Lang đỗ chiếc Mustang trên đường vào gara của căn nhà to rộng như cái biệt thự của Newman, nằm trong khu thượng lưu Westlake của thành phố Austin. Cả hai chúng tôi cùng nhoài người ra phía trước, nhìn kỹ tòa nhà hai tầng tuyệt đẹp sơn màu xanh xám. Lang huýt sáo. “Thế là lão sống trong hai triệu đô đấy. Hẳn là Đại học Texas trả lương cao lắm.”
“Chắc vậy,” tôi đồng ý, “nhưng mà theo hồ sơ thì hắn đã được thừa hưởng năm triệu đô tiền quỹ tín thác từ cha mình.”
“Thằng khốn này vừa giàu vừa sướng rồi còn chưa toại nguyện.” Lang lầm bầm. “Anh mà có năm triệu là anh phải mua thuyền đi cưa gái liền ấy. Chắc chắn anh sẽ không nghỉ hưu vì mấy thằng khốn nạn như gã này. Ý anh là, khốn kiếp. Rõ là chả thiếu cái gì, thế mà còn đi giết người.”
”Mà thậm chí là lão còn chưa xong việc đâu.” Tôi nói.
Anh quay ngoắt về phía tôi. “Chúng ta đều biết tiền và quyền lực giống như một miếng bít tết chín kĩ vậy. Văn phòng Công tố Quận khó mà nhai được hắn đấy. Chúng sẽ không để ta tóm gã đó đâu, nếu không có đủ một mớ bằng chứng.”
“Chiều nay em sẽ gọi cho Văn phòng Công tố Quận để xem bên đó yêu cầu có những gì thì mới đủ điều kiện bắt người.”
“Ờ. Làm vậy đi, nhưng chắc chắn chúng sẽ đổi ý khi lão kiếm được tay luật sư giỏi như quỷ nào đó, rồi phóng hỏa tòa án để hắn không phải ngồi tù.”
“Thế thì có lẽ chúng ta sẽ phải xử lý vụ này thật tốt thôi.” Tôi với tay ra cửa.
Anh càu nhàu cái gì đó không rõ, rồi mới mở cửa đi theo tôi.
Chúng tôi ra khỏi chiếc Mustang rồi đi bộ trên vỉa hè xung quanh nhà ông ta, những hòn đá trang trí và những bông hoa vàng nở dọc lối đi. Thậm chí giữa vườn còn có cả một chiếc ghế gỗ xinh xắn nữa.
Nhìn bề ngoài thì mọi thứ thuộc về căn nhà này đều cho thấy niềm vui và hình ảnh của một gia đình hoàn hảo, nhưng trên đời này làm gì có gia đình nào hoàn hảo cơ chứ. Nhất là nơi mà kẻ giết người hàng loạt lựa chọn để ẩn náu.
Chúng tôi bước lên hiên nhà có mái che, trên hiên đầy những chậu hoa cũng trồng thứ hoa màu vàng ấy. Lang ấn mạnh chuông cửa, và chúng tôi không phải đợi lâu. Cánh cửa mở ra và một người phụ nữ mặc quần jeans cùng áo phông và một đôi giày thể thao hiệu Chuck Taylor màu trắng, đúng loại tôi thích đi trong những ngày nghỉ, đi ra đón chúng tôi.
“Tôi có thể giúp gì cho hai người?” Bà ta hỏi, giọng có vẻ không tự tin lắm. Người phụ nữ này có vẻ không quá năm nhăm cân, tóc nâu, mắt xanh, và nước da thì tai tái nhợt nhạt. Ngoại hình bà ta khá giống tôi.
Tôi không hiểu những quan sát vừa mới hiện ra trong tâm trí mình có ý nghĩa gì. Ý tôi là, về lý mà nói, vốn dĩ có rất nhiều người có chiều cao và màu da giống như vậy, nhưng đâu phải ai cũng kết hôn với một kẻ mà tôi nghi ngờ là kẻ sát nhân hàng loạt đã chạy bộ cùng mình sáng nay chứ.
Lang giơ phù hiệu ra. “Thưa bà, tôi là Thám tử Langford.” Anh chỉ sang tôi. “Còn đây là Thám tử Jazz. Liệu chúng tôi có thể hỏi bà vài câu không?”
“Ôi chúa ơi.” Mắt bà ta mở to, ẩn sâu trong đó là sự hoảng loạn, nhưng cơ thể thì vẫn phản ứng rất nhanh nhẹn. Bà ta bước hẳn ra hiên nhà, rồi đóng chặt cánh cửa sau lưng lại.
“Con tôi đang ở bên trong.” Bà ta hạ thấp giọng, câu thì thầm khe khẽ nhưng gấp gáp. “Có chuyện gì với chồng tôi vậy?”
Cách dùng từ này thật đáng chú ý đấy. Thay vì nói “Chuyện gì đã xảy ra với chồng tôi?” thì bà ta lại nói “Có chuyện gì với chồng tôi?”10. “Vậy bà nghĩ chuyện gì có thể đã xảy ra với chồng mình, thưa bà Smith?”
10 Ở đây thay vì nói “Happened to…” (Chuyện gì đã xảy ra với…”) nghĩa là một điều gì đó xảy ra do một nguyên nhân ngoại cảnh tác động đến chủ thể thì bà Smith lại nói “Happened with…”(Có chuyện gì với…) mang ý nghĩa buộc tội rằng sự việc xảy đến với một người là do chính bản thân người đó gây ra. Cũng có nghĩa là bà Smith tin rằng chồng mình đã gây ra chuyện gì đó chứ không phải có chuyện gì đó bất ngờ xảy đến với ông ta.
“Ông ấy có ổn không?” Môi bà ta mấp máy, hơi thở gấp gáp. “Ông ấy... ổn không?”
“Ông ấy ổn.” Tôi trả lời, ngạc nhiên khi Newman chưa cảnh báo với vợ mình về việc chúng tôi sẽ đến. Chuyện này đúng là bất ngờ thật đấy. “Chúng tôi mới gặp ông ấy ở trường đại học khoảng một giờ trước.”
Bà nhìn qua lại giữa hai chúng tôi. “Chuyện gì thế này?”
“Chúng tôi đang điều tra một vụ giết người.” Lang nói. “Hiện chúng tôi đang loại bỏ dần các nghi phạm.”
“Ôi, tôi…” Bà ta hé môi nhưng không nói gì, sau đó mới tiếp tục. “Vậy chồng tôi là nghi phạm sao?”
Bà ta có biết.
Câu hỏi vừa rồi đã cho thấy điều đó.
Ở một mức độ nào đó, bà ta biết rằng chồng mình là kẻ giết người. Và Lang cũng thấy được điều này, chắc chắn, vì anh đang lợi dụng nó. “Sao bà lại nghĩ chúng tôi đang nói về chồng bà?”
“Vậy tôi là nghi phạm sao?” Bà ta lên giọng. “Sao tôi lại là nghi phạm được chứ?” Bà ta chắp hai tay trước ngực. “Trời ơi, mà ai chết vậy?”
“Michael Summer.” Tôi trả lời. “Bà có biết anh ta không?”
Bà ta chớp mắt. “Không,” rồi cau mày. “Tôi hoàn toàn không biết cái tên ấy. Vậy sao tôi lại là nghi phạm? Tôi còn không biết anh ta mà.”
“Vậy cũng được thôi.” Lang trả lời, vẫn không xác nhận hay phủ nhận chuyện bà ta có phải nghi phạm hay không. “Vậy liệu bà có thể cho chúng tôi biết bà làm gì vào ngày 14 không?”
“Hôm đó là sinh nhật con trai tôi.” Bà ta nhanh chóng nói. “Chúng tôi dành cả ngày hôm ấy bên nhau. Cả gia đình ở cùng nhau.”
“Cùng nhau làm gì?” Tôi hỏi.
“Chúng tôi ở nhà.” Bà chỉ căn nhà phía sau mình. “Chúng tôi tổ chức một buổi tiệc nhỏ trong gia đình, chỉ có hai vợ chồng và đám trẻ.”
“Từ mấy giờ đến mấy giờ vậy?” Lang hỏi dồn.
“Cả ngày lẫn đêm.” Bà ta trả lời. “Buổi chiều chúng tôi nướng thịt cạnh bể bơi, và đến tối thì gọi pizza, vừa ăn vừa xem Jumanji11.”
11 Jumanji: Welcome to the Jungle: là một bộ phim điện ảnh hài hước phiêu lưu hành động của Mỹ năm 2017.
“Gia đình bà đi ngủ lúc mấy giờ?” Tôi hỏi.
“Hôm đó là thứ Bảy nên bọn trẻ đi ngủ muộn hơn bình thường và cùng chơi cờ tỷ phú. Chúng nó thích cờ tỷ phú lắm. Newman và tôi thì đều phải chấm điểm bài tập cho học sinh.”
“Được rồi.” Lang nói. “Vậy ông bà đi ngủ lúc mấy giờ?”
“Tôi ngủ lúc 10 giờ. Tôi nghĩ là Newman thức khuya hơn một chút. Những bài tập ông ấy phải chấm đều chuyên sâu hơn tôi.”
“Vậy liệu nếu ông ta ra khỏi nhà thì bà có biết không?” Lang hỏi.
Bà ta như dựng đứng lên. “Tất nhiên. Ông ấy không đi đâu cả.”
Tuy thế, trường hợp có gia đình bao che như thế này là điều thường xuyên xảy ra mà. Cả nhà thì ngủ hết, còn tên giết người thì cứ thế lẻn đi. “Vậy bà có camera an ninh nào có thể xác nhận rằng không có ai ra khỏi nhà sau 10 giờ tối hôm đó không?” Lang hỏi.
Bà ta bặm môi. “Chúng tôi không lắp camera an ninh.” Lang nhướn một bên lông mày. “Nhà đẹp vậy cơ mà. Có lẽ bà cũng nên lắp để bảo vệ ngôi nhà và lũ trẻ chứ. Chúng tôi sẽ kiểm tra ở các nhà hàng xóm vậy. Chắc là họ sẽ có camera.”
Bà ta khoanh tay trước ngực. “Chắc là chúng tôi nên lắp camera.”
“Còn một điều nữa,” tôi nói. “Chúng tôi muốn xem qua bộ sưu tập thơ của chồng bà.”
“Cô muốn – hai người muốn xem qua – không được.” Bà ta giơ tay lên. “Không, tôi sẽ không để hai người vào nhà rồi dọa con tôi đâu. Không được.” Hàm bà ta cứng lại. “Nếu cô còn cần gì nữa thì chúng tôi sẽ gọi luật sư.”
“Vậy chúng tôi sẽ đi,” Lang nói, đút tay vào túi rồi lấy ra một tấm danh thiếp đưa cho bà ta. “Gọi cho tôi nếu bà nghĩ ra bất cứ điều gì mà chúng tôi cần phải biết.”
Bà ta giật tấm danh thiếp từ tay anh. “Tôi sẽ làm.”
Tôi cúi đầu chào. “Chúc bà buổi tối vui vẻ, bà Smith.”
Lang và tôi đi ra xe, và khi cả hai chúng tôi đã ngồi yên vị trong chiếc Mustang, Lang bỗng nói ra điều mà tôi không ngờ đến. “Bà ta trông giống em thật đấy.”
Tôi phớt lờ nhận xét đó và tập trung vào việc thu thập thông tin. “Bà ta thừa nhận là chồng mình có bộ sưu tập thơ, và tin rằng chúng ta đến đây là vì ông ta. Bà ta biết hắn là một con quái vật. Chúng ta có thể buộc bà ta phải khai ra.”
“Đồng ý.” Anh trả lời. “Giờ thì hãy nói lại về vấn đề trước. Bà ta giống em lắm.”
“Thì cả triệu đứa con gái tóc nâu mắt lục khác cũng giống mà.”
“Đến cả cấu trúc gương mặt cũng giống ấy. Hắn ta đang theo dõi em đấy, Jazz. Và anh thì không thích mục đích cuối cùng của chuyện này đâu.”