu xanh lục của Newman lại chỉ để ý đến một mình tôi, và ông ta thể hiện điều đó rất rõ ràng. Trong vài giây đó, tôi đã chờ đợi sự độc địa đó sẽ đổ ập xuống người mình. Tôi đã rất sẵn sàng chào đón thứ cảm giác quen thuộc ấy, nhưng chuyện này thật không đơn giản chút nào. Nhưng ở đây có gì đó, rất không tự nhiên, không giống như các bạn và tôi.
“Các người là ai, và cần gì?” Ông ta hỏi thẳng thừng.
Nhìn ánh mắt thì có vẻ ông ta không nhận ra tôi, nhưng cũng có thể ông ta thật sự biết tôi, và phản ứng này là do ông ta đã chuẩn bị và luyện tập từ trước mà có. Tôi giơ phù hiệu ra. “Thám tử Samantha Jazz. Còn đây” – Tôi chỉ về phía Lang – “là Thám tử Langford. Chúng tôi muốn hỏi ông vài câu.”
“Nếu là về buổi tiệc mà mấy đứa sinh viên của tôi tham gia ngày hôm đó thì tôi đã khai hết với cảnh sát rồi.”
“Vậy là bốn ngày trước chúng nó đã giết người trong một hiệu sách đúng không?” Lang hỏi. “Nếu đúng thì vâng, chúng tôi đến đây vì chuyện đó.”
Đó là cách của Lang. Làm “cớm xấu” để đối phương bị sốc và lung lạc, trong khi tôi làm “cớm tốt” và đứng ngoài quan sát khi thời điểm thuận lợi đến.
Newman đã đưa ra một câu trả lời thuyết phục. “Gì chứ? Xin lỗi.” Ông ta đặt cái cặp xuống. “Giết người á? Tôi tưởng chúng nó chỉ treo ngược một thằng cởi truồng trong ký túc xá nam thôi.”
“Chỉ treo ngược một thằng cởi truồng thôi à?” Lang thêm vào.
“Không. Không.” Giờ thì Newman giơ tay lên. “Tôi không có ý bác bỏ, nhưng mà thằng bé vẫn sống. Giết người thì lại là một cấp độ khác của sự đồi bại rồi.”
Đồi bại.
Từ đó làm tôi thấy khó chịu vì nhiều lý do mà tôi sẽ phải phân tích sau. “Nghe nói ông có quan tâm đến thơ phải không?” Tôi xen vào.
Cả người ông ta tái nhợt đi. “Xin lỗi nếu nãy giờ tôi quay đầu qua lại quá nhiều lần, nhưng những câu hỏi và quan điểm của hai người chẳng ăn nhập gì với nhau cả. Rốt cuộc thì chúng ta đang nói về chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi đang xử lý một vụ án cần có chuyên gia về thơ,” tôi nói. “Và ông là một lựa chọn.”
Ông ta lườm tôi, trong ánh mắt hiện rõ sự bực bội. “Tôi không mắc lừa mấy cái mánh của cô đâu, thám tử ạ. Cô muốn gì? Cô thực sự muốn cái gì?”
“Ông biết chúng tôi muốn gì mà.” Tôi hỏi ngược lại ông ta. “Nói xem chúng tôi muốn cái gì nào?”
“Rõ là các người muốn hỏi về vụ giết người trong cái hiệu sách nào đó mà. Vậy tại sao chúng ta không làm thế này?” Ông ta còn không đợi tôi trả lời, rút điện thoại ra khỏi túi. “Nói cho tôi ngày và thời gian xảy ra vụ án. Tôi sẽ cho cô bằng chứng ngoại phạm. Cô xác nhận bằng chứng ngoại phạm rồi đi làm việc của mình, đi bắt tên sát nhân thật sự ấy.”
“Ngày 14 tháng Tám.” Lang nói. “Cả ngày cả đêm luôn. Chúng tôi cần biết mọi chi tiết.”
Ông ta lại đút điện thoại vào túi. “Tôi còn không phải nhìn lịch nữa kìa. Ngày 14 tháng Tám là sinh nhật con trai tôi. Hôm ấy tôi ở cùng vợ và gia đình. Cả ngày cả đêm luôn.”
“Cô ấy có thể xác nhận chuyện này không?” Tôi hỏi.
“Tất nhiên là có.” Giọng ông ta trở nên cao ngạo và mất kiên nhẫn. “Còn gì nữa không?” Ông ta liếc nhìn chiếc Rolex của mình. Tôi tự ghi nhớ rằng phải hỏi về thu nhập của ông ta. “Tôi còn tiết dạy.” Ông ta nhấn mạnh.
Lang khịt mũi với vẻ khinh thường. “Còn chúng tôi thì có một người đã chết sắp sửa đến dự lễ tang sớm của chính mình. Con ông bao nhiêu tuổi rồi?”
Newman bặm môi. “Mười hai. Mà nó thì có liên quan gì?” “Ông đưa thằng bé đi tổ chức sinh nhật ở đâu?” Tôi hỏi.
“Chúng tôi ở nhà. Chuyện này kết thúc ở đây thôi.” Ông ta lại đeo cặp lên vai, rồi quay người bỏ đi.
Theo tôi thấy thì ông ta không đặt câu hỏi như cách phần lớn mọi người vẫn thường làm. Ông ta không muốn biết nạn nhân là ai, cũng không muốn biết tại sao chúng tôi lại chú ý tới mình. Cũng có thể ông ta không cần thiết phải làm vậy. Vì ông ta biết cả rồi.